Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

Vui buồn chuyện giới trẻ tiếp nhận văn hóa phương Tây

 Có thể nói, chính việc mở cửa hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện để giới trẻ giao lưu, tiếp cận các luồng văn hóa mới, giúp họ tự tin, năng động hơn trong giao tiếp, từ đó chắt lọc những tinh hoa từ các luồng văn hóa để tự làm mới, hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực thì vẫn còn không ít chuyện buồn, băn khoăn khi một bộ phận giới trẻ tiếp nhận văn hóa phương Tây kiểu “khác người”…

Hòa mình vào lễ hội

Tuần cuối của tháng 10, khắp các tụ điểm vui chơi, giải trí, quán xá, cửa hàng… trên địa bàn TP. Bạc Liêu đều tràn ngập màu sắc của lễ hội Halloween (lễ hội hóa trang). Tại các cửa hàng kinh doanh trang phục, phụ kiện hưởng ứng lễ hội này, khách hàng đều là giới trẻ. Khuynh hướng lựa chọn trang phục, phụ kiện của họ cũng được chia làm hai nhóm: tạo hình ngộ nghĩnh, đáng yêu và khuynh hướng ghê rợn.

Chị Khánh Ngân (Phường 2, TP. Bạc Liêu) kể lại: “Tối 31/10, tôi đi làm về muộn hơn mọi ngày, đến cổng thì thấy trong nhà tối om, cứ ngỡ con trai đang học lớp 11 của mình đi học nhóm cùng đám bạn. Vừa mở cửa nhà, thì một gương mặt xanh lè phát sáng (dạ quang) máu me xuất hiện, tôi hoảng hốt la thất thanh, sợ muốn ngất xỉu. Vừa lúc ấy, con trai tôi mới gỡ mặt nạ, bật đèn lên rồi cười khanh khách: “Hôm nay là Halloween mà mẹ! Mẹ “ba ruộng” quá!”. Chẳng biết vui ở đâu, chứ sau cú dọa ma ấy tôi đã giáo huấn cho con trai một trận ra trò…”.

Rời khỏi trung tâm Anh ngữ, bé Bảo Nghi hào hứng kể với mẹ về chuỗi hoạt động mà bé được tham gia hưởng ứng lễ hội Halloween. Trong đó, 2 hoạt động mà bé thích nhất chính là trang trí túi và hóa trang chủ đề Halloween. “Tôi thấy hoạt động này rất hay vì giúp các bé hiểu thêm về những lễ hội mới, bé biết được những biểu tượng của lễ hội và thỏa sức sáng tạo theo cách riêng của mình. Bé nhà tôi thường ngày rất trầm tính, ít nói vậy mà trong những ngày này con năng động, tự tin hẳn ra. Cái hay của trung tâm chính là việc hưởng ứng lễ hội có giới hạn, biết lựa chọn những hình ảnh, cách hóa trang phù hợp với trẻ, không gây ám ảnh bởi những kiểu hóa trang rùng rợn như một số nơi”, chị Hồng Ân - mẹ bé Bảo Nghi (Phường 7, TP. Bạc Liêu), chia sẻ.

Từ thảm họa đặc biệt xảy ra tại khu Itaewon (thủ đô Seoul, Hàn Quốc) làm ít nhất 154 người tử nạn, hơn 130 người bị thương do chen lấn trong lễ hội Halloween đã gây sốc cho nhiều người, trong đó có giới trẻ Bạc Liêu nên các hoạt động hưởng ứng năm nay có phần trầm lắng. Các bạn trẻ cũng không còn tụ tập đông đúc, hay tạo thành những nhóm nhỏ hóa trang ghê rợn diễu hành trên một vài con đường như mọi năm.

Đông đảo bạn trẻ tham gia lễ hội hóa trang “Đêm kinh dị” tại Bar Kitty trên đường Trần Phú (TP. Bạc Liêu).

Nhưng đừng đánh mất bản sắc

Theo thống kê sơ bộ của Bộ VH-TT&DL, hiện nay trên cả nước có khoảng 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài, nhất là các nước phương Tây. Các lễ hội này được du nhập một cách tự nhiên khi thế giới không còn bức tường ngăn cách, tạo nên sự phong phú cho đời sống văn hóa người Việt. Riêng Bạc Liêu, có 3 lễ hội được giới trẻ nhiệt tình hưởng ứng, xem như là một phần đời sống tinh thần vào dịp cuối năm, đó là Halloween, Noel (lễ Giáng sinh), Valentine (lễ Tình nhân). Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu giới trẻ hưởng ứng chúng theo đúng ý nghĩa nhân văn vốn có, đằng này họ lại “biến tướng”, hòa mình vào các lễ hội theo phong cách “khác người”, chủ yếu để chạy theo xu hướng thời thượng, khoe mẽ độ “chất chơi”, sành điệu của bản thân.

Theo đó, thay vì chọn cách hóa trang gần gũi trong lễ hội Halloween như: đầu bí ngô, phù thủy, ma áo trắng… thì nay giới trẻ hóa trang theo hướng ngày càng khiếp đảm, gớm ghiếc dựa trên sự kế thừa những hình ảnh trong các bộ phim kinh dị, tạo ra những hình ảnh phản cảm, gây bức xúc. Hay các dịp lễ Noel, Valentine thay vì tận hưởng cảm giác nhẹ nhàng, ấm áp bên một nửa yêu thương thì nhiều bạn trẻ lại “ra vẻ” thông qua việc tỏ tình đầy ồn ào trước đám đông bằng những bó hoa, hộp sô-cô-la “siêu to khổng lồ” gây nhiều tốn kém, lãng phí…

Thực tế cho thấy, trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc là một xu thế tất yếu. Đó vừa cơ hội để làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của người dân trong nước, vừa là điều kiện để chúng ta, nhất là giới trẻ tiếp thu những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài. Tuy vậy, việc giao lưu văn hóa không có nghĩa là du nhập văn hóa ngoại lai một cách tùy tiện, thiếu chọn lọc. Bởi lẽ, nếu chúng ta không có bản lĩnh vững vàng, không có hướng phát triển văn hóa đúng đắn thì nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc sẽ luôn hiện hữu.

Mất văn hóa là mất tất cả. Thực tế đã chứng minh không ít dân tộc trên thế giới đã trả giá đắt khi đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc mình. Bởi vậy bên cạnh sự quản lý, kiểm soát, chấn chỉnh, định hướng các hoạt động văn hóa, lễ hội của cơ quan chức năng thì cần lắm ý thức tự giác, tinh thần tự tôn dân tộc trong mỗi bạn trẻ khi tiếp nhận văn hóa nước ngoài, trong đó có văn hóa phương Tây.

