Thứ Năm, 4 tháng 7, 2024

  Đối ngoại Đảng - một truyền thống quý báu

Với mưu đồ, thủ đoạn tinh vi, thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch liên tục tung ra nhiều chiêu trò hòng hạ bệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và phủ nhận thành quả đối ngoại Đảng - một trụ cột quan trọng của mặt trận đối ngoại Việt Nam. Thế nhưng, tất cả những chiêu trò ấy đều bị ánh sáng sự thật xua tan, phủ nhận; càng làm cho dư luận trong và ngoài nước thêm vững tin vào vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời bày tỏ sự tán dương, cảm phục trước thành quả có dấu ấn lịch sử của công tác đối ngoại Đảng.

Không khó để nhận ra, các thành phần phản động, chống phá cách mạng luôn cố ý lấp liếm, quy chụp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ giỏi lãnh đạo “đánh nhau”, chứ không biết gì về đối ngoại; và nếu có cũng chỉ là sự ăn may, hoặc “tô hồng” thành tích. Thực tế, đối ngoại của Đảng là một truyền thống quý báu và kết quả đối ngoại Đảng là những thành tựu hết sức to lớn, có dấu ấn lịch sử.

1. Những ngày qua, trên một số trang mạng địa chỉ ở nước ngoài đăng tải nhiều bài viết có nội dung cắt ghép, bóp méo sự thật một cách trắng trợn, hòng “minh chứng” cho những chủ ý xấu xa. Các bài viết, video này có nội dung cố tình đặt điều: Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là nguyên thủ quốc gia nên không được các nước trên thế giới tiếp đón ngoại giao bằng nghi thức trang trọng; kết quả đối ngoại Đảng chỉ là sự bịa đặt, hoặc là hệ quả tất yếu của đối ngoại Nhà nước, ngoại giao nhân dân.

Nhiều “chủ bút” lớn tiếng rêu rao: Đảng tiến hành đối ngoại cũng chẳng qua là vì lợi ích của Đảng - của một nhóm quyền lực, chứ không vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong khi, một số đối tượng chống phá giả danh khoa học hoặc đội lốt “diễn giả” hồ đồ quy kết hoạt động đối ngoại Đảng là không cần thiết, chỉ nặng hình thức.

Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì lễ đón trọng thể Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam ngày 20-6-2024

Với những danh nghĩa tự xưng là: “Luật sư độc lập”, “nhà báo tự do”, “nhà dân chủ, nhân quyền”, “người Việt yêu nước”...; thông qua các hình thức trá hình, như: “thư góp ý”, “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “kiến nghị”… cho Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch và thành phần bất mãn, hiềm khích cố tình đan cài nhiều nội dung sai lệch, nhằm hạ thấp, phủ nhận kết quả công tác đối ngoại Đảng. Trong khi đó, các blogger, tài khoản mạng xã hội và các website có địa chỉ ở nước ngoài chủ ý tung tin thất thiệt về những chỉ đạo đối ngoại sai lầm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ bạn - thù, trong ứng xử với đối tác, đối tượng. Chúng “khuyên nhủ” Việt Nam nên từ bỏ chính sách “ngoại giao cây tre” vì không thể “gió chiều nào, ngả chiều ấy”; không thể chọn phe để ứng xử ngoại giao “thiếu đạo hiếu”, “thiếu nghĩa tình” với các nước láng giềng, đối tác truyền thống.

Không khó để nhận ra những thủ đoạn trên là hòng cố tình chống phá quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng ta; nhằm gây hoang mang, dao động đối với một bộ phận cán bộ, quần chúng; dễ nảy sinh các biểu hiện tư tưởng “xét lại”, “phủ nhận lịch sử”; làm thui chột động lực phấn đấu, nỗ lực cống hiến vì một nước Việt Nam đang trên đà phát triển, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hơn thế, các luận điệu chống phá còn hướng đến việc phá hoại, ngăn cản nỗ lực mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam với các nước, các chính đảng trên thế giới; khiến dư luận trong và ngoài nước nhìn nhận, đánh giá sai lệch về vị thế, vai trò, bản chất, truyền thống và sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ sự nguy hại đặc biệt đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nắm chắc tình hình; luôn đề cao cảnh giác cách mạng để có tâm thế sẵn sàng, vững vàng trong tham gia phòng ngừa, đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá bằng tinh thần, trách nhiệm cao nhất, mang lại hiệu quả cao nhất!

