Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

Đấu tranh chống thủ đoạn sai trái

 Những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không ngừng củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sau khi có Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, luôn toan tính tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, lý luận trong đời sống chính trị  - xã hội của nước ta, với âm mưu cơ bản, lâu dài và rất thâm độc là xoay chuyển quỹ đạo phát triển của đất nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

          Có thể nói, nắm bắt những âm mưu, thủ đoạn, phương thức, hình thức chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị là nhiệm vụ đầu tiên để nhận diện rõ các đối tượng này, nhất là khi chúng là những kẻ thù giấu mặt, cơ hội chính trị, lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, để từ đó, chúng ta có đối sách, phương pháp đấu tranh phù hợp, đạt hiệu quả cao. 

Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, kêu gọi dùng “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác  - Lê-nin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên, rõ ràng rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Chúng trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh mác-xít, làm cho người đọc mất phương hướng, lẫn lộn, không phân biệt được đúng - sai. Chúng rêu rao rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam, giới lý luận và các nhà khoa học của ta đã dịch sai, hiểu sai quan điểm của C.  Mác, Ph.  Ăng-ghen; đồng thời, chúng diễn giải lại theo cách hiểu xuyên tạc, méo mó, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với việc công kích trực tiếp vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội. 

Thứ hai, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa bằng các luận điệu xuyên tạc như: Đảng tự cho mình đứng trên tất cả; Đảng cầm quyền phi chính danh, không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi tách biệt, đối lập “kinh tế thị trường” với “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chúng còn cho rằng chế độ hiện nay mắc “lỗi hệ thống”, đòi cải cách thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, với âm mưu không gì khác ngoài việc chống phá sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.

Thứ ba, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tình hình đất nước, rêu rao cái gọi là “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, khoét sâu các vấn đề xã hội, tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, đất đai,... nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thủ đoạn thường được chúng sử dụng là: kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi thực hành tôn giáo trái pháp luật; kích động giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình. Chúng kích động, “hà hơi tiếp sức” cho những kẻ nhân danh “lòng yêu nước” để biểu tình gây rối trật tự, trị an. Đặc biệt, trong thời gian qua, các đối tượng chống đối triệt để lợi dụng các vụ án phức tạp, nhạy cảm để kích động, xuyên tạc, quy kết, vu cáo Đảng, Nhà nước yếu kém, đả kích các cơ quan tư pháp, kích động “bất tuân dân sự” trong xã hội. 

Thứ tư, lợi dụng thông tin về những mặt hạn chế, bất cập của đất nước, các thế lực thù địch, phản động khoét sâu vào những điểm yếu kém trong thực thi công vụ của một số cơ quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý, hòng chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, âm mưu cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, hướng lái tạo ra những tư tưởng, tâm lý nghi kỵ, hẹp hòi, hành động sai trái, chống đối, bạo lực và bạo động trong cộng đồng và xã hội. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng, quy kết những biểu hiện cá biệt, những khuyết điểm của một số tổ chức đảng và cá nhân đảng viên thành bản chất của Đảng cầm quyền, từ đó kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ, đảng viên. 

Thứ năm, các thế lực thù địch, phản động tiến hành móc nối, xâm nhập vào nội bộ của ta, tìm cách phân hóa tổ chức, hòng dựng lên “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. Chúng không ngừng tìm kiếm những phần tử thoái hóa, biến chất trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ bất mãn, cơ hội chính trị, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tán phát tư tưởng phản động, chống phá Đảng, Nhà nước. Để tăng thêm sức lan tỏa, độ tin cậy của thông tin, chúng chú ý tập hợp, dẫn dụ những ý kiến, phát biểu gây “sốc” trái với đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước từ những đối tượng “dân túy”, tạo dựng ra cái gọi là chân dung “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, “những cán bộ của nhân dân”,... nhằm trực tiếp tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái. 

Thứ sáu, các thế lực thù địch, phản động phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta với các chiêu bài, như “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước kia, cổ xúy chủ nghĩa ly khai. Đáng chú ý, các đối tượng này triệt để lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để tung tin thất thiệt, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta. Chúng tổ chức tán phát các “thư ngỏ”, “tuyên bố”, “kiến nghị” để lôi kéo, kích động đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép đối với Việt Nam về các vấn đề dân chủ, nhân quyền.

Trong thời gian tới, để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng ta cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về công tác bảo vệ an ninh tư tưởng của Đảng

          Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đặc biệt là trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, cần nhận thức đúng về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; nhiệm vụ, nội dung của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng, nhận diện chính xác những nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Trọng tâm của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng hiện nay là phải đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Đảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Kiên quyết bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thúc đẩy giao lưu và hợp tác trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao đời sống của nhân dân lao động.

Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc làm chủ thông tin có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến việc định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, đúng với bản chất sự việc, tránh bị lợi dụng, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch xuyên tạc; không để rơi vào thế “bị động”, “chống đỡ” mà phải chủ động, tiến công. Do đó, các cơ quan thông tấn, báo chí phải bảo đảm việc cung cấp thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước thường xuyên, kịp thời, chính xác đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân. Đặc biệt, cần quán triệt phương châm cơ bản trong bảo vệ an ninh tư tưởng là phải coi trọng công tác chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Mặt khác, phải tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, các hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm một cách quyết liệt.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò tham mưu của cơ quan các cấp đối với công tác đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch. 

Các cấp ủy cần tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xác định mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh tư tưởng đúng đắn, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ, phù hợp, các quy chế quản lý thông tin, báo chí, xuất bản, cơ chế cung cấp thông tin, phát ngôn phân rõ trách nhiệm cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, có chính sách động viên, khích lệ phù hợp, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phù hợp để phục vụ nhiệm vụ đấu tranh.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ, công tác tổ chức, cán bộ; phòng, chống nội gián, bảo vệ an ninh quốc gia. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc phát tán những đơn, thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong phát hiện, xử lý những phần tử “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cơ hội chính trị; giải quyết triệt để các vấn đề nảy sinh; phòng ngừa, ngăn chặn sự can thiệp, móc nối của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet, mạng xã hội theo Luật An ninh mạng, trong đó, chú trọng xây dựng, hoàn thiện pháp luật và các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội; rà soát, sửa đổi, ban hành mới các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong các hoạt động sử dụng internet và mạng xã hội; tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và các quy định của Nhà nước về sử dụng internet và mạng xã hội, nhất là Luật An ninh mạng.

Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường “sức đề kháng” cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Cần chú trọng đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương; nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong hệ thống các cơ sở giáo dục - đào tạo; đổi mới chương trình, nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo. Tăng cường giáo dục những nguyên lý cơ bản, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng sáng tạo, phát triển của Đảng. Tuyên truyền sâu rộng những giá trị văn hóa truyền thống, bài học kinh nghiệm lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; xây dựng văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có lập trường, tư tưởng vững vàng, có tri thức, giàu tình cảm, đạo đức cách mạng trong sáng và lối sống lành mạnh; nhận diện rõ ràng âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật, giáo dục - đào tạo.  

Nhận thức rõ đối tượng, đối tác trong điều kiện nước ta hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Chủ động cung cấp thông tin cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo về hưu, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên…, từ đó định hướng dư luận, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.

Tiếp tục nghiên cứu, khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; làm rõ các vấn đề cần bổ sung, phát triển; nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, cần nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ; đồng thời, chủ động nghiên cứu, phê phán bản chất phản khoa học, phản cách mạng của các quan điểm sai trái, thù địch bằng các luận cứ khoa học và minh chứng bằng thực tiễn một cách thuyết phục. Quan tâm nghiên cứu để dự báo sớm tình hình thế giới, khu vực và trong nước, những điều chỉnh chiến lược của các nước lớn; dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, những biểu hiện mới của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… , để xây dựng kế hoạch, nội dung, phương thức đấu tranh cho phù hợp, hiệu quả.

Thứ tư, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, quy chế phối hợp giữa các ban, bộ, ngành của Trung ương, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương để phát hiện kịp thời, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Duy trì, thực hiện tốt chế độ giao ban phản ánh tình hình, trao đổi thông tin, thống nhất biện pháp phối hợp đấu tranh; không để các thế lực thù địch lợi dụng những yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng và Nhà nước để tạo cớ xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa các hình thức đấu tranh, kết hợp tuyên truyền, giáo dục với các biện pháp tổ chức, cán bộ, kiểm tra, giám sát; vừa “xây”, vừa “chống”, trong đó lấy “xây” làm chính. Xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh; giải quyết hiệu quả các đơn, thư khiếu nại, tố cáo; kiện toàn tổ chức tuyên giáo, xây dựng đội ngũ cán bộ sẵn sàng “phản ứng nhanh” với những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc chủ động, kịp thời thông tin làm rõ sự thật, định hướng tư tưởng, dư luận cho nhân dân, nhất là trước những sự kiện nhạy cảm, phức tạp, tạo sự thống nhất cao đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tăng cường công tác lãnh đạo các hoạt động báo chí, xuất bản, nhất là trong việc định hướng chính trị - tư tưởng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Chú trọng làm tốt công tác nhân sự tại các cơ quan văn hóa, báo chí ở Trung ương và địa phương để củng cố nội bộ thật trong sạch, vững mạnh. Xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, tăng thời lượng đăng tải các tin, bài có chất lượng, có chiều sâu đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các ấn phẩm, phương tiện truyền thông./.

