Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

ĐẤU TRANH VỚI LUẬN ĐIỆU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

 

Thời gian qua, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta diễn ra quyết liệt, mạnh mẽ, được đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Nhưng lợi dụng việc xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng. Các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, nhằm chia rẽ Đảng với Nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, hòng thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc, chúng cho rằng công tác phòng chống tham nhũng của Đảng chỉ là sự “thanh lọc” trong nội bộ chứ không phải vì mục đích phục vụ sự phát triển của đất nước. Chúng còn xuyên tạc  rằng: tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể chế một đảng không thể chống được tham nhũng... Chúng lợi dụng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng và những yếu kém, khuyết điểm, hạn chế của ta để tìm đủ mọi cách làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chia rẽ trong nội bộ Đảng.

Chúng ta đều biết, tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là sản phẩm của sự tha hóa quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Từ những tác hại tiêu cực của tham nhũng, cùng với sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có lập trường vững vàng để đấu tranh với những quan điểm sai trái, đồng thời thực hiện nghiêm công tác phòng, chống tham nhũng.

Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa khó khăn, phức tạp, vừa cấp bách, lâu dài. Chính vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội; sự đồng lòng nhất trí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tránh xa những cám dỗ vật chất, không có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân với Đảng, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

 

PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, NÓI XẤU HÌNH ẢNH BỘ ĐỘI CỤ HỒ

Thời gian qua, trên một vài trang mạng xã hội xuất hiện một số thông tin, hình ảnh phản cảm được gán ghép cho là của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và trong hòa bình. Cần khẳng định ngay rằng đó là sự ngụy tạo trắng trợn của kẻ xấu nhằm xuyên tạc truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt giữa cán bộ, chiến sĩ LLVT với nhân dân.

Một trong những âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch là “phi chính trị hóa” LLVT, làm cho LLVT xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mất dần phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ... Khi mà LLVT không còn là chỗ dựa thì ắt sẽ dẫn đến Đảng, chính quyền không còn được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành đất nước và chế độ sẽ sụp đổ.

Đối với cách mạng Việt Nam và LLVT Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Đặc biệt sau khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng “chiến thắng không cần chiến tranh” đã được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện. "Phi chính trị hóa" LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng luôn là một trong những mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để thực hiện “phi chính trị hóa” LLVT, thời gian qua, các thế lực thù địch đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào... Thế nhưng, có thể nói những đòn thâm hiểm, những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch áp dụng nhằm “phi chính trị hóa” LLVT nói chung và quân đội nói riêng đã bị vô hiệu hóa!

Cần phải nói rõ rằng hành vi lợi dụng các diễn đàn, mạng xã hội để tung ra những thông tin, hình ảnh nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, uy tín Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hành vi vi phạm pháp luật. Đây là một loại tội phạm không gian ảo hết sức nguy hiểm, vi phạm pháp luật Việt Nam. Mục đích của chiêu trò này không gì khác là nhằm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Quân đội và Công an; chia rẽ khối đại đoàn kết, tạo sự hoài nghi, ngờ vực trong xã hội, đặc biệt là chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội nhân dân và Công an với nhân dân... Cùng với đó, xuyên tạc truyền thống cũng là cách để họ đánh vào tư tưởng hòng làm giảm sút tinh thần, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân... Những chiêu trò ấy xét cho đến cùng đều nhằm phục vụ cho mưu đồ "phi chính trị hóa" LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng mà các thế lực thù địch đang tiến hành.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải cảnh giác, tẩy chay những thông tin độc hại, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền những thông tin ảo. Nếu ai đó nhẹ dạ tin vào những tài liệu, hình ảnh ngụy tạo ấy là đã mắc mưu kẻ xấu, trúng kế của các thế lực thù địch. Để vô hiệu hóa chiêu trò này, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng đề kháng, không mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, cần hết sức tỉnh táo để nhận rõ tính ngụy tạo, xuyên tạc của những tài liệu, hình ảnh đó... Cách tốt nhất để giúp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh táo, “miễn dịch” và nhận diện rõ sự thâm hiểm đằng sau những chiêu trò ấy là phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, trang bị cho mọi người những kiến thức cần thiết. Nhận diện rõ, có kiến thức cũng là cách giúp chúng ta luôn chủ động, nhạy bén, tích cực tham gia đấu tranh, vạch trần tính chất phản khoa học, vô căn cứ trong những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch. Cùng với đó thông qua công tác dân vận cần tạo môi trường thuận lợi để phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất người Công an cách mạng ngày càng tỏa sáng trong điều kiện mới. Thông qua những nghĩa cử, việc làm tốt đẹp, đem lại hiệu quả thiết thực để tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

  

“Tam quyền phân lập” không phải là sự lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước của Việt Nam

 

 “Tam quyền phân lập” là một tìm tòi lý luận, đem lại những gợi mở có ý nghĩa để xây dựng thể chế pháp quyền, nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ và quyền con người trong xã hội hiện đại. Song, những mâu thuẫn và hạn chế của nó nằm ngay trong bản chất của nhà nước pháp quyền tư sản, ngay cả trong thuyết đa nguyên chính trị và đa đảng, trong đấu tranh quyền lực của các đảng phái chính trị tư sản nhằm giành ưu thế thao túng quyền lực nhà nước. Vì vậy, tam quyền phân lập không phải là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là một trong những phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và là điều kiện bảo đảm cho Việt Nam hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị".

Điều này nhất quán với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 “Quyền lực nhà nước là thống nhất” bởi “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, vấn đề sâu xa, cốt yếu của nhà nước pháp quyền ở nước ta là đảm bảo dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân, phát triển năng lực làm chủ và thực hành dân chủ của nhân dân trên tư cách người chủ của nhà nước và xã hội. Không phân chia quyền lực nhưng phải đặc biệt phân định, phân biệt rõ các quyền, trên cơ sở phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đổi mới đồng bộ từ Quốc hội (lập pháp) đến Chính phủ (hành pháp) và Tòa án, Viện Kiểm sát (tư pháp) “và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”, đó là tinh gọn tổ chức bộ máy đi liền với chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây là chìa khóa để giải quyết vấn đề chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Một vấn đề quan trọng khác là phải “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”. Có cơ chế bảo hiến tốt mới có thể đẩy mạnh xử lý các hành vi vi hiến một cách công khai, minh bạch, bình đẳng. Không có vùng cấm, nhà nước ở trong xã hội và của người dân chứ không đứng trên, không ở bên ngoài xã hội; kiểm soát quyền lực ở các cấp chính quyền. Đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ với cải cách tư pháp, làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức trong cơ cấu nhà nước cũng như trong hệ thống chính trị. Tăng cường các chế tài để xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, pháp chế và trách nhiệm đối với người dân. “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức”. Đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao của đội ngũ công chức, đề cao đạo đức công chức và kỷ luật công vụ để phục vụ dân có hiệu quả, tăng trưởng niềm tin và mức độ hài lòng của người dân đối với Nhà nước và công chức.