Dịch bệnh và chủ nghĩa bài ngoại: Người phương Tây xấu xí?

Cho đến thời điểm này, người châu Á sinh sống ở phương Tây đang phải trải nghiệm những điều xấu xí nhất trong xã hội phương Tây – chủ nghĩa bài ngoại và phân biệt chủng tộc.

Nhẹ nhàng và lịch sự thì người da trắng, người da đen tránh đến các cửa hiệu Tàu, cửa hiệu Việt hay Thái… vốn luôn là những địa điểm ẩm thực, mua sắm hút khách. Nặng nề hơn, người châu Á có thể bị la ó, bị tẩy chay và thậm chí bị hành hung giữa thanh thiên bạch nhật.

Jonathan Mok, một sinh viên người Singapore đang học tập tại London, bị một nhóm người vừa tấn công vừa hét: “Bọn tao không muốn ‘corona’ sống ở đây!”. Các vết thương ở mặt nặng đến nỗi bác sĩ đề nghị Mok nên phẫu thuật điều chỉnh lại cấu trúc xương và cơ mặt.

Các vụ việc dần trở nên nực cười đến mức nhiều người châu Á bị hành hung và kỳ thị bằng lời nói chỉ vì họ… mang khẩu trang. Đôi khi, một cái tằng hắng, một cái ho hay một cái nhảy mũi, người châu Á sẽ nhanh chóng bị gọi bằng những từ ngữ phân biệt chủng tộc nặng nề.

Bản thân người Việt Nam cũng không thoát khỏi những hành vi kỳ thị và phân biệt chủng tộc tương tự.

Tại Đức, một số người Việt đã kể lại việc họ bị gọi là “bọn corona” dẫn đến ẩu đả nghiêm trọng, dù trớ trêu thay cả hai bên liên quan đền là fan của đội bóng lâu đời tại quốc gia này – Bayern Munich.

Nhiều người ở Việt Nam đã bày tỏ sự thất vọng, mỉa mai gọi “bọn phương Tây thượng đẳng, dân chủ gì cũng chỉ đến thế thôi” và khen ngợi chính quyền Việt Nam nhân văn đến dường nào.

Ta và Họ

Kỳ thị chủng tộc (racism) và chủ nghĩa bài ngoại (xenophobia) luôn tận dụng rất tốt những thời điểm bệnh dịch hoảng loạn như thế này để bùng nổ. Lần theo lịch sử loài người, chúng ta có thể thấy bất kỳ loại bệnh dịch nào hoành hành cũng bị đổ là do một nhóm “bên ngoài” lây lan.

Đợt bùng nổ của căn bệnh dịch hạch (bubonic plague) vào giữa thế kỷ 14 tại châu Âu, xóa sổ 1/3 dân số của toàn lục địa với hơn 25 triệu người chết là một trong những minh chứng điển hình. Nguyên nhân của “Cái chết đen” (The Black Death), như người châu Âu vẫn thường gọi, được đổ lên đầu của người Do Thái (Jewish) và các nhóm gypsies (những người gốc Romania). Theo các tài liệu, dịch hạch có nguồn gốc từ Trung Quốc, và đi vào châu Âu qua các cảng biển Italy (nghe có vẻ khá giống với tình trạng của coronavirus hiện nay). Song vì phương tiện truyền thông và trình độ khoa học hạn chế, căn bệnh nhanh chóng được đổ lỗi là bắt nguồn từ các nhóm thiểu số. Nhóm gypsies và những người hành nghề phù thủy bị bắt và cách li trong điều kiện tồi tệ. Các nhóm dân theo đạo Do Thái, kinh hoàng hơn, bị tra tấn và thiêu sống vì dám mang bệnh dịch đi đến khắp nơi.

Đại dịch cúm (influenza) 1918 – 1920 cũng không ngoại lệ (thường được biết đến với tên gọi Cúm Tây Ban Nha vì các trường hợp đầu tiên xuất hiện tại đây). Trong thời điểm mà Hoa Kỳ chào đón nhiều di dân nhất trong suốt lịch sử tồn tại của họ, với hơn 20 triệu người nhập cư đến từ khắp Âu, Á, Mỹ Latin trong giai đoạn 1880 – 1920, hàng loạt các loại bệnh dịch nguy hiểm xuất hiện tại Hoa Kỳ mà không ai biết ai mang đến, gồm cả đậu mùa, bệnh lao, sốt phát ban, dịch tả hoặc bệnh mắt hột… Trước dịch cúm Tây Ban Nha, Hoa Kỳ vẫn còn được xem là điểm đến thân thiện của mọi sắc tộc, nên những cuộc săn lùng tìm kẻ “thủ ác” làm lây lan dịch bệnh vẫn chưa diễn ra.

Nhưng với sự xuất hiện và lớn mạnh của cộng đồng người Ý tại New York, họ bị cho là gắn liền với căn bệnh bại liệt nguy hiểm lấy đi sinh mạng của ba trẻ trên mỗi 1.000 trẻ. Vì người Ý có tính cộng đồng cao và sống chật cứng tại các khu vực trung tâm New York, trí tưởng tượng của công chúng về một nhóm nhỏ có cách sống khác biệt mang mầm bệnh đến cho các cư dân bản địa dần hình thành.

Cho đến khi dịch cúm influenza bùng nổ vào năm 1918 – 1920, các biện giải và đổ lỗi cho các nhóm yếu thế, thiểu số trong xã hội ngay lập tức phát huy vai trò của nó.

Y tá tại các bệnh viện khi đó có cái nhìn rất tiêu cực về người Ý, cũng vì các thực hành văn hóa, tôn giáo khác biệt của họ. Thói quen hôn người bệnh vừa mất để tỏ lòng thành kính của người Ý, theo các y tá này, chắc chắn là một trong những lý do khiến dịch cúm tiếp tục hoành hành.

Nhưng vì trong giai đoạn Đệ nhất Thế chiến (1914 – 1918) đang xảy ra, người Đức và các nhóm thế hệ tiếp nối của họ đang sống tại Hoa Kỳ mới là nhóm thiểu số chịu sự kỳ thị nặng nề nhất. Lối suy nghĩ này được ghi nhận là bắt đầu với Trung tá hải quân Philip S. Doane, theo đó, ông cho rằng căn bệnh cúm là một vũ khí sinh học vì nó xuất hiện quá trùng hợp với thời điểm hải quân Mỹ phát hiện tàu ngầm Đức ve vãn tại vùng biển của họ. Cộng với thực tế rằng bệnh cúm lấy đi hơn 10.000 sinh mạng quân Mỹ, nhiều hơn cả số lượng tử vong do thực chiến, người Đức nhanh chóng trở thành “kẻ tội đồ” của dịch cúm… “Tây Ban Nha”.