Tầm nhìn và chỉ đạo chiến lược trong chiến thắng Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy dấu ấn sâu đậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm nhìn dự báo và hoạch định đường lối chiến lược, về sử dụng nhân lực và binh lực, về phương pháp tác chiến, về sự khích lệ động viên bộ đội và đồng bào ta trong chiến tranh nhân dân, làm xoay chuyển cục diện chiến trường. Chiến thắng lịch sử ấy tạo đà cho thắng lợi trên bàn đàm phán Hiệp định Giơ-ne-vơ và là minh chứng cho giá trị hiện thời về chân lý độc lập, hòa bình, hạnh phúc và sức mạnh chính nghĩa trong thời đại Hồ Chí Minh.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, đồng thời quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình và để lại những dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Một trong những cống hiến ấy là quá trình Người lãnh đạo, chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi vẻ vang, khơi dậy và phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, gắn kết và quy tụ sự đồng lòng của hậu phương và tiền tuyến, của quân đội và nhân dân, của “ý Đảng và lòng dân” trong việc hoạch định đường lối chiến lược cho phù hợp với bối cảnh, cách thức tổ chức chiến thuật và phát triển lực lượng, động viên toàn dân và toàn quân vượt qua khó khăn, nhất tề quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi.

Dự báo và hoạch định đường lối chiến tranh

Thực dân Pháp chủ trương và tổ chức xây dựng khu tổ hợp công sự Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm giành thế đứng chân ở vùng Tây Bắc và Thượng Lào, thực hiện âm mưu kéo quân chủ lực của ta lên đây để tiêu diệt, tạo điều kiện cho việc bình định ở đồng bằng và trung du, hòng làm thay đổi cục diện chiến trường Đông Dương. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ quyết định chọn tướng Na-va làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch Na-va với âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh, hòng cứu vãn tình thế thất bại của chúng. Từ giữa tháng 11-1953, thực dân Pháp, với sự giúp sức của đế quốc Mỹ, đã từng bước xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với tổng số quân hơn 16.000 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn và 3 đại đội pháo lớn, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay, tổ chức thành 8 cụm với 49 cứ điểm. Việc Na-va quyết định giao chiến ở Điện Biên Phủ là do đánh giá chủ quan về quân ta không có khả năng đánh một tập đoàn cứ điểm, lại không thể đưa vũ khí hạng nặng và tiếp tế từ miền xuôi lên Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Na-va và là điểm quyết chiến chiến lược trên chiến trường Đông Dương. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ định cơ quan lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, trong đó, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng; lực lượng tham gia chiến dịch là Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316, Đại đoàn 351, Đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn)... Tại Khuổi Tát (Định Hóa, Thái Nguyên), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Người trước khi lên Tây Bắc, nêu ra những trở ngại khi tác chiến ở xa nên không thể thường xuyên xin ý kiến Người và Bộ Chính trị. Người nói: “Tổng tư lệnh ra mặt trận. “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”(1). Lời căn dặn của Người đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành kim chỉ nam trong tư duy chiến thuật, quyết chiến chiến lược của quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vấn đề đặc biệt quan trọng là đường lối chiến tranh, phương châm của chiến dịch có ý nghĩa quyết định đến tương lai cách mạng của dân tộc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu và nhất quán phương châm chiến dịch, lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết tâm đánh chắc, tiến chắc và động viên toàn dân dốc toàn lực lượng chi viện cho tiền tuyến đánh thắng hoàn toàn. Nhận định tình hình địch đã củng cố công sự phòng ngự rất nhanh chóng, mạnh mẽ, có sự yểm trợ của không quân; trong khi phía ta tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế về quân lực và khí tài, lại chưa kinh qua hợp đồng tác chiến lớn, cùng với những khó khăn về trang bị cho bộ đội và hậu cần chưa bảo đảm kịp thời, nên Đảng đã chỉ rõ: “Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn(2).

Phương châm từ đánh nhanh, thắng nhanh được thay đổi sang đánh chắc, tiến chắc là đòi hỏi quyết tâm rất lớn, như đồng chí Võ Nguyên Giáp nói đó là “quyết định khó khăn nhất”. Đánh nhanh, giải quyết nhanh trong khi địch chưa kịp chuẩn bị củng cố trận địa phòng ngự, chủ yếu là những công sự dã chiến, một số cứ điểm lộ ra sơ hở, tiếp tế chủ yếu bằng máy bay; quân ta đã tập kết chung quanh Điện Biên Phủ, tinh thần công kiên rất cao, nhưng có bất lợi là chưa có kinh nghiệm tác chiến lớn với nhiều lực lượng tinh nhuệ và triển khai linh hoạt các biện pháp phòng ngự của quân Pháp. Đánh chắc, tiến chắc thì phải tiến hành trên quy mô lớn và diễn ra trong thời gian khá dài, trên mọi địa hình và trong công sự vững chắc kế tiếp nhau cho đến khi quân địch bị tiêu diệt và đầu hàng hoàn toàn. Đánh chắc, tiến chắc thì công tác chuẩn bị kéo dài; thời gian chiến đấu kéo dài sẽ phát sinh nhiều khó khăn mới, do địch có thời gian thúc đẩy chi viện tiếp tế và củng cố trận địa, đánh phá ngày càng ráo riết, ác liệt làm cho bộ đội ta sẽ gặp khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng, còn công tác hậu cần tiếp tế sẽ phải diễn ra dài ngày và tăng lên.