Để tạo ra những chuyển biến đó, đòi hỏi sự nỗ lực và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể trên tinh thần dân chủ, đoàn kết, đồng thuận vì thắng lợi của đổi mới và phát triển mà sâu xa là phát triển con người - người dân, những người chủ của xã hội dân chủ, của nhà nước pháp quyền.

 

ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 

Thời gian qua trên các trang mạng xã hội các đối tượng phản động có những bài viết xuyên tạc, phản ánh không đúng sự thật, đánh giá phiến diện, tiêu cực về tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Thực tế cho thấy, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự, xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân... Chính sách trên luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán. Sự ra đời của các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt hay kỳ thị bất cứ tôn giáo nào, miễn sao hoạt động của các tôn giáo nằm trong khuôn khổ pháp luật.

Sự thật là thế, vậy mà thời gian qua các thế lực thù địch, phản động luôn đưa ra những thông tin sai lệch, cho rằng Việt Nam hạn chế các hoạt động tôn giáo, cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo... Những đánh giá ấy chẳng những không phản ánh đúng bản chất tình hình mà còn phớt lờ những thành tựu của nước ta trong tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực chất đây là âm mưu lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp hay hạn chế các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chỉ là chiêu trò của các thế lực thù địch nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta.

 

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

             “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cực kỳ vẻ vang, nhưng phải lâu dài và gian khổ. Nhân dân ta cần phải có tinh thần phấn đấu bền bỉ, quyết tâm vượt mọi khó khăn, để giành lấy những thắng lợi mới rực rỡ hơn nữa” Câu nói đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong: “Lời phát biểu tại lễ bế mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa III”, ngày 03 tháng 7 năm 1964, đăng trên Báo Nhân dân, số 3748, ngày 04 tháng 7 năm 1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận rõ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cực kỳ vẻ vang nhưng cũng nhiều khó khăn, gian khổ và lâu dài. Do đó, cần sự đồng thuận, phấn đấu kiên trì, bền bỉ với một quyết tâm cao độ mới có thể đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý trí.

Thấu triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính chất của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng để Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, trước tình hình diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích của quốc gia dân tộc, thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn ý thức rõ trách nhiệm chính trị, trọng trách mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã giao phó; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân./.

 

THÁNG 7 - THÁNG TRI ÂN, THÁNG CỦA ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN

 

Có thể nói rằng, lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử được viết bằng máu và nước mắt của những người yêu nước, yêu độc lập tự do, quyết không cam chịu thân phận làm nô lệ!

Viết tiếp những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc sáng ngời những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa… ; trong thời đại Hồ Chí Minh, nhân dân ta đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vượt qua muôn vàn thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là thắng lợi của các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, gìn giữ toàn vẹn non sông.

Trong những chiến thắng đó có người ra đi và mãi không về. Có người trở về nhưng thân thể không còn nguyên vẹn. Cuộc sống dẫu còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng tháng 7 về là tháng của tri ân, tháng của đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Xin hãy một lần đến các nghĩa trang liệt sĩ ở khắp nơi trên khắp đất nước ta, trong đó có những nghĩa trang với hàng vạn ngôi mộ liệt sĩ như Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9… để cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh, sự mất mát, đau thương vô hạn của nhân dân và những hy sinh lớn lao mà các thế hệ cha anh đã hiến dâng cho Tổ quốc. Vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, hàng triệu người trong đó phần lớn là thanh niên đã hiến dâng tuổi thanh xuân và cả cuộc sống của mình, anh dũng hy sinh trên khắp các chiến trường và trong khi làm nhiệm vụ, trong đó nhiều người đến nay vẫn chưa tìm được phần mộ hoặc chưa xác định được danh tính, trên bia mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ “Liệt sĩ không có tên”.

Hiện cả nước có hàng triệu người có công và thân nhân đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng; qua rà soát, cơ bản người có công đã được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ðạo lý "Uống nước nhớ nguồn" đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ, đồng thời quyết định chọn ngày 27-7 hằng năm là Ngày Thương binh toàn quốc, sau đổi là Ngày Thương binh-Liệt sĩ, để ghi nhớ, tôn vinh công ơn các Anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và người có công với nước. Kể từ đó ngày 27-7 hằng năm đã trở thành ngày có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu sắc, mang đậm truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam.

Trong nhiều thập kỷ qua, Ðảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và gia đình người có công với nước. Hệ thống pháp luật về công tác thương binh, liệt sĩ và người có công ngày càng được hoàn thiện. Nhiều chủ trương, quan điểm ưu đãi đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, luật pháp, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng".

Chúng ta cũng hết sức trân trọng và khâm phục những cố gắng to lớn của những thương binh, bệnh binh, gia đình người có công đã chia sẻ với những khó khăn chung của đất nước, vượt qua những đau thương, mất mát to lớn, chiến thắng thương tật, bệnh tật, với tinh thần "tàn nhưng không phế" hòa mình vào cuộc sống và tiếp tục mang sức lực, trí tuệ của mình để xây dựng gia đình, quê hương, đất nước giàu đẹp. Nhiều người đã trở thành những nhà quản lý, nhà khoa học giỏi, những doanh nhân thành đạt, nhiều người đã được Nhà nước trao tặng các danh hiệu cao quý như Anh hùng lao động, Chiến sĩ thi đua, Thầy thuốc nhân dân, Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân.

Thực hiện tốt công tác “đền ơn, đáp nghĩa”, không chỉ phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc ta là uống nước nhớ nguồn, mà còn củng cố niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào việc tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội bền vững./.

 

 

 

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG THỦ ĐOẠN "NỘI CÔNG NGOẠI KÍCH" CỦA BÈ LŨ PHẢN ĐỘNG

 

          Quay lưng với lợi ích quốc gia, dân tộc, hùa theo tư tưởng thù địch, chối bỏ quê hương, đất nước… là hành vi của những kẻ vong ân bội nghĩa. Nói về hạng người này, từ xa xưa, ông bà ta đã ẩn dụ: “Qua cầu rút ván”.

          Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh đổi mới, hội nhập, không ít người trưởng thành từ môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã bất mãn, tìm cách “rút ván” trên chính cây cầu mình đang đi. Họ không ý thức được rằng, hành vi sai lầm ấy đã tạo ra lỗ hổng ngay dưới chân và tự gieo mình xuống vực sâu. Có nhiều bài học nhãn tiền, nhưng kiểu dựa hơi, thừa cơ “rút ván” vẫn cứ diễn ra…

          Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu vừa kết thúc thành công tốt đẹp chuyến công tác tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc. Đây là sự kiện ngoại giao có ý nghĩa quan trọng của Việt Nam, được truyền thông quốc tế rất quan tâm. Theo dõi dư luận, bằng thái độ khách quan, ai cũng thấy đại bộ phận truyền thông quốc tế đánh giá cao thông điệp, hiệu quả chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Tại những nơi Thủ tướng Việt Nam đến thăm và làm việc, đoàn luôn nhận được sự chào đón với tình cảm thân tình, quý trọng, ấm áp của đông đảo kiều bào. Vậy mà trên một số tài khoản mạng xã hội của một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài lại cố tình tạo dựng, chia sẻ những clip mang tư tưởng thù địch.

          Họ lu loa rằng, người Việt Nam ở Hoa Kỳ đã biểu tình phản đối chuyến thăm và làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Thực chất, cái gọi là “đoàn người biểu tình” chỉ lèo tèo vài nhóm người cực đoan, mang theo cờ ba sọc, biểu ngữ, tụ tập ở một số điểm công cộng. Kiểu dàn dựng khiên cưỡng để lấy hình ảnh làm truyền thông chống đối chỉ là tiếng hét lẻ loi, lạc phách, lạc nhịp trong dòng chảy chủ lưu mang thông điệp tích cực, khách quan, toàn diện, chính xác, kịp thời của môi trường truyền thông.

          Đáng tiếc, một số phần tử có thái độ cực đoan chính trị đã lấy đó làm cái cớ để thổi phồng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động hận thù, gây chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân ta với kiều bào ở nước ngoài, bôi xấu, hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế. Trong số những đối tượng có hành vi đi ngược lại lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, đáng buồn là có một số ít người từng được rèn luyện, trưởng thành từ môi trường giáo dục XHCN. Họ, hoặc sau khi nghỉ hưu, nghỉ việc, hoặc bất mãn vì một lý do nào đó, đã lên mạng “hóng hớt” những thông tin tiêu cực, sai trái để làm chất liệu phát ngôn. Bằng kiểu lập ngôn bóng gió, suy diễn, ám chỉ…, những bài viết trên các tài khoản mạng xã hội của họ thể hiện sự hằn học với lãnh đạo Chính phủ, hả hê trước những khó khăn của đất nước, gián tiếp cổ xúy những hành vi thù địch. Kiểu lập ngôn bóng gió, mỉa mai, ám chỉ… nhằm che giấu bằng chứng theo kiểu “nói vậy mà không phải vậy” nguy hại như loài nấm độc trên không gian mạng. Với những hành vi ấy, họ đang tự rút tấm ván trên mặt cây cầu họ đang đi. Nếu không sớm thức tỉnh, dừng lại, sớm muộn họ cũng tự đưa chân vào lỗ hổng, gieo mình xuống vực sâu.

          Đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả nặng nề của đại dịch Covid-19 và những biến động bất ổn cục bộ trên thế giới. Để đưa đất nước vượt qua khó khăn, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã nỗ lực triển khai các chủ trương, giải pháp phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội. Thúc đẩy các hoạt động ngoại giao quan trọng nhằm mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường tiềm lực, vị thế và uy tín quốc gia là vấn đề mang tính chiến lược. Những kết quả đạt được trên thực tế xuất phát từ chủ trương đúng đắn ấy đã góp phần củng cố niềm tin vững chắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất định chúng ta sẽ vượt qua thách thức, hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

          Tuy nhiên, trong bối cảnh chung đó, không ít đối tượng có tư tưởng cực đoan, bất mãn lại bám vào những thông tin tiêu cực từ hải ngoại để móc nối, cấu kết với các thế lực bên ngoài, quyết liệt thực hiện các chiến dịch chống phá Đảng, Nhà nước theo kiểu “nội công ngoại kích”. Đó chính là những hành động tiếp tay cho các thế lực thù địch nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sử dụng cờ của ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975 nhằm tôn vinh thứ “thây ma” đã chết từ lâu, vẽ ra một tương lai ảo để lừa bịp, lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin và những đối tượng có tư tưởng bất mãn.

          Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta đã cảnh báo vấn đề này: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

          Không khó để nhận diện kiểu dựa hơi, thừa cơ “rút ván” của những đối tượng cực đoan, bất mãn, dù họ đã cố tình ngụy trang bằng kiểu lập ngôn lấp lửng, ám chỉ, bóng gió… Bằng nhận thức, bản lĩnh và niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, chiến lược hành động của Chính phủ trong giai đoạn mới, mỗi cán bộ, đảng viên, công dân yêu nước hãy cùng lan truyền năng lượng tích cực trong đời sống xã hội theo tinh thần lấy xây để chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu.

          Cảnh tỉnh, nghiêm trị và đấu tranh ngăn chặn

          Nhìn lại các vụ án xét xử những đối tượng phạm tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” thời gian qua, chúng ta nhận thấy: Đa số các đối tượng trước khi sa chân vào vực thẳm đều là những công dân được nuôi dưỡng, trưởng thành trong môi trường giáo dục XHCN. Không ít đối tượng từng là trí thức, công chức trong hệ thống chính trị, có ảnh hưởng xã hội nhất định. Chỉ vì bất mãn do tham vọng cá nhân không được đáp ứng hoặc mâu thuẫn với tổ chức nên đã trở cờ, biến mình thành con rối cho các thế lực thù địch giật dây, phản bội lại lý tưởng, lẽ sống của chính bản thân và gia đình.