Phong trào bài Đức vì dịch cúm này ấu trĩ đến mức loại cải chua có nguồn gốc Đức thường gọi là Sauerkraut bị đổi tên thành “Bắp cải Tự do” (Liberty cabbage) để dân chúng không nghĩ rằng nó do người Đức làm ra và mang mầm bệnh. Các lớp tiếng Đức và giảng dạy bằng Đức ngữ đã bị loại khỏi chương trình giáo dục ở trường. Người nhập cư Đức buộc phải xóa bỏ hoặc làm mờ họ gốc Đức của mình trên thẻ căn cước…

Chủ nghĩa bài ngoại và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong mùa dịch, vì nhiều lý do, mang dáng dấp của tiềm thức “người địa phương – người di cư” hơn là các vấn đề liên quan đến sắc tộc hay màu da.

Bản năng giống loài?

Phân tích như trên không phải nhằm “giải tội” hay “giải oan” gì cho các nhóm dân da trắng, da đen và kể cả da màu đang tiếp tục thực hiện những hành vi mang đậm tính chất phân biệt hay bài ngoại nhắm đến người châu Á; mà nhằm giúp chúng ta hiểu rằng dịch bệnh và sự lây lan của các loại bệnh truyền nhiễm luôn có tác động thúc đẩy rất lớn lên sự phi lý tính và những hành vi bài ngoại đối với bất kỳ cộng đồng nào.

Thật ra chỉ mới mấy hôm trước đây thôi, chính người Việt cũng hô hào đóng cửa biên giới với người Trung Quốc. Các biển bảng cấm người Trung Quốc đến tham quan, mua sắm hay ở trọ… được dán một cách vô tội vạ, nhưng cũng được công luận ủng hộ rất nhiệt tình. Bản thân chúng ta xem việc ngăn chặn bất kỳ người Trung Quốc nào đến Việt Nam là cần thiết, là vì an toàn dịch tễ, dù họ có bệnh lý hay triệu chứng gì hay không. Chúng ta chưa từng xem đó là hành vi phân biệt chủng tộc. Song những người Trung Quốc bị áp dụng những biện pháp nói trên hoàn toàn có thể có suy nghĩ khác. Đó là chưa kể, thứ duy nhất ngăn cản việc có một nhóm người Việt Nam manh động tấn công người Trung Quốc có lẽ chỉ bởi vì họ không thể phân biệt giữa người Việt Nam và người Trung Quốc mà thôi.

Trong một nghiên cứu của Đại học Stanford, do hai giáo sư là Hayagreeva “Huggy” Rao và Sunasir Dutta thực hiện, chứng minh được rằng các thông tin dịch bệnh có thể khiến con người thay đổi hoàn toàn góc nhìn và quan điểm của mình.

Nghiên cứu lấy hai nhóm mẫu người tham gia có nền tảng văn hóa, học thuật, sắc tộc đa dạng, nhưng cho họ trả lời câu hỏi trong hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau. Nhóm thứ nhất được cho biết thông tin rằng một loại dịch bệnh lạ đang bùng phát ở Hoa Kỳ, sau đó những người tham gia mới được hỏi về việc có nên hợp pháp hóa việc định cư của những người di dân bất hợp pháp nhưng đã sinh sống đủ một khoảng thời gian nhất định tại Hoa Kỳ hay không. Nhóm thứ hai chỉ được hỏi có nên cho phép hợp pháp hóa việc định cư. Như dự đoán trước, nhóm đầu có xu hướng phản đối chính sách hợp pháp hóa.

Không chỉ vậy, nghiên cứu còn dẫn chứng đến một số hiện tượng lịch sử thú vị khác. Các quân đoàn người Ấn thuộc Công ty Đông Ấn (East India Company) lừng danh do người Anh sở hữu sẽ có xu hướng chống đối, thậm chí là đảo chính các sĩ quan nắm quyền người Anh, nếu trước đó vài tháng họ nghe thông tin về bệnh dịch tả.

Các nhà khoa học, trên các cơ sở xem xét, cho rằng các thông tin về dịch bệnh sẽ “đánh thức” xu hướng bài ngoại hay thậm chí phân biệt chủng tộc của các cộng đồng.

Sẽ là không công bằng nếu đổ lỗi cho những hiện tượng và hành vi bài ngoại nhắm vào người châu Á đang sinh sống tại các nước phương Tây là lỗi của “nền dân chủ của bọn thượng đẳng”, “nền dân chủ xấu xí”, như nhiều nhà cơ hội mỉa mai.

Dân chủ là một hình thức tổ chức và quản lý nhà nước, nơi người dân được quyền tự do lựa chọn các ứng cử viên đại diện cho mình trong hoạt động quản lý nhà nước và đưa ra các chính sách. Nó không thể dự đoán hay bắt buộc mỗi cá nhân hành động như ý của nhà cầm quyền, nhưng vì là đại diện cho những tiếng nói chung của toàn xã hội, một chính thể dân chủ luôn phải vận hành đúng với bản chất cấp tiến của nó. Thực tế hiện nay cho thấy ở phương Tây, báo chí và các tiếng nói kêu gọi phản đối và xử lý những hành vi bạo lực hay mang tính kỳ thị dành cho người châu Á chiếm hoàn toàn sóng tin tức quốc gia. Họ biết điều gì là đúng đắn phải làm. Cảnh sát tại London đã tạm giữ một số trẻ vị thành niên hành hung anh chàng sinh viên Mok khốn khổ. Những anh chàng da màu tấn công người đàn ông châu Á ở Hoa Kỳ trước đó cũng đã nhanh chóng bị bắt giữ.

Chúng ta không thể loại bỏ những điều xấu xí hoàn toàn khỏi xã hội loài người. Nhưng tôi tin rằng dân chủ, cũng như nhân quyền, giúp loài người tiến xa khỏi những điều kinh hoàng mà họ từng làm khi những đại dịch bùng phát.

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nghệ thuật ngoại giao "cây tre Việt Nam".


Thế giới ngày càng tôn trọng khả năng của Việt Nam trong giữ vững các nguyên tắc, đồng thời duy trì đối thoại và thúc đẩy hợp tác. Hình tượng "cây tre" là một khuôn khổ và ẩn dụ ngoại giao hữu ích, thể hiện nỗ lực linh hoạt, thích ứng với hoàn cảnh thay đổi mà không thỏa hiệp các giá trị cơ bản.