Trong khi đó, phía địch đã đề ra kế hoạch phòng thủ gồm bốn bước: 1- Dùng không quân oanh tạc, nhằm làm chậm bước tiến của quân ta trên các tuyến giao thông chính từ Yên Bái và Thanh Hóa đi Tây Bắc; 2- Đánh phá và đánh chiếm hòng đánh bật quân ta ra khỏi Lai Châu; 3- Oanh tạc gây thiệt hại và chặn các cuộc tiến công của quân ta vào Điện Biên Phủ; 4- Khuếch trương lực lượng, mở rộng vùng chiếm đóng. Những khó khăn đó càng làm nổi bật tính sáng tạo và quyết tâm lớn lao của chúng ta. Lực lượng của ta tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị làm đường mở đường kéo pháo, xây dựng trận địa, chuẩn bị lực lượng bộ đội về mọi mặt, hầm trú ẩn, hậu cần và theo dõi chặt chẽ tình hình địch.

Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn vào ngày 13-3-1954 và đã diễn biến làm ba đợt: 1- Đánh chiếm, tiêu diệt các vị trí Him Lam và phân khu bắc (phía bắc và đông bắc); 2- Bao vây, khống chế sân bay, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch ở khu vực phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm, thu hẹp phạm vi chiếm đóng các ngọn đồi phía đông và vùng trời của địch; 3- Đánh chiếm các điểm cao cuối cùng ở phía đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân địch. Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, ngày 7-5-1954, với 3 đợt tiến công, quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống hơn 16.000 tên địch, trong đó có tướng Đờ Cát-xtơ-ri và bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm, thu toàn bộ vũ khí, trang bị quân sự của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh điểm là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã đập tan kế hoạch Na-va.

Nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là chủ trương kiên quyết kháng chiến, xác định phương châm và cách đánh, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, đoàn kết trên dưới đồng lòng theo đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người lãnh đạo và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung lực lượng, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, phát huy thế mạnh của ta để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này. 

Tranh vẽ tái hiện Chiến dịch Điện Biên Phủ_Nguồn: toquoc.vn

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân, huy động nhân lực và binh lực

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung và Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng đều mang chiến lược đại đoàn kết toàn dân và tính chất nhân dân sâu sắc, “là điển hình thành công của việc quán triệt và tổ chức thực hiện tư tưởng chiến tranh toàn dân, toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta(3).

Xuất phát từ niềm tin vào tinh thần yêu nước, đoàn kết, sáng tạo của đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm động viên quân và dân ta trong quá trình chuẩn bị cho đến khi giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Người đã gửi nhiều thư động viên, cổ vũ, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn để làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Tháng 12-1953, trong Thư gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ, Người khẳng định: “Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”(4).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ đạo rất quan trọng về chiến tranh toàn dân với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Đó là tư tưởng của Người về chiến tranh nhân dân ở cơ sở và chiến tranh nhân dân ở địa phương, động viên đồng bào bám trụ và làm chủ bản làng, quê hương, đường phố để đánh địch. Đáp lại lòng tin cậy của Người vào sức mạnh của đồng bào và bộ đội, nên trong quá trình chuẩn bị và tác chiến tại chiến trường Điện Biên Phủ đã có nhiều sự đùm bọc, chia sẻ, quyết tâm và sáng tạo, như việc chặt tre nứa luồn xuống dưới lớp cỏ rồi chống lên như giàn mướp tạo thành giàn ngụy trang cho con đường kéo pháo vào các điểm trận địa được an toàn; phong trào “săn Tây, đánh tỉa”, đánh tập kích quân địch và giữ vững trận địa. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phát huy nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là cách đánh du kích, đánh điểm, diệt viện, chiến thuật “điệu hổ ly sơn”… Ngày 16-1-1954, trong bài viết Đẩy mạnh phong trào du kích dưới bút danh Nguyễn Thao Lược đăng Báo Nhân dân, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ to lớn của lực lượng du kích trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện; giới thiệu vài kinh nghiệm thiết thực trong việc đánh giặc, như biết địch, biết ta, đánh giặc, thương dân. Cuối bài viết, Người khẳng định: “Chúng ta phát triển lực lượng du kích mạnh mẽ rộng khắp, thành một “thiên la địa võng”, giặc đi đến đâu là bị tiêu diệt đến đó, thì giặc nhất định thua, ta nhất định thắng”(5). Đó chính là tư duy của Người về phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tạo sức mạnh kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá cao sự chuẩn bị của các bộ phận tham gia chiến dịch, hợp đồng tác chiến của các đơn vị và quyết tâm quyết chiến, hy sinh của quân dân ta.