          Thời gian gần đây, nhiều tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội chia sẻ thông tin liên quan đến đối tượng “mẹ Nấm” (còn có tên khác là “mụ Nấm”, tên thật là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh). Theo đó, nhân vật từng gây “bão” trên một số phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại và nhiều tài khoản mạng xã hội mấy năm trước hiện đã “vỡ mộng” ở xứ người. Sau khi mãn hạn tù, năm 2018, “mụ Nấm” sang Mỹ định cư. Thời gian đầu, “mụ Nấm” được các thế lực thù địch tung hô là “người hùng”. Nhưng rồi như một miếng chanh bị vắt hết nước, khi không còn giá trị lợi dụng, “mụ Nấm” đã bị chính những người từng tung hô mình tẩy chay, ruồng bỏ, sống ê chề, nhục nhã. Đó là cái giá tất yếu phải trả cho thái độ vô ơn, ngông cuồng, ngạo mạn, tự chối bỏ quê hương, đất nước. “Mụ Nấm” là điển hình của kiểu tự rút ván dưới chân mình, sa vào lỗ hổng để cuộc đời rơi xuống vực sâu, đến khi ân hận thì đã muộn.

          Mong rằng những đối tượng trót đưa tay nhúng chàm, có tư tưởng bất mãn, đang thực hiện các hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, hãy nhìn những bài học nhãn tiền như vậy để điều chỉnh thái độ, hành vi, quay đầu là bờ…

          Mấy ngày nay, dư luận xã hội quan tâm đến vụ đối tượng Trương Văn Dũng (58 tuổi, ngụ tại phường Nam Đồng, quận Đống Đa, TP Hà Nội) bị Công an TP Hà Nội ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam để điều tra vì tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo Điều 88, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trương Văn Dũng là đối tượng từng có tiền án, tiền sự, trình độ văn hóa thấp. Vì những mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế trong cuộc sống nên bất mãn, Dũng được các thế lực thù địch phỉnh nịnh, tung hô dẫn đến ảo tưởng, ngày càng lấn sâu, điên cuồng thực hiện các hành vi tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước. Nếu chí thú làm ăn, chấp hành luật pháp, Trương Văn Dũng hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để xây dựng cuộc sống gia đình ổn định. Thế nhưng, chỉ vì ăn phải thứ “bánh vẽ” ảo tưởng do các thế lực thù địch bày ra, y đã tiếp tay, “nối giáo cho giặc”. Với những đối tượng “ngựa quen đường cũ”, không chịu ăn năn, hối cải như Trương Văn Dũng, pháp luật cần nghiêm trị để răn đe.

          Chiến lược thích ứng an toàn với dịch Covid-19, khôi phục các hoạt động kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới đã và đang đặt ra nhiều thách thức, tất yếu phát sinh những bất cập trong đời sống xã hội. Những bất cập, hạn chế, điểm nghẽn trong quản lý nhà nước luôn là cái cớ để các thế lực thù địch tập trung khai thác, xuyên tạc, chống phá. Chiến dịch tung tin giả, chiêu trò xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo sự thật, bôi đen chế độ, kích động biểu tình, gây rối, bạo loạn… đã và đang được các đối tượng phản động lưu vong ráo riết thực hiện. Mỗi cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước cần tỉnh táo, nhận diện rõ sự thật. Hành vi “rút ván” làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc của những đối tượng cực đoan, bất mãn cần sớm được nhận diện, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả bằng sự tỉnh táo và sức mạnh đoàn kết ngay từ mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội, nghề nghiệp…

                                                                Hà Nội, ngày 04 tháng 7 năm 2022

  XÁC NHẬN CỦA CHỈ HUY BỘ MÔN                  NGƯỜI VIẾT

 

 

 Trung tá Nguyễn Thanh Phong           Thiếu tá Phạm Thành Công

XÁC NHẬN CỦA CHỈ HUY KHOA

 

 

Đại tá Đỗ Văn Lừng

 

NÂNG CAO TỰ PHÊ BÌNH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

Trên báo Sự Thật số 109, ra ngày 15/4/1949, trong bài “Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách làm sao để kẻ địch không thực hiện được các thủ đoạn tuyên truyền chống phá, đó là:

“không có gì hơn là tránh các khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm”, còn nếu khi đã vi phạm khuyết điểm, thì dù “mình muốn bưng bít, người ta cũng biết”. Người còn khẳng định: “Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm của cán bộ mình là một đoàn thể hoặc chính quyền “yếu ớt”, “thoái bộ”. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ thì “uy tín chẳng những không giảm bớt” mà lại thêm cao. Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì không xứng đáng là cán bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn”.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tự chỉnh đốn, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, đề cao tự phê bình và phê bình, xác định đây là nguyên tắc quan trọng trong công tác xây dựng Đảng để khắc phục những khuyết điểm đã được chỉ ra sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã xác định triển khai quyết liệt việc tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh với tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy đảng cần lãnh đạo thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, coi đây là cách tốt nhất để tăng cường, củng cố sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Tự phê bình và phê bình phải được thực hiện nghiêm túc, triệt để, không nể nang, không “dĩ hòa vi quý”, có lý có tình trên cơ sở công vệc.

Tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình, phê bình là tự phê bình mình trước, phê bình người khác sau; cấp trên tự giác, gương mẫu tự phê bình trước để cấp dưới noi theo; phê bình từ trên xuống, từ trong cấp ủy, tổ chức đảng ra ngoài quần chúng, ai cũng thực hiện tự phê bình và phê bình, coi đây là việc làm thường xuyên.

 

VỊ TRÍ, Ý NGHĨA RẤT ĐẶC BIỆT CỦA CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY

 

Khi đề cập đến công tác tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mỗi người yêu nước đều phải làm tuyên truyền. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động của chúng ta có thể là một công tác tuyên truyền”.

Công tác tuyên truyền là một bộ phận của công tác tư tưởng, có vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, truyền tải các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng, các sự kiện, những vấn đề mới, vấn đề cấp bách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy tốt công tác tuyên truyền và đạt hiệu quả cao, sức lan tỏa rộng. Trước hết, cần ở mỗi người tính tự giác cao, tinh thần học hỏi lớn, biết phát huy vai trò làm chủ, tích cực, tự giác, sáng tạo. Bên cạnh đó, phải biết khích lệ, động viên, cổ vũ quần chúng nhân dân làm tuyên truyền. Trong đó, lực lượng nòng cốt là cán bộ, đảng viên. Có như vậy, công tác tuyên truyền mới thực sự là công cụ sắc bén trong đấu tranh, phản bác có hiệu quả trước mọi luận điệu, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Sẵn sàng đập tan chiến lược “diễn biến hòa bình”, kìm hãm hiệu quả sự suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Muốn công tác tuyên truyền có sức lan tỏa lớn phải có cách làm hay, nội dung, hình thức phong phú. Trong đó, yếu tố con người là chủ đạo. Do vậy, người làm tuyên truyền phải có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; luôn nói, viết và làm việc mẫu mực, tiêu biểu cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác thì công tác tuyên truyền mới đạt được mục đích, yêu cầu đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch: Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị đang gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Đẩy mạnh công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng, cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Là công dân Việt Nam, để xứng đáng là một công dân yêu nước, hãy cùng nhau chia sẻ, cùng nhau đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, LLVT và chế độ XHCN, để cùng nhau đoàn kết xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh và phát triển, từng bước sánh vai với các cường quốc trên thế gới như Bác Hồ hằng mong ước.