Giống như cây tre uốn cong trong gió, chúng ta vẫn kiên cường ngay cả khi đối mặt với áp lực. Và giống như rễ sâu của cây tre, ngoại giao chúng ta gắn kết chặt chẽ với lịch sử, văn hóa và cam kết vì hòa bình của mình.


Trong nước, hình ảnh của Tổng Bí thư được nhớ đến với quyết tâm cải tổ bộ máy và những đổi mới trong chính sách kinh tế - văn hoá, thì ở quốc tế, tên tuổi của ông gắn liền với đường lối "ngoại giao cây tre" - vững ở gốc, chắc ở thân, uyển chuyển ở cành, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách dân tộc.


Gần hai thập kỷ qua, trên cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều chuyến công du và đón tiếp nguyên thủ các nước, qua đó thúc đẩy mối quan hệ giữa Việt Nam với quốc tế.


- Ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên được Tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng vào năm 2015. Đây là "chuyến thăm lịch sử", đánh dấu cột mốc mới trong quan hệ ngoại giao hai nước. Sự kiện này cũng mở ra giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia khác.


Tổng Bí thư trong chuyến công du đến Mỹ với tinh thần "gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai". Cuộc hội đàm của Tổng Bí thư với Tổng thống Obama diễn ra tới 95 phút, gấp đôi thời gian dự kiến, trong không khí "rất bình đẳng, cởi mở, thân thiện và thiết thực".


8 năm sau, trong chuyến công du đến Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden, mối quan hệ hai nước tiếp tục được nâng cấp lên Đối tác chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.


- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng 4 lần thăm Trung Quốc và 3 lần đón tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam. Năm 2022, ông Tập Cận Bình đã trao Huân chương Hữu nghị cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào lần thứ 4 ông thăm Trung Quốc. Trong chuyến thăm gần đây nhất của ông Tập đến Việt Nam vào tháng 12/2023, hai bên ra Tuyên bố chung tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện, thúc đẩy vững chắc việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai.


Hiện, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong bối cảnh chính trị thế giới phức tạp hai năm qua, nghệ thuật "ngoại giao cây tre" với lập trường đối ngoại đa phương của Việt Nam càng phát huy tác dụng. Chỉ trong 9 tháng, Việt Nam đã đón tiếp lãnh đạo của ba cường quốc lớn: Tổng thống Mỹ Joe Biden; Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình; và Tổng thống Nga Vladimir Putin.


Niềm tin và sự kiên định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào đường lối "ngoại giao cây tre Việt Nam" đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong chính sách đối ngoại đương đại của đất nước. Đây là di sản quan trọng trong tiến trình phấn đấu vì một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng và được tôn trọng trên trường quốc tế./.

 THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI, LÀM THẤT BẠI MỌI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, “PHI CHÍNH TRỊ HOÁ QUÂN ĐỘI” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch dùng mọi phương thức trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch đã coi thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” là một trong những mục tiêu, nội dung tấn công chủ yếu nhằm tìm cách thủ tiêu, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.

Vì vậy, để thực hiện “phi chính trị hóa quân đội”, trong thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi thủ đoạn để tán phát, truyền bá các quan điểm sai trái, phản động, công kích sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp tục truyền bá tư tưởng phản động, những luận điệu đòi “phi chính trị hóa quân đội” nhân dân Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn này, các thế lực thù địch đã không ngừng gia tăng các hoạt động nhằm “phi chính trị hóa quân đội”. Mục đích nhằm làm cho quân đội ta mất phương hướng chính trị, từ bỏ mục tiêu chiến đấu nhằm vô hiệu hóa, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, với một số thủ đoạn chính như sau:

Một là, chúng ra sức tuyên truyền phủ nhận quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; xuyên tạc, phủ nhận Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta; làm lu mờ bản chất, truyền thống của Quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, chiến sĩ nhằm làm mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của Quân đội.

Hai là, chúng ra sức công kích, phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội; đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội. Chúng xuyên tạc, phủ nhận vai trò của quân đội trong lịch sử cách mạng Việt Nam, trong công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; chúng thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị Quân đội…nhằm làm mất uy tín của Quân đội trước Đảng, nhà nước, làm giảm niềm tin của quân đội trước nhân dân.

Ba là, bằng những hoạt động tinh vi, xảo quyệt, chúng thâm nhập, móc nối, cài cắm người có tư tưởng chống đối vào Quân đội để xuyên tạc truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, làm phai nhạt hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Bốn là, chúng dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội dần dần bị suy thoái về đạo đức, lối sống, quen dần với cuộc sống hưởng thụ, đề cao lợi ích vật chất, xem nhẹ việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, của quân đội.

Năm là, chúng lợi dụng Internet để xây dựng các trang thông tin, các blog có nội dung kích động, chống phá Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là sử dụng các hình ảnh cắt ghép, có nội dung lệch lạc tán phát trên không gian mạng nhằm bôi nhọ, làm mất uy tín của quân đội.

Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch. Đặc biệt, cần quan tâm và thực hiện tốt công tác tư tưởng trong quân đội: Công tác tư tưởng trong quân đội phải làm cho tất cả sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan - binh sỹ, công nhân viên quốc phòng và lao động hợp đồng quán triệt sâu sắc tình hình và nhiệm vụ, nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác, đề phòng nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phòng gian giữ bí mật, xây dựng đơn vị an toàn gắn với xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” với đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu ở trong đơn vị và ngoài xã hội. Đồng thời chủ động, nhạy bén, linh hoạt sáng tạo trong đấu tranh chống ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản, tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến lạc hậu với tinh thần: Nâng cao tính chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội”.

MẶT TRÁI CỦA NHỮNG TIỆN ÍCH CỦA INTERNET VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA LUẬT AN NINH MẠNG

 Thế kỷ 21, thế kỷ của thế giới phẳng với cuộc cách mạng công nghệ 4.0, vai trò Internet ngày càng trở nên quan trọng và là nền tảng, là cầu nối của mọi hoạt động kinh tế, xã hội quốc gia và cũng là phương tiện để kết nối mọi người đến với nhau. Các hoạt động trong thế giới số đều phải dựa trên các nguồn lực cơ bản đầu tiên, đó là tài nguyên Internet. Vì thế, vai trò của nó rất quan trọng, có thể nói là sống còn đối với các quốc gia, doanh nghiệp.