Sức mạnh vĩ đại của toàn quân, toàn dân ta đã làm nên mọi thắng lợi trong lịch sử. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, phía địch đã không đánh giá đúng tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân, toàn quân, toàn Đảng ta. Tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường đó đã giúp toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, khắc phục những hạn chế về lực lượng, khí tài và làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thi đua, khen thưởng kịp thời cho quân dân, tạo động lực trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc. Ngày 15-2-1954, Người đã ký Sắc lệnh số 201-SL, tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho đồng bào và cán bộ khu Tây Bắc; ông Bùi Hương Chất (truy tặng) - Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Khu Tả Ngạn. Ngày 15-3-1954, Người gửi điện thăm hỏi, khen thưởng toàn thể cán bộ và chiến sĩ đã giành thắng lợi trong hai trận đầu tiên ở mặt trận Điện Biên Phủ và bày tỏ quyết tâm: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Địch sẽ ra sức đối phó, ta phải cố gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này”(6)… Theo đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng gửi Lệnh động viên đến từng đơn vị: “Đây là chiến dịch công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta từ trước đến nay… Giờ ra trận đã đến! Tất cả các cán bộ và chiến sĩ, tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch”(7). Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên phát huy cao độ tinh thần yêu nước của đồng bào và chiến sĩ, để rồi 55 ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, bao nhọc nhằn vất vả, hy sinh bao xương máu để chiến thắng. Ngày 19-5-1954, Người có cuộc gặp gỡ các chiến sĩ đã lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và gắn huy hiệu cho Hoàng Đăng Vinh, người đã bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri; tối cùng ngày, Người mở tiệc chiêu đãi các chiến sĩ đã lập công trong chiến thắng Điện Biên Phủ.

Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ nhiều ngày hoặc thậm chí sau nhiều năm, Người vẫn gửi thư đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ. Người thăm hỏi những gia đình có liệt sĩ, các thương binh, đặc biệt là Người có ý định thưởng huy hiệu cho tất cả là “Chiến sĩ Điện Biên”.

Diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2024)_ Nguồn: chinhphu.vn

Cách thức phát triển tầm nhìn chiến lược và chiến thuật

Tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh về xác định mục tiêu, nhiệm vụ và “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong quá trình tiến hành cách mạng. Cuối tháng 9-1953, tại bản Tỉn Keo (thuộc thôn Lục Giã, nằm dưới chân núi Hồng, huyện Định Hóa, Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị bàn kế hoạch tác chiến Đông - Xuân. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình địch, Người nhấn mạnh: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”(8) - bàn tay Người mở ra, mỗi ngón tay chỉ về một hướng. Kết thúc cuộc họp, Người nói: “Phương hướng chiến lược không thay đổi”. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hành động có thể thay đổi. Phép dùng binh là thiên biến vạn hóa(9)...

Trên cơ sở phát triển thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc, Ban Chấp hành Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến tinh thần cách mạng, xác định và hoàn thành các nhiệm vụ: “Tiêu diệt sinh lực địch”, “tranh thủ nhân dân”, “chúng ta phải sửa đường, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, anh dũng chiến đấu, chịu đói, chịu rét, trèo đèo lội suối, đi xa vác nặng, tìm đến tận sào huyệt quân địch để tiêu diệt chúng, để giải phóng đồng bào ta”(10).

Ngày 21-3-1954, trong bài viết Kế hoạch AV-AN dưới bút danh C.B đăng trên Báo Nhân dân, Người đã nêu những thất bại của quân đội Pháp từ ngày 1-1 đến ngày 10-3-1954 trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt là trên mặt trận đánh giao thông vận tải (Kế hoạch “đánh què giặc” của ta). Người dự báo trước rằng: “Kế hoạch Nava của địch đã thất bại một phần và nhất định sẽ thất bại hoàn toàn vì “ta đã đánh cho kế hoạch Nava què hóa ra kế hoạch AV-AN””(11).

Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp dự báo tình hình, tạo lực, lập thế và tranh thủ thời cơ. Người đã nhận định tình hình lợi thế và thực lực của địch, những bất lợi của thực dân và sử dụng những thông tin báo chí nhằm góp phần đẩy mạnh quyết tâm và khí thế cách mạng của quân dân ta. Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng cách mạng (lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần, bố trí lực lượng, xây dựng trận địa, tình hình quân sự và địa hình, diễn biến tác chiến) cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trên Báo Cứu quốc số 2358, ra ngày 22-2-1954, trong bài viết Phản động Pháp mắng thực dân Pháp, Người viện dẫn những bình luận trên các báo của Pháp, như Báo Thời tiết (ngày 20-1-1954), Báo Lơ Phigarô (ngày 22-1-1954), Báo Dân chúng (ngày 4-2-1954) và khẳng định: “Bọn đế quốc khi tạm thắng thì huênh hoang, khi thất bại thì lục đục. Bởi vì giặc Pháp thất bại liên tiếp, cho nên báo chí phản động Pháp hoang mang và cằn nhằn”(12). Người chỉ dạy, người cách mạng khi tạm bại thì không nản, khi thắng lợi thì không kiêu và có niềm tin rằng “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”(13).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết các bài như “Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho người ở Pháp chết”,… nhằm lên án mạnh mẽ thực dân Pháp gây chiến tranh ở Việt Nam, không những giết người Việt Nam, mà còn giết cả người Pháp; bởi vì, để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tập trung tiền của mua sắm vũ khí làm cho nhiều người Pháp không có cơm ăn, không có nhà ở, rơi vào đói khổ, bệnh tật mà chết.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp kết hợp các hình thức đấu tranh, ghi nhận thành quả cách mạng được thể hiện sâu sắc qua Chiến dịch Điện Biên PhủNgười lãnh đạo, chỉ đạo phải chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo và tổng hợp mọi sức mạnh dân tộc để tạo đà tiến công thắng lợi trên mặt trận Điện Biên Phủ, kể cả việc kết hợp các hình thức đấu tranh và tranh thủ sức mạnh thời đại, của nhân dân tiến bộ ủng hộ nền hòa bình của Việt Nam. Vấn đề nổi bật trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Chiến dịch Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp so sánh tương quan lực lượng nhằm tạo ưu thế về binh lực và hỏa lực trong từng trận tác chiến, phân tích chính xác tình hình và quyết định tấn công chắc thắng qua từng trận đánh, phát triển chiến thuật và hiệp đồng binh chủng, xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch; động viên toàn dân và toàn quân thấm nhuần đường lối quân sự, đoàn kết để quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do. Kinh nghiệm quan trọng của Người về đánh giá khách quan tình hình cách mạng có những chuyển biến tích cực, thuận lợi để có những bước chỉ đạo tiếp theo ở mặt trận Điện Biên Phủ. Do đó, ngày 24-4-1954, trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn, Người đã ký ban hành Sắc lệnh số 205-SL thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính khu Tây Bắc, gồm 5 đồng chí do đồng chí Bùi Quang Tạo làm Chủ tịch, nhằm nâng cao khả năng lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, kiến quốc trong sự nghiệp cách mạng.

Ngày 7-5-1964, sau khi tròn 10 năm chiến thắng, Người ghi trong sổ lưu niệm của Nhà Bảo tàng Điện Biên Phủ, nhấn mạnh đây là chiến thắng “kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”(14).

Và sau gần 12 năm thắng lợi Điện Biên Phủ, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm (ngày 16-3-1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ đánh thắng lớn… Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”(15). Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của độc lập dân tộc đối với chủ nghĩa thực dân, đế quốc, không chỉ của Việt Nam, mà còn là thắng lợi của chính nghĩa, góp phần cổ vũ các dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập, hòa bình trên thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông Dương; đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, góp phần vào phong trào đấu tranh vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”(16)./.

-----------------------------

(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 28
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 14, tr. 59
(3) Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Điện Biên Phủ và mấy vấn đề tư tưởng chiến tranh toàn dân, toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, in trong sách Chiến thắng Điện Biên Phủ cột mốc vàng lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 97
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 378
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 390
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 434
(7) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Sđd, tr. 285 - 286
(8) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 5, tr. 301
(9) Xem: Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, t. 5, tr. 301
(10) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Sđd, tr. 268
(11) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, t. 5, tr. 353
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 412
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 413
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 320
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 60 - 61
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 315

 

Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay

TS. LÊ THỊ CHIÊN
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
17:56, ngày 14-01-2021

TCCS - Khi nghiên cứu về xã hội loài người, C. Mác khẳng định mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển nhảy vọt so với trước kia. Sự phát triển đó cung cấp thêm cho chúng ta  những chứng cứ thực tiễn thuyết phục để tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của C. Mác về lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn.

Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự vận động và phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài người. Vì vậy, C. Mác đã sớm nghiên cứu khái niệm lực lượng sản xuất. Trong các tác phẩm của mình, mặc dù ông không trực tiếp đưa ra khái niệm lực lượng sản xuất, nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập đến ngay từ những tác phẩm đầu tay.

Năm 1845, khi viết tác phẩm “Về cuốn sách của Phi-đrích Li-xtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học””, C. Mác đã phê phán quan điểm duy tâm của Ph. Li-xtơ về lực lượng sản xuất khi Ph. Li-xtơ cho rằng lực lượng sản xuất mang “bản chất tinh thần” và là cái vô hạn. Theo C. Mác, lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó, mà là những cái có sức mạnh vật chất.

Từ quan điểm duy vật về đời sống của con người nói chung và về lực lượng sản xuất nói riêng, trong các tác phẩm tiếp theo, như “Hệ tư tưởng Đức”“Sự khốn cùng của triết học”“Lao động làm thuê và tư bản”“Tiền công, giá cả và lợi nhuận”, đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất ngày càng được C. Mác và Ph. Ăng-ghen làm sáng tỏ và có nội dung sâu sắc hơn. Đó cũng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức bản chất, động lực của sự phát triển lịch sử - xã hội thông qua hoạt động lao động của con người.