                                                                                              

NÂNG CAO TÍNH KHOA HỌC TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

 

Muốn lãnh đạo cách mạng thắng lợi, điều kiện tiên quyết là Đảng phải định ra được đường lối chủ trương, chính sách đúng đắn. Muốn đưa đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn ấy vào cuộc sống phải có tổ chức đảng vững mạnh, có phương pháp cách mạng khoa học, có năng lực tổ chức thực tiễn cao và phải có kiểm tra một cách thường xuyên, kịp thời và hiệu quả Như vậy, để nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi tất yếu phải nâng cao chất lượng từng khâu, từng hoạt động và toàn bộ quy trình lãnh đạo của Đảng. Nghĩa là: “Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng,... phải tổ chức sự thi hành cho đúng,... phải tổ chức sự kiểm soát.”[1] Để làm được điều đó, một trong những vấn đề hết sức quan trọng là Đảng phải thường xuyên nâng cao tính khoa học trong mọi hoạt động lãnh đạo, trong đó có kiểm tra - một chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận cơ bản trong toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng.

Nói đến lãnh đạo mà không nói đến kiểm tra, hoặc tách kiểm tra ra khỏi lãnh đạo đều là không đúng và sẽ dẫn đến làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta nhấn mạnh: “ Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo”  và “Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện. Đó cũng là biện pháp hiệu nghiệm đế khắc phục bệnh quan liêu”. Tầm quan trọng và hữu ích to lớn về nhiều mặt của kiểm tra đã rõ, song để công tác kiểm tra của Đảng thực sự có hiệu quả và phát huy được vai trò tác dụng của nó đòi hỏi quá trình tiến hành phải quán triệt, nâng cao tính khoa học của công tác kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm soát khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi.”[2]

Nâng cao tính khoa học trong công tác kiểm tra là một biện pháp cơ bản góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được xác định và được chấp hành triệt để ở các cấp. Có kiểm tra một cách khoa học thì mới nắm chắc được tình hình các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, phát hiện chính xác những ưu điểm, khuyết điểm trong quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Từ đó, có biện pháp cụ thể, phù hợp, thiết thực giúp đỡ cấp dưới, nâng cao trách nhiệm các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Kiểm tra một cách khoa học sẽ phát hiện kịp thời, chính xác sự đúng đắn, phù hợp hoặc sai lầm, khuyết điểm, chưa hợp lý trong đường lối, chủ trương, chính sách để bổ sung, sửa đổi, làm cho đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng hoàn thiện, sát hợp hơn với thực tiễn. Kiểm tra một cách khoa học sẽ góp phần xây dựng, củng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức. Kiểm tra giúp cho cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, đội ngũ đảng viên đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu kém, kịp thời cổ vũ mặt tốt, khắc phục hạn chế, khuyết điểm làm cho các tổ chức đảng, đảng viên tiến bộ trưởng thành. Kiểm tra còn bảo đảm cho toàn Đảng chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và các chế độ lãnh đạo, sinh hoạt đảng, khắc phục hiện tượng tự do, tùy tiện, vi phạm nguyên tắc tổ chức, chế độ sinh hoạt đảng. Qua kiểm tra xác định chính xác những trường hợp vi phạm đường lối, nghị quyết chỉ thị, quy định và kỷ luật của Đảng, Điều lệ Đảng, để xử lý, kiên quyết loại trừ ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch vững mạnh: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức.”[3] Thực tế công tác kiểm tra của Đảng thời gian qua đã có bước phát triển, thu được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều bất cập, hạn chế trong công tác kiểm tra: “Việc kiểm tra chấp hành đường lối, chính sách và kỷ luật Đảng kém hiệu quả”. Một trong những nguyên nhân của yếu kém trên đây xuất phát từ công tác kiểm tra còn thiếu tính khoa học. Trong giai đoạn cách mạng mới, để xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị, đòi hỏi càng cần phải tăng cường công tác kiểm tra và chú trọng nâng cao tính khoa học trong công tác kiểm tra của Đảng.

Để nâng cao tính khoa học trong công tác kiểm tra cần thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:

Một là, bảo đảm tính thường xuyên, chủ động, kịp thời trong công tác kiểm tra.

Một trong những nguyên nhân làm cho công tác kiểm tra của tổ chức đảng các cấp vừa qua kém hiệu quả là do chưa tiến hành thường xuyên, chủ động, kịp thời, thậm chí khi xẩy ra vụ việc, hoặc cấp trên nhắc nhở mới kiểm tra. Bên cạnh đó việc nắm và vận dụng nguyên tắc kiểm tra của Đảng vào từng nội đung cụ thể, cũng như việc giải quyết vụ việc còn túng túng. Do vậy mà không nắm chắc được tình hình mọi mặt, không phát hiện uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong chấp hành đường lối và các nghị quyết của Đảng, sự giúp đờ cấp dưới bị hạn chế, thiếu biện pháp tích cực để ngăn ngừa có hiệu quả việc vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên.

Để tiến hành công tác kiểm tra được thường xuyên chủ động, kịp thời, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp nhất thiết phải có chương trình và kế hoạch kiểm tra trong từng thời kỳ, tập trung vào những công tác chủ yếu, những đơn vị trọng điểm; kiểm tra phải xác định rõ mục đích, nội dung, thời gian, đối tượng kiểm tra, phải sử dụng lực lượng và lựa chọn các hình thức biện pháp kiểm tra thích hợp để phát hiện chính xác và giải quyết kịp thời những vấn đề nẩy sinh ở các cấp.

Hai là, phải nâng cao tính chính xác trong công tác kiểm tra.

Tính chính xác là biểu hiện bản chất của tính khoa học trong công tác kiểm tra. Tính chính xác trong công tác kiểm tra đòi hỏi các cấp ủy đảng và ủy ban kiểm tra các cấp không những phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà còn phải hết sức khách quan, trung thực, vô tư. Phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng, luôn luôn vì lợi ích chung của Đảng, xuất phát từ yêu cầu đổi mới chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Phải có phương pháp tư tưởng đúng đắn và tác phòng làm việc khoa học, phải nghiên cứu, điều tra nắm chắc tình hình, phân tích đánh giá, kết luận, đúng tình hình cả về ưu điểm, khuyết điểm, không thổi phồng ưu điểm, che giấu, giảm nhẹ khuyết điểm.