Vai trò của Internet trong thời đại hiện nay là điều không thể bàn cãi. Tuy nhiên, đi kèm với các lợi ích trên, Internet cũng là một phương tiện để phục vụ mục đích, ý đồ xấu của một số đối tượng. “Mạng ảo tù thật” là câu nói truyền miệng đối với những người sử dụng mạng Internet, từ khi Internet ra đời và sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber, Youtube… một số đối tượng xấu đã triệt để lợi dụng những tiện ích trên để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; khủng bố tinh thần, đe dọa đưa lên mạng những thông tin cá nhân, đời tư, khiến nhiều gia đình tan nát, cuộc sống bị xáo trộn; tung thông tin giả để làm rối loạn thị trường. Không dừng lại ở đó, một số đối tượng chính trị, các đài báo nước ngoài tích cực sử dụng Internet và mạng xã hội để tuyên truyền các thông tin sai trái nhằm hạ uy tín các cơ quan, tổ chức, lãnh đạo Nhà nước, phá hoại kinh tế, đưa thông tin gây hoang mang trong quần chúng nhân dân đặc biệt là kêu gọi gây bạo loạn, lật đổ chế độ. Sự tràn lan của thông tin độc hại trong thời gian qua đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát, những tin tức trên các trang mạng xã hội khiến nhiều người không thể nhận định được tính chính xác của thông tin, đặc biệt hiện nay chưa bao giờ những đoạn clip mang tính cổ súy các tệ nạn xã hội, khủng bố, bạo loạn lại tràn lan như hiện nay. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các đoạn video hướng dẫn sử dụng ma túy, chế tạo bom xăng hay phương thức bạo loạn với chủ đề “Đốt sạch, phá sạch, giết sạch” hay những bài viết có nội dung môi giới, buôn bán dâm trên các diễn đàn công khai trên mạng Internet.

Luật An ninh mạng đã được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2019, sự ra đời có Luật An ninh mạng đánh dấu thể hiện thái độ kiên quyết ngăn chặn, đấu tranh với các đối tượng lợi dụng tiện ích của Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng để phục vụ các mục đích xấu, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, một số đối tượng xấu coi Luật An ninh mạng như một chướng ngại cho các hành vi phục vụ mục đích xấu của bản thân, đặc biệt là các đối tượng phản động trong và ngoài nước vì nguồn thu nhập của số đối tượng này chủ yếu thông qua các bài viết mang nội dung xuyên tạc, kích động biểu tình, bạo loạn để nhận thù lao, tài trợ từ các cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam ở nước ngoài. Vì thế, chúng ra sức đăng tải nhiều bài viết, video nhằm xuyên tạc rằng Luật An ninh mạng để “bịt miệng” không để người dân đưa ra tiếng nói, “trên Thế giới chỉ Trung Quốc và Việt Nam ban hành Luật An ninh mạng”… để kêu gọi mọi người phản đối sự ra đời của Luật An ninh mạng.

Ngay từ khi có hiệu lực, số lượng những bài viết, video mang tính chất cổ súy bạo lực, tệ nạn xã hội, kích động bạo loạn tần suất đã giảm, các đối tượng có hành vi tung tin giả phục vụ mục đích xấu đều bị Cơ quan Công an phát hiện, xử lý và ngăn chặn hậu quả kịp thời, điển hình: Từ năm 2017 đến nay, Cơ quan Công an đã liên tục điều tra, bắt, xử lý theo quy định của pháp luật đối với một số đối tượng như Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Trương Ca, Lê Minh Thể… đã có hành vi sử dụng tài khoản blog, Facebook cá nhân và trang Youtube, làm ra, tàng trữ, sử dụng trang mạng xã hội đăng tải các video có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, truyền bá những tư tưởng phản động, gieo rắc sự nghi ngờ, gây hoang mang trong nhân dân... nhằm mục đích chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ngoài ra, các đối tượng sử dụng mạng xã hội để tung tin giả nhằm câu view, câu like, giật tít hoặc phục vụ các mưu đồ ích kỷ cá nhân gây hoang mang trong dư luận quần chúng, những hệ lụy nghiêm trọng đến đời sống của người dân đều bị Cơ quan Công an ngăn chặn và xử lý. Nhờ đó đã làm tăng thêm lòng tin vào vai trò của Luật An ninh mạng đối với cuộc sống bản thân người dân Việt Nam

Internet nói chung và Mạng xã hội nói riêng đã, đang và sẽ tiếp tục là một công cụ làm việc, ứng dụng giải trí, nguồn thông tin quan trọng trong cuộc sống của người Việt Nam cũng như kết nối mọi người đến với nhau. Tuy nhiên, để khai thác các tiện ích Internet một cách tích cực và an toàn, mỗi người cần trang bị kiến thức, biết chắt lọc thông tin và đặc biệt là việc đăng tải, chia sẻ. Với trách nhiệm là người công dân Việt Nam sống trong đất nước hòa bình, độc lập, chúng ta hãy cùng nhau mạnh mẽ lên án những phần tử quá khích lợi dụng không gian mạng để chống phá nhà nước, xem đây là nghĩa vụ của mỗi một người dân.

 PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN MỚI CỦA "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH"

Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là không thay đổi, song chúng luôn có phương thức và thủ đoạn mới hết sức tinh vi, nham hiểm để chống phá cách mạng nước ta. Bởi vậy, thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần những chiêu trò mới của chúng để có giải pháp đấu tranh, phòng, chống hiệu quả là một nội dung hết sức quan trọng. Sự biến thái mới về phương thức, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay được thể hiện trên một số điểm sau đây:

Một là, chủ thể của “diễn biến hòa bình” không chỉ là các thế lực thù địch, các nước đế quốc tư bản mà còn có cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bành trướng và bá quyền, kể cả các phần tử cơ hội, bất mãn trong nước. Theo đó, động cơ chính trị của “diễn biến hòa bình” đã chuyển từ đấu tranh ý thức hệ trước đây sang đấu tranh vì lợi ích dân tộc cục bộ, trên nhiều phương diện. Dưới sự tác động của các thế lực bằng các chiêu bài khác nhau đã dẫn đến xung đột (nội chiến tương tàn) ngay trong lòng một đất nước, thậm chí lan rộng, ảnh hưởng đến cả một khu vực. Điển hình là cuộc chiến đậm màu ý thức hệ hiện đang diễn ra tại khu vực Trung Đông, Bắc Phi, v.v.

Hai là, phương thức hoạt động đã chuyển trọng tâm từ bên ngoài tác động vào bên trong các nước sang thúc đẩy các hoạt động chống đối ngay bên trong nội địa, trong nội bộ và tại chỗ là chính. Với chiêu thức thông qua các hoạt động tài trợ (cả công khai và ngấm ngầm), các thế lực thù địch đã nuôi dưỡng và thúc đẩy các “hội, nhóm” ngay trong nội địa hoạt động chống phá, thậm chí tạo cớ để can thiệp. Vụ đảo chính bất thành tại Thổ Nhĩ Kỳ, Sirya hay lật đổ chế độ của Tổng thống Gaddafi ở Libya là một minh chứng.