Công nhân khai thác than ở Anh những năm 1900_Nguồn: Getty Images

Xuất phát điểm trong nghiên cứu của C.  Mác về lịch sử - xã hội là hoạt động sản xuất vật chất của con người hiện thực. Theo ông, bản thân con người bắt đầu được phân biệt với động vật là khi con người sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của mình. Ông viết: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”(1). Như vậy, tiền đề đầu tiên cho sự tồn tại của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu. Đó là việc sản xuất ra chính đời sống vật chất của con người. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng sáng tạo ra các mặt của đời sống xã hội. C. Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”(2). Luận điểm này đã khẳng định tính triệt để trong quan niệm duy vật của C. Mác.

Theo C. Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người. Đó là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người đồng thời có hai mặt quan hệ. Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, còn mặt khác, con người quan hệ với nhau. Mặt con người quan hệ với tự nhiên chính là biểu thị của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ của con người với tự nhiên đều tạo ra lực lượng sản xuất (chẳng hạn như quan hệ tình cảm, quan hệ thẩm mỹ, quan hệ nhận thức...). Chỉ có những quan hệ mà trong đó sự tác động giữa con người với tự nhiên tạo thành của cải vật chất phục vụ những nhu cầu của họ, đồng thời giúp họ cải biến chính bản thân mình mới được gọi là những quan hệ tạo ra lực lượng sản xuất.

C. Mác cho rằng, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải biến giới tự nhiên. Khi tiến hành sản xuất vật chất, con người dùng những công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ những nhu cầu thiết yếu của mình. Cũng trong quá trình đó, con người nắm bắt được những quy luật của tự nhiên, biến giới tự nhiên từ chỗ hoang sơ, thuần phác trở thành “thế giới thứ hai” với sự tham gia của bàn tay và khối óc của con người. Sản xuất vật chất luôn thay đổi nên lực lượng sản xuất là một yếu tố động và là một quá trình luôn được đổi mới, phát triển không ngừng.

Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác khẳng định: “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”(3).

Như vậy, theo quan điểm của C. Mác, có thể hiểu, lực lượng sản xuất là một khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.

Khi bàn đến lực lượng sản xuất, C. Mác cũng chỉ ra những yếu tố cơ bản cấu thành nên nó, đó là người lao động và tư liệu sản xuất. Theo ông, để cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, người lao động cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Trước hết, đó là sức mạnh của thể chất và trí tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người. Ông viết: “Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn tay”(4). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quá trình sản xuất vật chất vẫn chưa thể diễn ra. Ngoài bản thân chủ thể lao động, con người còn sử dụng những yếu tố khác, như “sử dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật, để tùy theo mục đích của mình, dùng những vật đó làm công cụ tác động vào các vật khác”(5). Những vật đó được C. Mác gọi là “khí quan”, giúp người lao động có khả năng nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào giới tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn. Nếu tư liệu sản xuất là điều kiện cần của quá trình sản xuất vật chất thì người lao động chính là chủ thể, đóng vai trò quyết định sự phát triển của sản xuất. Như vậy, theo C. Mác, nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất vật chất.

Công nhân làm việc trong nhà máy đúc gang ở Mỹ những năm 1900_Nguồn: alamy.com

Ngoài việc bàn đến hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất, C. Mác cũng đề cao, coi trọng vai trò của khoa học đối với sản xuất vật chất nói chung và với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng. Bằng những nghiên cứu khoa học, ông đã đưa ra một phán đoán: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”(6). Theo luận điểm nói trên của C. Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói cách khác, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã được C. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”(7).

Như vậy, đứng trên lập trường duy vật về lịch sử, C. Mác khẳng định, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong việc tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Do đó, lực lượng sản xuất cũng chính là thước đo đánh dấu sự phát triển hoạt động sản xuất vật chất của con người ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Một số điểm cần bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Ngày nay, chúng ta đang sống trong điều kiện có nhiều cái mới, rất khác so với thời kỳ của C. Mác. Khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến. Tri thức xã hội phổ biến đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như C. Mác từng dự báo; năng suất lao động, nhờ vậy, tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức đã ra đời và đang được vận hành khá hiệu quả ở nhiều nước phát triển. Quá trình quốc tế hóa mà vào thế kỷ XIX C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng nói đến trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đã thực sự trở thành quá trình toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các nước đều đang bị cuốn hút vào toàn cầu hóa.

Hơn nữa, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của đời sống xã hội nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng. Có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là “cuộc cách mạng số hóa, thông qua các công nghệ như in-tơ-nét vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại - ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số với tốc độ rất nhanh, quy mô rất lớn, tích hợp nhiều lĩnh vực, tương tác đa chiều”(8). Những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tất cả những yếu tố cấu thành của nó: trình độ của tư liệu sản xuất và trình độ của người lao động.

Trong bối cảnh đó, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói chung và quan điểm về lực lượng sản xuất nói riêng của C. Mác mặc dù có nhiều giá trị bền vững cho đến ngày nay nhưng không phải không có những điểm cần được bổ sung, phát triển. Chính V.I. Lê-nin - người đã không ngừng bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, từng nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(9).