Ba là, phải bảo đảm tính hiệu quả trong công tác kiểm tra đòi hỏi tổ chức đảng các cấp mỗi khi tiến hành kiểm tra phải xác định đúng đắn, chính xác mục đích của kiểm tra, có lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ ở từng khâu, từng bước kiểm tra, có như vậy việc kiểm tra mịn đạt kết quả cần đặc biệt nhấn mạnh là sau kiểm tra phải có biện pháp tính cực và cụ thể để khắc phục những mặt thiếu sót, mặt yếu của đơn vị. Nếu sau kiểm tra mà thiếu kế hoạch, biện pháp khắc phục như: Khắc phục dứt điểm cái gì, mặt nào của đơn vị; áp dụng những biện pháp tư tưởng và tổ chức gì để khắc phục những mặt tồn tại, khi đã phát hiện ra và tập trung vào khâu nào; quy rõ trách nhiệm cho ai, cho bộ phận nào; thời gian nào phải chuyển biến hay dứt điểm vấn đề đó thì sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác kiểm tra.

Trong thực tiễn, có nơi tuy tiến hành công tác kiểm tra nhưng sau khi kiểm tra lại thiếu kế hoạch và những biện pháp tích cực, cụ thể, chỉ vạch ra phương hướng chung chung, không quy trách nhiệm rõ ràng nên không phát huy được hiệu lực của công tác kiểm tra, không làm chuyển biến được tình hình đơn vị.

                                                                                          

 



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 5, tr 285

[2] Hồ Chí Minh, sđd,  Tâp 7, tr. 287.

[3] Hồ Chí Minh, sđd, tập 11, tr 300.

CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH TRÊN MẠNG INTERNET HIỆN NAY

 

         Trước sự phát triển của internet trong những năm gần đây đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích của internet mang lại thì mặt trái của nó là không hề nhỏ; đặc biệt là các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng mạng internet để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” (DBHB) chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, bài viết này tác giả đề cập khái quát về âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên mạng internet, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản chống DBHB trên mạng internet hiện nay.

1. Âm mưu, thủ đoạn diễn biễn hòa bình trên mạng internet

Phương thức hoạt động DBHB trên mạng internet được các thế lực thù địch tiến hành đối với Việt Nam hiện nay là chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong đó, chúng tập trung truyền bá các quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị trên mạng internet nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.

Có thể nói rằng chưa bao giờ các thế lực phản động lại ráo riết, điên cuồng chống phá ta như thời điểm này. Thể hiện rõ nhất là chúng tung lên mạng với số lượng rất lớn thông tin sai trái, thù địch. Mục đích cua chúng là thúc đẩy thẩm thấu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Việt Nam. Tính chất phản động, mục tiêu chống phá thể hiện rõ ở một số nội dung trọng điểm như: xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, thân thế sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh; bôi nhọ nhân sự cấp cao và chia rẽ đoàn kết nội bộ nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Do đặc thù của internet là tốc độ truyền thông tin nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, tính “tự do” tương đối của những chủ thể thông tin, khả năng “gây nhiễu” lại khá rộng... nên những quan điểm sai trái trên mạng internet có khả năng ảnh hưởng nhanh, rộng đến nhiều đối tượng. Thực tế cho thấy thời gian qua không ít thông tin trên mạng đã gây hoài nghi, hoang mang trong xã hội, nhất là một bộ phận trí thức và thanh niên - đối tượng thường xuyên tiếp cận với phương tiện này. Cũng từ đó, một trong những hệ quả nguy hiểm của thủ đoạn này là gây mất phương hướng, sa sút niềm tin, làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.

2. Một số giải pháp chống diễn biến hòa bình trên mạng internet

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước với hệ thống thông tin đại chúng nói chung, internet nói riêng.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với thông tin đại chúng nói chung, internet nói riêng được thông qua hệ thống các cơ quan làm công tác tư tưởng từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là tăng cường sự chỉ đạo, định hướng chính trị tư tưởng đối với hệ thống thông tin đại chúng, phát huy sức mạnh của hệ thống đó nhằm xây dựng và bảo vệ những thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới đất nước; chống lại âm mưu thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch. Đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hệ thống thông tin đại chúng nói chung, internet nói riêng cần phải: Định hướng chính trị cho các cơ quan thông tin đại chúng, nhất là các cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước. Định hướng chính trị là việc chỉ rõ những vấn đề cần đấu tranh, những nội dung cần đi sâu phân tích lý giải, những mục tiêu cần phải đạt tới. Sự định hướng còn bao gồm cả việc kiểm tra không để lọt các bài, các ấn phẩm có nội dung xấu xuất hiện trên các trang mạng chính thống. Đổi mới tổ chức quản lý thông tin, đây là vấn đề rất quan trọng liên quan trực tiếp tới hiệu quả cuộc đấu tranh chống DBHB trên mạng internet. Trong những năm gần đây, sự bùng nổ thông tin đã mang lại nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế xã hội … nhưng cũng gây ra rất nhiều khó khăn trong việc xử lý thông tin. Vì vậy vấn đề đặt ra làm sao vừa khai thác có hiệu quả những lợi ích của thông tin đem lại, vừa ngăn chặn những luồng thông tin độc hại của DBHB. Do vậy, cần phải sớm hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy định, cơ chế chính sách về thông tin, quy chế bảo mật, kỷ luật phát ngôn cũng như trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong phát hiện đấu tranh chống các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.

Hai là, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, của các tầng lớp nhân dân, của cư dân mạng trong cuộc đấu tranh chống DBHB nói chung, trên mạng internet nói riêng.

Đấu tranh chống DBHB trên mạng internet là cuộc đấu tranh khó khăn và phức tạp vừa là nhiệm vụ cấp bách tức thời vừa là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp lâu dài. Kẻ thù thường huy động nhiều lực lượng như các viện nghiên cứu, các trường đại học, các chuyên gia giỏi và đàu tư nhiều tiền của để xây dựng và triển khai chiến lược DBHB. Do vậy cần phải tập trung giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức trách nhiệm cho toàn dân thấy được chống DBHB là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc quyết liệt, toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phòng an ninh, đối ngoại từ đó tích cực tham gia phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động phá hoại tư tưởng của địch.