Ba là, “diễn biến hòa bình” đã phát triển đến đỉnh cao, coi đó như là một “công nghệ lật đổ”, với kịch bản gồm: hình thành lực lượng đối lập sẵn sàng cho một cuộc bầu cử; đẩy mạnh chiến dịch truyền thông kích động trong các cuộc bầu cử; tẩy chay hoặc không công nhận kết quả bầu cử nếu phe đối lập không chiến thắng; tổ chức cho các đám đông với tên gọi là “người dân” xuống đường đấu tranh, cộng hưởng bởi các phương tiện truyền thông gây ra bạo lực đường phố. Đồng thời, có sự can thiệp từ bên ngoài vào với danh nghĩa ủng hộ “những chiến sĩ đấu tranh vì dân chủ” với cái cớ là “có gian lận trong bầu cử”; sử dụng công cụ thông tin và ngoại giao gây sức ép với chính quyền mới được bầu và ép họ từ chức, giải tán, hoặc bãi bỏ kết quả bầu cử; tuyên bố thắng lợi và công khai ủng hộ công nhận chính phủ mới thân họ. Ở ngay trong lòng châu Âu, “công nghệ lật đổ” được tiến hành tại U-crai-na thành công là một minh chứng sống động điển hình nhất. Hậu quả của nó chính là sự chia tách, ly khai giữa các vùng lãnh thổ và nguy cơ nội chiến có thể bùng phát bất cứ lúc nào.

Bốn là, gây sức ép về kinh tế - tài chính và tấn công mạng thông tin là hai phương thức nổi lên trong hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động và cường quyền đối với các nước nhỏ. Họ công khai ra các điều kiện mặc cả chính trị nếu không thì sẽ gia tăng các hình thức cấm vận, bao vây, cô lập về kinh tế, chính trị.

Năm là, triệt để sử dụng các trang mạng xã hội trên internet và vai trò của các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, thúc đẩy “xã hội dân sự”, kích động sự phản kháng của các phần tử chống đối ở trong nước biểu tình phản đối để lật đổ chế độ do các nhân vật và các đảng tiến bộ lãnh đạo.

Sáu là, làm thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc, chế độ chính trị của các nước theo hướng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và cường quyền vì lợi ích địa chính trị - kinh tế thay vì mục tiêu chính trị cực đoan.

 VẠCH TRẦN SỰ XUYÊN TẠC “MẤT GẠC MA DO LỆNH KHÔNG ĐƯỢC NỔ SÚNG”

Thời gian gần đây, một số đối tượng, tổ chức chống đối Đảng, Nhà nước ta lại tung những hình ảnh, video clip ghi lại phát biểu của chuyên gia này, chuyên gia kia hoặc áp đặt ý kiến chủ quan… cho rằng trận hải chiến Trường Sa 14/3/1988, ta mất Gạc Ma là do có lệnh không được nổ súng, cho rằng ta bưng bít thông tin chuyện mất đảo, dâng đảo cho Trung Quốc…, đây thực chất là những luận điệu xuyên tạc, phản động, quy chụp, nói xấu Đảng, Nhà nước ta, làm mất giá trị của công cuộc giữ biển, giữ đảo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung và hạ thấp vai trò của Quân đội nói riêng.

Có thể khẳng định một điều, không có chuyện “mất Gạc Ma do bộ đội Hải quân không dám nổ súng, vì một lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh không được nổ súng trong bất kỳ trường hợp nào”, không có chuyện “Nhà nước bưng bít thông tin vụ 14/3/1988”. Chúng ta hãy ngược lại thời gian về năm 1988, ngay sau khi trận Gạc Ma 14/3/1988 xảy ra, Báo Nhân Dân và Báo Hà Nội Mới số ra ngày 15/4/1988 đã đăng tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội dung có đoạn: “Tàu của ta đã buộc phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen, vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu chiến của Trung Quốc”. Thực chất tuyên bố này nói lên điều gì? Nếu các chiến sĩ Hải quân Việt Nam không được nổ súng thì tại sao Trung Quốc có 6 lính chết và 18 lính bị thương trong cuộc hải chiến đó?
“Bình tĩnh, kiên quyết, khôn khéo xử lý, không nổ súng trước, không mắc mưu khiêu khích của đối phương”, đó là nguyên tắc ứng xử của bộ đội Hải quân Việt Nam trước các hành động gây hấn của Trung Quốc năm 1988 và các năm sau, cho đến tận ngày nay, thì tại sao lại nói rằng, bộ đội Hải quân không dám nổ súng, vì lệnh không được nổ súng trong bất kỳ trường hợp nào. Ở đây, “Không nổ súng trước” thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, sự đấu trí, đấu lực của bộ đội hải quân ta trước trò khiêu khích của hải quân Trung Quốc, khác hẳn “không được nổ súng”. Địch đã nổ súng giết chính đồng đội, cấp dưới của mình mà lại nói là không cho nổ súng thì hoàn toàn là bịa đặt. Không có bất cứ người chỉ huy nào lại để quân của mình làm bia cho quân thù bắn cả.

Nói rằng, Nhà nước bưng bít thông tin vụ 14/3/1988 là hoàn toàn sai, ngay sau khi sự kiện ngày 14/3/1988 nổ ra, các cơ quan truyền thông của Việt Nam đã lên tiếng rất mạnh mẽ; kiểm chứng điều này, hãy đến thư viện, tìm đọc các số báo ra trong nửa sau tháng 3/1988 và tháng 4, tháng 5/1988 sẽ thấy rất rõ. Một điều nữa là, không phải chỉ khi có sự kiện 14/3/1988, mà ngay từ tháng 01/1988, khi Trung Quốc bắt đầu có các hành động chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, báo chí và nhân dân Việt Nam đã liên tục, mạnh mẽ lên án hành động xâm lược của Trung Quốc.

Trước các sự kiện chính trị trọng đại, nhạy cảm của đất nước, việc các thế lực thù địch xuyên tạc, chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ không phải là điều lạ; những luận điệu xuyên tạc, kích động, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta thực chất là chống lại nhân dân, chúng ta cần phải biết rõ, chủ động phản bác lại. Đặc biệt, trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tỉnh táo phân biệt những thông tin đúng, chính thống để giữ vững niềm tin, hành động đúng đắn, tránh rơi vào luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.

 MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện để cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ được vận hành thông suốt, là nhân tố quyết định việc hiện thực hóa khát vọng đi lên CNXH của nhân dân ta.