Từ sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại trong giai đoạn hiện nay, có thể đề xuất bổ sung, phát triển quan điểm của C.  Mác về lực lượng sản xuất trên một số điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, C. Mác sống ở thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản nên ông cũng bàn nhiều đến xã hội tư bản. Khi bàn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ông cho rằng, lực lượng lao động chủ yếu của xã hội tư bản là người công nhân, là giai cấp vô sản. Đó là “một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình”, là “giai cấp những người hoàn toàn không có của”, là “họ buộc phải bán lao động của mình cho nhà tư bản để đổi lấy tư liệu sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của mình”(10); hầu như ông ít nói đến tầng lớp các bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học. Ngày nay, giai cấp công nhân không chỉ có những người lao động chân tay thuần túy, mà còn bao gồm cả tầng lớp những người trí thức. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, bản thân người lao động là công nhân cũng có sự thay đổi đáng kể. Ở thời đại của C. Mác, lực lượng lao động chủ yếu là công nhân cơ khí, đa số là lao động thủ công, nhưng ngày nay, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải phóng; trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học  - công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng, điều này đã và đang làm thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thông và lao động có trình độ cao. Do đó, việc bổ sung nội hàm của khái niệm “người lao động” là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, vì “Điều này hết sức quan trọng đối với chúng ta khi đất nước đang từng bước tiến tới nền kinh tế tri thức, khi nhiệm vụ trí thức hóa công nhân trở thành đòi hỏi bắt buộc, nếu chúng ta muốn đưa đất nước tiến kịp thế giới, tránh tụt hậu xa hơn trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới”(11).

Thứ hai, trước đây, khi nói đến lực lượng sản xuất, C. Mác nhấn mạnh nhiều đến khả năng của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Vì lẽ đó, để thể hiện khả năng của mình, con người đã dùng những phương tiện, kỹ thuật hiện đại để chinh phục ngày càng nhiều giới tự nhiên. Thực tế cho thấy, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh phục giới tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên, nên khi đề cập đến phạm trù “lực lượng sản xuất” mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục giới tự nhiên, xem nhẹ hoạt động thích nghi với giới tự nhiên là chưa đầy đủ. Theo tác giả Lý Bân, “Quan niệm như vậy không chỉ hạn chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn khó dung nạp với sự phát triển bền vững, phát triển liên tục”(12). Hệ quả của quan điểm này là “con người tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ thiên nhiên, bất chấp mọi hậu quả”(13).

Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải phóng; trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao_Ảnh: Tư liệu

Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững, quan niệm về lực lượng sản xuất cần được bổ sung khía cạnh “con người sống hài hòa với tự nhiên”. Trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự phát. Đây là giai đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sản sinh ra kỹ thuật. Nó xảy ra trước cách mạng công nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất phát triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp. Ở giai đoạn này, con người đã tận dụng những thành quả của khoa học, kỹ thuật để khai thác ngày càng nhiều tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực lượng sản xuất phát triển một cách có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người và tự nhiên ngày càng trở nên xung khắc, biểu hiện qua những thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu..., nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất vật chất của mình, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Vì vậy, thay vì phát triển lực lượng sản xuất như trước kia, ngày nay cần phải phát triển lực lượng sản xuất một cách chọn lọc, bởi “lực lượng sản xuất là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên”(14).

Thứ ba, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là mạng in-tơ-nét, khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời, với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công nghệ cùng dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa, mà là sản phẩm mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới, chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp. Ở thời của C. Mác, ông đã đề cập đến xu hướng phát triển tất yếu của nền sản xuất là “thiết lập mối quan hệ ở khắp mọi nơi trên thế giới”, nhưng chưa thực sự đặt ra vấn đề toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất. Do vậy, để có thể tiếp tục vận dụng quan điểm của C.  Mác về lực lượng sản xuất, cần mở rộng nội hàm của khái niệm này không chỉ ở trong một nền sản xuất vật chất ở một quốc gia nhất định, mà còn ở trong một nền sản xuất vật chất trên phạm vi toàn thế giới. Điều đó góp phần làm cho chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất nói riêng được bồi đắp bằng thực tiễn sinh động của thời đại ngày nay.

***

Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò to lớn của quá trình toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển đó, một mặt, cung cấp những bằng chứng thuyết phục để chúng ta tiếp tục khẳng định những giá trị đúng đắn, bền vững của chủ nghĩa Mác; mặt khác, cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất nói riêng. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là “xét lại” chủ nghĩa Mác, cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa Mác, mà là làm cho những nội dung, quan điểm của chủ nghĩa Mác có thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là việc làm hết sức khó khăn, đòi hỏi những người mác-xít phải kiên trì, có bản lĩnh và có trách nhiệm với hệ thống lý luận cách mạng và khoa học được coi là nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay./.