Ba là, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia chống DBHB trên mạng internet.

Nếu chỉ dựa vào lực lượng chuyên trách thì không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này. Do đó phải huy động toàn xã hội, toàn dân tham gia cuộc đấu tranh này; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức tự giác, thành hành động tích cực trong phê phán, đấu tranh chống quan điểm sai trái. Tổ chức lực lượng trong các cơ quan chính quyền, cơ quan quân đội, công an các cấp và trong các tổ chức chính trị, xã hội… thực hiện thường xuyên nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng internet. Tổ chức các lực lượng kịp thời ngăn chặn không để các quan điểm sai trái phát tán trên mạng internet có điều kiện tác động vào các tầng lớp nhân dân. Tổ chức đấu tranh trực diện đối với những người cơ hội, lệch lạc về chính trị ngay từ cơ sở. Chú trọng việc tổ chức để các đoàn thể quần chúng như đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp... tham gia đấu tranh trên mạng internet đối với các quan điểm và hành động sai trái của các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch.

Đồng thời phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đại chúng, trong đó đặc biệt chú trọng đến các chiến sĩ xung kích trên mặt trận đấu tranh chống DBHB là các chuyên gia, các nhà lý luận về tư tưởng chính trị chuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị trên mạng internet, những chuyên gia giỏi về lý luận, những cây bút sắc bén, am hiểu và ứng dụng tốt công nghệ thông tin. Đi liền với công tác đấu tranh chống địch phá hoại về tư tưởng chính trị, cần tăng cường công tác quản lý nội bộ, không để địch lợi dụng, cài cắm lực lượng trong các cơ quan thông tin đại chúng.

Bốn là, tăng cường khả năng “tự đề kháng” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Trong một thế giới được đánh giá là “đang thu hẹp” do sự bùng nổ công nghệ thông tin, có thể thấy rằng khó mà che dấu được những sự kiện lớn nhỏ xẩy ra trong nước cũng như trên thế giới. Vì vậy chủ động thông tin kịp thời, phong phú và có định hướng cho xã hội về các sự kiện, hiện tượng và vấn đề nảy sinh trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng một cách tích cực nhất nhu cầu nhận thức, thị hiếu của nhân dân. Thông qua đó để định hướng tư tưởng, hướng dẫn nhận thức, tạo thành dư luận xã hội tích cực nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị xã hội, nâng cao khả năng chống “tự diễn biến”, khả năng “tự đề kháng” với những âm mưu DBHB của địch.

Đáp ứng những nhu cầu thông tin của mọi tầng lớp dân cư cũng có nghĩa là tạo điều kiện cơ bản và thiết thực giúp nhân dân tránh khỏi sự “điều khiển” từ các nguồn thông tin từ bên ngoài. Vận dụng quy luật thông tin chúng ta phải tích cực giành quyền chủ động cung cấp thông tin để nắm quyền chủ động chi phối quy mô, tính chất thông tin và đó cũng chính là chủ động chi phối các hiệu ứng xã hội của thông tin.

Năm là, đổi mới hình thức, phương pháp đấu tranh chống DBHB.

Đổi mới phương pháp, mở rộng các phương thức thông tin truyền thông đa dạng, phong phú, sinh động, giàu sức thuyết phục. Thông tin về từng sự kiện, hiện tượng, vấn đề cần được khai thác, phát hiện từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau, tránh được sự đơn điệu, trùng lắp và một chiều, kết hợp nhiều thể loại, nhiều hình thức. Các bài viết tham gia đấu tranh chống DBHB phải có đầy đủ cơ sỏ lý luận và thực tiễn, phân tích một cách sâu sắc, dù khẳng định hay bác bỏ, dù mềm mại hay đanh thép đều phải có sức thuyết phục. Mỗi loại truyền thông đại chúng, từng đơn vị, tô chức cần xây dựng chương trình hành động cụ thể trên cơ sỗ chỉ đạo chung; bám sát đặc điểm đối tượng, khai thác nguồn tin và tổ chức lưu chuyển thông tin phù hợp với yêu cầu xã hội. Đồng thời, phải có sự phối hợp chặt chẽ, phân công thật cụ thể, xác định rõ nội dung đấu tranh, mục tiêu cần đạt tới. Một trong những điều đáng lưu ý là việc đấu tranh phải tiến hành thường xuyên, không nên quá dồn dập rồi lại bị ngắt quãng. Đồng thời, cũng xác định rõ những trọng tâm, trọng điểm để phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị đột xuất cũng như kịp thời phản bác những đợt phản tuyên truyền rộ lên của các thế lực thù địch.

                                                                                                    

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM KỶ LUẬT NGHIÊM TRỌNG Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ

         Hiện nay, trước sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến đời sống của mọi người dân Việt Nam nói chung và cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Hệ lụy của sự ảnh hưởng đó dẫn đến tình hình vi phạm kỷ luật của các quân nhân ở đơn vị cơ sở trong quân đội ngày càng diễn biến phức tạp. Chính vì vậy, việc phòng, chống vi phạm kỷ luật nghiêm trọng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện nền nếp chính quy và rèn luyện kỷ luật trong quân đội ta. Để góp phần khắc phục tình hình vi phạm kỷ luật nghiêm trọng ở đơn vị cơ sở cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau đây:

Một là, thường xuyên làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội cho quân nhân: Phổ biến, giáo dục pháp luật và giáo dục kỷ luật quân đội cho cán bộ, chiến sĩ nhằm củng cố, tăng cường kỷ luật quân đội, hình thành và phát triển ý thức, lối sống pháp luật đúng đắn cho quân nhân. Thực tiễn ở những đơn vị cơ sở thực hiện nghiêm túc chế độ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, kỷ luật, thì tình hình kỷ luật của đơn vị có chiều hướng tốt, ít hoặc không xảy ra vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Ngược lại, khi các cấp lãnh đạo, chỉ huy đơn vị thực hiện chiếu lệ, biện pháp thiếu tính cụ thể, hoặc chỉ tiến hành kiểu “thời vụ”... thì nội bộ đơn vị thường nảy sinh nhiều vấn đề. Các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên tổ chức quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ và Bộ Quốc phòng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, kỷ luật quân đội. Kết hợp chặt chẽ với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Phát huy tốt vai trò của các cơ quan chức năng như (Tuyên huấn, Kiểm sát, Điều tra hình sự), vận dụng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kỷ luật phù hợp với từng đối tượng, với tình hình và nhiệm vụ đơn vị để tạo nên một hợp lực tác động vào nhận thức, thái độ, hành vi quân nhân nhằm hạn chế và dứt điểm vi phạm kỷ luật nghiêm trọng.