2. Những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dù thâm độc, xảo quyệt, nhưng xét về bản chất, đó là những luận điệu vu khống, quy chụp, không có căn cứ và mang đậm màu sắc phản động. Đó là những tiếng nói lạc lõng, bịa đặt của những kẻ lạc lối, chắc chắn không thể phủ nhận thành quả của công tác đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam.

Thực tiễn chứng minh: Ngay từ trước khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (năm 1945), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát huy hiệu quả vai trò của đối ngoại Đảng nhằm phục vụ mục tiêu cao nhất lúc đó là giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình hoạt động cách mạng, vận động thành lập Đảng cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng đã trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại Đảng trên nhiều phương diện, bằng nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo. Trên cương vị là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, các bậc tiền bối đã giải quyết tốt mối quan hệ với lãnh đạo của nhiều chính đảng, nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là với các đảng Cộng sản; thậm chí là với chính khách, chính đảng ở phương Tây và cả ở chính quốc gia đi xâm lược Việt Nam.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 1-11-1949, cơ quan chuyên trách về công tác đối ngoại của Đảng được thành lập với tên gọi Phòng Lào - Miên Trung ương (tiền thân của Ban Đối ngoại Trung ương ngày nay), trực thuộc Ban Thường vụ Trung ương. Sự kiện đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu việc “định danh” một mũi giáp công mới, hết sức quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại - đó là đối ngoại Đảng.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào Sonexay Siphandone ngày 22-4-2024 trong dịp tham dự Diễn đàn Tương lai ASEAN tại Hà Nội

Suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đối ngoại Đảng luôn chủ động mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các chính đảng, các phong trào tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam; tạo nên mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn, kết thành sức mạnh tổng hợp, đưa các cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, đối ngoại Đảng phát huy vai trò chủ động, góp phần phá thế cô lập, bao vây, cấm vận; vượt qua những biến cố và sóng gió của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trên thế giới; phối hợp hiệu quả trong việc tham mưu, đề xuất đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại. Đối ngoại Đảng có nhiều đóng góp quyết định trong việc duy trì và thúc đẩy môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; tranh thủ các điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đối ngoại Đảng đã tạo nguồn sức mạnh mới, tạo thế đứng vững chãi cho nền ngoại giao nước ta với ba trụ cột (đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân); bổ sung, hỗ trợ hiệu quả, cùng nhau triển khai thắng lợi đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.

3. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm đề ra phương hướng và các giải pháp cụ thể liên quan đến công tác đối ngoại Đảng. Đặc biệt, ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng trong tình hình mới” là dấu mốc quan trọng thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận, khẳng định vai trò quan trọng của đối ngoại Đảng. Chỉ thị nhấn mạnh, “tăng cường đối ngoại Đảng là định hướng chiến lược đối ngoại quan trọng hàng đầu” và “là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng làm công tác đối ngoại là nòng cốt”; đề ra nhiệm vụ mở rộng và đưa các mối quan hệ đối ngoại Đảng đi vào chiều sâu, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương, tranh thủ sự ủng hộ và tạo thêm sự hỗ trợ về mặt chính trị cho quan hệ nhà nước, cũng như đối ngoại nhân dân.

Tiến trình lịch sử cho thấy, công tác đối ngoại Đảng đã kế thừa, phát huy, nâng lên tầm cao mới truyền thống, bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam. Đó là cung cách ngoại giao đầy hào khí, giàu nhân văn, trọng lẽ phải, tôn trọng công lý và vì chính nghĩa. Đối ngoại Đảng giữ vai trò chỉ đạo, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà theo hướng hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước, văn hóa dân tộc, truyền thống ngoại giao Việt Nam với tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trong đó, luôn đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hòa hiếu, hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột, nguy cơ chiến tranh; giải quyết bất đồng bằng phương pháp hòa bình; gắn với thực tiễn sinh động, mau lẹ của thế giới, đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của thời đại.

Trong hoạt động đối ngoại Đảng, Đảng ta luôn quán triệt nhất quán, xuyên suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ" để biết mình, biết người, luôn làm chủ tình thế; hiểu rõ vị trí địa chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn và khu vực. Đặc biệt, coi trọng việc xử lý khéo léo quan hệ với các nước; luôn "biết mình, biết người", "biết thời, biết thế" để hành xử “đủ tâm” và “đúng tầm”; thực hiện "cương nhu kết hợp", "tùy cơ ứng biến",“dĩ bất biến, ứng vạn biến”… vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc.