1. Những trở lực trong xây dựng CNXH ở Việt Nam

Trên con đường đi lên CNXH, bên cạnh những khó khăn, thách thức từ tác động của tình hình chính trị thế giới, của suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh thương mại, quân sự giữa các quốc gia,… nội tại hệ thống chính trị nước ta tồn tại nhiều trở lực cần vượt qua:

Một là, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” chưa thực sự phát huy hết vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước mang tính tổ chức cao, bảo đảm tập trung thống nhất và phân công, phân cấp theo phạm vi không gian và nhiệm vụ chính trị. “Nhân dân” là lực lượng xã hội, bao hàm tất cả mọi người dân thuộc mọi giai tầng, có điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu lợi ích khác nhau. Để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, Đại hội XIII của Đảng đã xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ(1). Tuy nhiên, về lý thuyết cũng như trên thực tế, nội dung, phương thức và hiệu quả “làm nòng cốt” của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa thực sự rõ. Bởi như Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới”(2).

Hai là, vấn đề năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.

Năng lực lãnh đạo, cầm quyền là khả năng của Đảng cầm quyền trong ban hành các quyết định để lãnh đạo hệ thống chính trị, tổ chức các lực lượng thực hiện quyết định và kiểm tra, giám sát để kịp thời đánh giá, điều chỉnh, kiểm soát quyền lực và xử lý vấn đề phát sinh trong quá trình hiện thực hóa quyết định lãnh đạo; là khả năng nhận biết, đối diện và khắc phục khó khăn, thách thức, phòng tránh nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, tự chuyển hóa” trong nội bộ và sự chống phá của các thế lực thù địch; là sức mạnh vượt lên, vượt qua rào cản của tư duy lạc hậu, trì trệ; là sự năng động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung để tạo đột phá thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới đất nước có nhân tố quyết định là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Song, thực tế cũng còn nhiều mục tiêu chính trị của Đảng chưa đạt được. Nhiều vướng mắc, hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo hệ thống chính trị làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nguyên nhân được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra là: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp (…) tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu (…). Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(3). Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(4).

Ba là, vai trò, trách nhiệm, quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng Nhà nước chưa thực sự được phát huy.

Đại hội XIII của Đảng đánh giá việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều thành tựu, song “có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”(5). Dù đã có Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, song bộ máy các cơ quan nhà nước vẫn còn tình trạng cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương chưa thực sự quyết liệt, cơ chế kiểm soát quyền được phân cấp chưa thực sự rõ ràng, cần được hoàn thiện. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp được tiến hành qua nhiều giai đoạn, song đến nay, hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ, nhiều khoảng trống; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được phát huy đầy đủ; đội ngũ cán bộ, công chức chưa “tinh”, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu hội nhập, một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất; quản lý tài chính công ở một số cơ quan lỏng lẻo, tồn tại những thiếu sót, tạo mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tiêu cực…

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” chỉ rõ: vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; “quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền… chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Những hạn chế, khuyết điểm trên là trở lực đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Bốn là, sự chống phá của các thế lực thù địch mọi lúc, mọi nơi, trên mọi phương diện.

Trên lĩnh vực tư tưởng, thông qua các phương tiện truyền thông, các tổ chức phản động, tuyên truyền xuyên tạc Cương lĩnh chính trị của Đảng, phủ định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bóp méo, làm lệch lạc mô hình CNXH mà nhân dân ta đang hướng đến, phủ định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, đòi xây dựng mô hình nhà nước Việt Nam theo “tam quyền phân lập”, cổ xúy cho sự hình thành xã hội dân sự đặt ra ngoài sự lãnh đạo của Đảng…

Các thế lực phản động hô hào và tổ chức các “hành động thực tế”, nhen nhóm và duy trì các tổ chức phản động ở nước ngoài, rồi móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước, tổ chức hoạt động khủng bố, kích động bạo lực, khiếu kiện, biểu tình gây mất an ninh, trật tự xã hội, phá hoại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chúng “tôn vinh”, “cổ xúy” cho những cán bộ bất mãn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những người dân hạn chế về nhận thức chính trị, biến họ trở thành “nhân chứng sống”, thành “loa” tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.

Trên thực tế, bằng những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng hòng phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nhà nước, lật ngược bản chất của cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực, khuếch đại nguy cơ mất độc lập, chủ quyền, khoét sâu những mâu thuẫn, hạn chế, tiêu cực, gây mất niềm tin của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế đối với vai trò cầm quyền của Đảng.

2. Đề xuất một số giải pháp

Một là, nâng cao nhận thức về yêu cầu tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện trong tình hình mới

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện là trách nhiệm, nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề hạn chế, vướng mắc, cản trở công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam có nguyên nhân từ năng lực, hiệu quả hoạt động của Đảng và cả hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, thì việc nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp chủ thể, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh toàn diện là giải pháp quan trọng và cần thiết.

Để nâng cao nhận thức, cần tăng cường công tác tư tưởng, bằng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để có đánh giá đúng về thực trạng, mức độ hiệu quả của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thời gian qua; xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và điều kiện bảo đảm cho bộ máy, đội ngũ trên hoàn thành nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đưa nội dung xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vào các cuộc sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đoàn thể, vào hoạt động của cơ quan dân cử, tiếp dân, đối thoại với dân, vào quá trình xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, vào công tác cán bộ, đảng viên, vào xây dựng phong trào hành động cách mạng ở cơ quan, địa phương.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn kinh tế, văn hóa, chính trị; thông qua hoạt động của các cơ quan chuyên trách công tác tư tưởng của hệ thống chính trị, nòng cốt là Ban Tuyên giáo cấp ủy các cấp… để đưa chủ trương, định hướng chính sách xây dựng Đảng, hệ thống chính trị vào các lực lượng, chủ thể, động viên, khích lệ, bảo vệ những tập thể, cá nhân có sáng kiến giải pháp hợp lý, có bản lĩnh đấu tranh chống sự thờ ơ, vô trách nhiệm, chủ nghĩa cá nhân.

Thống nhất nhận thức về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”, để trong xây dựng thể chế vận hành hệ thống chính trị, thành tố tổ chức này không lấn át, hay xa rời, ức chế sự vận động của thành tố kia.

Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị, nên xây dựng Đảng phải phòng tránh, loại trừ tình trạng bao biện, làm thay hay buông lỏng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

Nhà nước quản lý bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước phải hướng đến tăng cường pháp chế, song pháp luật không phải để trói buộc, mà kiến tạo để phát triển, như “là một đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện thuận lợi” cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vận động nhân dân thực hiện thành công đường lối của Đảng.