Hai là, phát huy tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng cao hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy ở đơn vị cơ sở: Hiệu lực lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp trong công tác quản lý, rèn luyện kỷ luật chỉ được nâng cao khi đội ngũ cán bộ đảng viên của đơn vị nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu ở mọi lúc, mọi nơi trong xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật. Cấp ủy đảng các cấp phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, không bao che hoặc giảm nhẹ mức độ vi phạm khi có đảng viên, cán bộ mắc khuyết điểm. Người chỉ huy đơn vị phải gương mẫu về mọi mặt, có trình độ quản lý, chỉ huy đơn vị tốt, phải nắm vững và dựa chắc vào pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên trong tổ chức duy trì kỷ luật đơn vị. Nâng cao trình độ quản lý về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống quân nhân, về năng lực chuyên môn và cơ sở vật chất kỹ thuật; có sự phân cấp quản lý rõ ràng để quản lý tốt mọi hoạt động của bộ đội, nhất là trong giờ nghỉ, ngày nghỉ. Cần có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức đảng với đoàn thể quần chúng, giữa đơn vị với gia đình, địa phương. Thường xuyên quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở...

Ba là, giáo dục hình thành nhu cầu chấp hành kỷ luật cho bộ đội, hạn chế những “mầm mống” dẫn đến vi phạm kỷ luật: Một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm kỷ luật do họ chưa coi chấp hành kỷ luật là một nhu cầu, một giá trị nhân cách và sự đòi hỏi tất yếu của người quân nhân cách mạng. Họ coi kỷ luật chỉ thuần túy là sự bắt buộc, áp đặt đối với mỗi cá nhân, từ đó chấp hành kỷ luật không tích cực, tự giác, thực hiện điều lệnh, điều lệ, các chế độ quy định một cách hình thức, chiếu lệ. Bởi vậy, muốn đạt được hiệu quả cao trong phòng, chống vi phạm kỷ luật nghiêm trọng thì cần phải có nhiều nội dung, hình thức giáo dục để hình thành ở mỗi quân nhân nhu cầu thực sự trong rèn luyện kỷ luật tự giác, nghiêm minh.

Khảo sát một số đơn vị cơ sở trong thời gian qua, các cấp ủy và người chỉ huy đều có sự thống nhất cao ở biện pháp: muốn ngăn chặn có hiệu quả vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, phải tích cực ngăn chặn các hành vi vi phạm kỷ luật thông thường. Bởi vì, các hành vi vi phạm kỷ luật thông thường là “mầm mống” dẫn đến vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Ranh giới giữa vi phạm kỷ luật thông thường và vi phạm kỷ luật nghiêm trọng rất mỏng manh. Cho nên, nếu người quân nhân mắc những sai phạm tuy chưa đến mức phải xử lý kỷ luật, nhưng không được nhắc nhở và sửa chữa kịp thời, đó sẽ là “mầm mống” vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phải kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ của quân nhân, phải tìm hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn mọi hành vi vi phạm kỷ luật thông thường trong đơn vị.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng môi trường kỷ luật quân sự lành mạnh góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống kỷ luật nghiêm trọng: Xây dựng môi trường kỷ luật quân sự lành mạnh sẽ tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ được học tập, rèn luyện nâng cao ý thức tổ chức, chấp hành kỷ luật và phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong người quân nhân cách mạng; là cơ sở để lãnh đạo, chỉ huy tổ chức giáo dục, quản lý, duy trì đơn vị chấp hành kỷ luật tự giác nghiêm minh. Trong xây dựng môi trường kỷ luật quân sự lành mạnh cần coi trọng thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ đơn vị và giữa đơn vị với nhân dân, với các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương noi đóng quân; tạo lập dư luận xã hội tích cực không để những thói hư tật xấu tác động vào đơn vị.

Trong các ngày nghỉ, giờ nghỉ của bộ đội, lãnh đạo và chỉ huy cần tổ chức tốt những hoạt động văn hóa vui tươi, lành mạnh trong đơn vị. Kinh nghiệm ở những đơn vị điển hình về hoạt động văn hóa cho thấy, nếu để quân nhân tiêu phí thời gian rỗi một cách vô ích theo kiểu “giết thời gian”, sống “xả hơi”, tổ chức r­­ượu chè bê tha, đánh bài ăn tiền, xem băng đĩa không lành mạnh và những trò chơi mang tính tự phát, tiêu khiển … thì đó cũng là những “mầm mống” dẫn đến vi phạm kỷ luật nghiêm trọng rất khó lường. Cần định hướng cho mỗi quân nhân sử dụng thời gian rỗi vào các hoạt động hữu ích, tạo nên môi tr­­ường kỷ luật quân sự phát triển lành mạnh, vững chắc.

Năm là, không hữu khuynh, che dấu vi phạm kỷ luật nghiêm trọng trong đơn vị và kịp thời xử lý nghiêm, dứt điểm các vụ việc xảy ra: Khi đơn vị xảy ra vi phạm kỷ luật nghiêm trọng; một mặt, lãnh đạo và chỉ huy đơn vị không vì thành tích mà che dấu không báo cáo kịp thời, trung thực với cấp trên; mặt khác, cần tập trung tìm biện pháp giải quyết dứt điểm vụ việc, xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm của từng cấp, từng người, chủ động làm tốt công tác tư tưởng, ổn định tình hình đơn vị.

Vận dụng tốt ph­ương pháp nêu gương trong giáo dục, rèn luyện kỷ luật bộ đội. Không đơn thuần dừng ở việc biểu d­ương cá nhân, tập thể điển hình trong mỗi giai đoạn và từng tháng, năm, mà phải tiến hành “nuôi dư­ỡng” điển hình liên tục. Khắc phục mọi biểu hiện t­ư tư­ởng tự mãn, chủ quan, dừng lại, hoặc chỉ dựa vào truyền thống đã có để khuếch tr­ương thành tích nhằm ganh đua, kìm hãm tập thể đơn vị bạn v­ươn lên bằng mình. Thực hiện phương pháp nêu gương luôn gắn với nhân điển hình, kịp thời phổ biến rộng rãi những biện pháp hay trong phòng, chống vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Đồng thời, sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông, lực lượng tuyên truyền viên để việc phong, chống hành vi vi phạm kỷ luật nghiêm trọng ở mỗi đơn vị cơ sở trong quân đội ta đạt được hiệu quả thiết thực.