Đối ngoại Đảng đã góp phần xây dựng và phát triển một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Với bề dày truyền thống quý báu, công tác đối ngoại Đảng hiện nay đã có những bước tiến to lớn, đóng góp quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp cách mạng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Công tác đối ngoại là một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước”, và “ngành Ngoại giao đã đóng vai trò tiên phong trong thời bình, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước”./.

CĐ, VS (st)

 Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng-văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Hệ quả “vạ miệng” vì lạm quyền tự do ngôn luận

Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Tháng 8-2022, Sở Thông tin và Truyền thông TP Đà Nẵng đã xử phạt vi phạm hành chính với mức 7,5 triệu đồng đối với một nhà báo đăng tải bài viết về việc Đà Nẵng đề xuất mở "phố đèn đỏ" trên mạng xã hội. Theo cơ quan chức năng, bài viết của nhà báo này có những nội dung sai sự thật, hình ảnh đăng tải nhạy cảm, không kiểm chứng làm người đọc hiểu sai vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành của TP Đà Nẵng đối với sự phát triển du lịch.

  

Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý.

Mới đây, một luật sư nguyên là Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội bị khởi tố, bắt giam trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố. Theo Bộ Công an, bị can này đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên Facebook xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Tháng 7-2023, Hamdan Al Rind-một người có ảnh hưởng trên mạng, chủ kênh chia sẻ video nổi tiếng “Chuyên gia ô tô” trên mạng xã hội TikTok với hơn 2,5 triệu người theo dõi-đã bị bắt ở Dubai vì một video hài. Trong clip này, anh ta ném những chồng hóa đơn cho những nhân viên đang ngơ ngác và đề nghị mua chiếc xe đắt nhất-một chiếc Ferrari SF90 trị giá 600.000USD. Clip được cho là sản xuất nhằm chế giễu lối sống xa hoa tại thành phố nổi tiếng với những tòa nhà chọc trời và những điểm du lịch hàng đầu thế giới này.

Nhà chức trách sau đó buộc tội Hamdan Al Rind đã “lạm dụng internet” bằng cách đăng thông tin “khuấy động dư luận và gây tổn hại đến lợi ích công cộng”. Hãng thông tấn nhà nước WAM đưa tin, clip này “quảng bá một hình ảnh tinh thần sai trái và xúc phạm về công dân Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và chế giễu họ”. Vụ bắt giữ Hamdan Al Rind dựa trên những quy định tại một đạo luật về tội phạm mạng được Các tiểu vương quốc Arab thống nhất thông qua vào năm 2021.

Nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận để không phát ngôn tùy tiện

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.

Không phạm vào “lằn ranh đỏ” giữa tự do ngôn luận và kỷ luật phát ngôn

Có thể thấy, việc hạn chế phát ngôn bừa bãi, thông tin tùy tiện trên mạng xã hội là nhằm bảo vệ cộng đồng chứ không chỉ là việc xử lý, trừng phạt những cá nhân có phát ngôn sai trái, xuyên tạc. Những thông tin sai sự thật có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đời sống xã hội. Phát ngôn gây thù ghét, phát ngôn kích động có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật, hành vi bạo lực nhắm vào những nhóm đối tượng cụ thể, hành vi kỳ thị dân tộc, giới tính, xuất thân...

Để hiểu đúng và thực hiện tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về an toàn an ninh trên môi trường số, trong đó nhấn mạnh đến giới hạn cần thiết của quyền tự do ngôn luận. Đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để thông tin sai sự thật, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát, phản biện những ý kiến, thông tin được truyền đạt trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Việc này không chỉ giúp làm rõ sự thật mà còn tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và đa chiều, đồng thời giúp ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận để gây rối, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa.

Quan tâm xây dựng mạng lưới những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOLs) tham gia phòng, chống thông tin sai trái, phát ngôn gây thù ghét, những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để bôi nhọ chế độ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... Những KOLs sẽ chủ động phát hiện, chủ động đấu tranh với thông tin sai trái, xấu độc; đồng thời lan tỏa những thông tin đúng đắn, tích cực đến cộng đồng.

Hiểu đúng tự do ngôn luận và phòng ngừa tự do phát ngôn tùy tiện gây tác hại đến an ninh tư tưởng-văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua việc tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức công dân trong sử dụng tự do ngôn luận, cũng như áp dụng các biện pháp quản lý và giám sát hợp lý, chúng ta có thể tạo ra một môi trường truyền thông lành mạnh, an toàn, đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, việc hiểu đúng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, cũng như tuân thủ nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi là việc làm thiết thực góp phần giữ vững môi trường thông tin xã hội lành mạnh; đồng thời cũng là một cách góp phần phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị./.

CĐ, VS (st)