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội xứng đáng là các tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích của quần chúng nhân dân, song mục tiêu lợi ích trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể không được trái với mục tiêu lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc. Đó cũng là cơ sở để cảnh giác và đấu tranh với luận điệu đòi xây dựng “xã hội dân sự” ở Việt Nam với tư cách là lực lượng đối lập với Đảng Cộng sản.

Song song với xây dựng, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo vệ Đảng và hệ thống chính trị trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Quán triệt trong các cấp ủy, chi bộ đảng các văn bản lãnh đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 18-8-2014 của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Kết luận số 72-KL/TW ngày 19-5-2020 của Bộ Chính trị “về tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Quy định số 58-QĐ/TW ngày 08-02-2022 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”.

Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo tinh thần Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ nội bộ. Xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án chống Nhà nước; tuyên truyền rộng rãi kết quả xử lý để nhân dân thấy rõ bộ mặt của những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân, đến vai trò, vị thế của Đảng và cả hệ thống chính trị.

Hai là, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ

Trước hết, phải thống nhất nhận thức yêu cầu về tính toàn diện trong xây dựng Đảng: phải tạo cho Đảng có một nền tảng tư tưởng vững chắc; có đường lối lãnh đạo đúng, nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp để huy động được lực lượng toàn Đảng, toàn dân làm cách mạng; trong Đảng trên dưới đoàn kết, thống nhất; tổ chức bộ máy của Đảng hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ năng lực, trình độ, có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có trách nhiệm, làm gương cho quần chúng noi theo; không tham nhũng, tiêu cực, vi phạm lợi ích của nhân dân và của dân tộc…

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(6). Muốn vậy, phải tổ chức quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội của Đảng và các nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, chú trọng tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, bảo đảm mục tiêu, con đường, nền tảng tư tưởng, bản lĩnh chính trị của Đảng được giữ vững, các quyết sách chính trị trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực được ban hành và tổ chức thực hiện hợp lý, thông suốt, phát huy dân chủ, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, gắn lý luận với thực tiễn và mang lại thắng lợi chính trị rõ nét.

Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng bằng việc đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức thông qua công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức; quyết liệt đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức gây mất niềm tin của nhân dân.

Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết trong Đảng.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Nhà nước theo hướng “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội(7).

Tổ chức thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Theo đó, tiến hành đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế thực thi quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội theo đúng tinh thần dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các bộ, các cơ quan chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực. Tiếp tục cải cách hành chính đồng bộ trên cả 6 nội dung mục tiêu (thể chế, thủ tục hành chính, bộ máy, công vụ, tài chính công và hiện đại hóa), bảo đảm có được nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát tốt, để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Nhà nước. Phát huy dân chủ, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, bảo đảm mọi hoạt động của Nhà nước đều phát huy vai trò của nhân dân theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Bốn là, xây dựng và phát huy vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

Tăng cường xây dựng, đổi mới tổ chức bộ máy Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác trong từng tổ chức và giữa các tổ chức. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể theo hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với đoàn viên, hội viên, khắc phục tình trạng :hành chính hóa”, “công chức hóa”. Thực hiện nghiêm chủ trương rà soát, sắp xếp, tinh giản biên chế.

Tiếp tục quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực công tác của cán bộ chuyên trách, khắc phục tình trạng bố trí cán bộ yếu kém, hoặc vi phạm kỷ luật ở cơ quan Đảng, chính quyền sang giữ vị trí lãnh đạo các cơ quan thường trực khối mặt trận, đoàn thể. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp trong đầu tư, hỗ trợ điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoạt động thuận lợi. Rà soát, đổi mới cơ chế quản lý tài chính, phân bổ ngân sách nhà nước, nghiên cứu thực hiện khoán kinh phí để phát huy tính tự chủ, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc và bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của chính quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng để phát huy vai trò tham mưu và nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong công tác dân vận. Tiếp tục lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể tổ chức triển khai và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, giám sát sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể xây dựng các phong trào hành động cách mạng để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN./.

 Tạp chí Lý luận Chính trị

 HÃY “UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN”, ĐỪNG “BÓP MÉO LỊCH SỬ”

Trong khi cả nước đang tiến hành những hành động thiết thực để kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/19 - 27/7/2024 ) thì một số người lại có suy nghĩ “xét lại” lịch sử. Họ đặt ra câu hỏi: Ai gây ra sự tổn hao xương máu của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Và rồi, họ cũng tự cho mình quyền phán xét: Đảng Cộng sản Việt Nam là người phải chịu trách nhiệm trước những mất mát, hi sinh của dân tộc. Đây là quan điểm sai trái, “bóp méo lịch sử” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. 

Trải qua hàng ngàn năm, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Bản chất nhân hậu, yêu hòa bình, yêu đất nước đã được đúc kết thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thế nhưng, với vị trí chiến lược đặc biệt, dân tộc ta luôn luôn là mảnh đất màu mỡ, là miếng mồi cho các thế lực ngoại bang xâm chiến. Trong lịch sử, ông cha ta luôn giữ vững tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, đánh thắng mọi cuộc xâm lược của ngoại bang để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ con người Việt Nam, bảo vệ văn hóa Việt Nam… 

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam nhằm mở rộng thị trường, đặt ách thống trị và bóc lột dân tộc ta. Mặc cho triểu đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi thỏa hiệp, nhân dân ta vẫn kiên cường đấu tranh theo đúng tinh thần của Nguyễn Trung Trực: “bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”. Tuy nhiên, phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và xu hướng dân chủ tư sản đã không còn phù hợp với xu thế của thời đại mới. Các cuộc khởi nghĩa dù anh dũng, hào hùng nhưng đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu.

Giữa lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc ta. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác, con đường cách mạnh vô sản. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đưa ra đường lối cứu nước với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Nắm vững bản chất phản động, hiếu chiến của đế quốc thực dân, Đảng khẳng định phải sử dụng sức mạnh bạo lực cách mạng của quần chúng mà phương thức cơ bản là khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng đánh bại bạo lực phản cách mạng của thực dân Pháp và tay sai. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thắng lợi của tinh thần đoàn kết, của ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, của đường lối lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng.

Con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (12/1946), Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Với đế quốc Mỹ, chúng ta đã thi hành các biện pháp để đất nước được độc lập, thống nhất bằng con đường hòa bình thông qua tổng tuyển cử tự do (theo đúng Hiệp định Giơnevơ năm 1954), nhưng chính các thế lực hiếu chiến Mỹ và tập đoàn tay sai đã phát động chiến tranh, chia cắt lâu dài đất nước ta. Vậy chính đế quốc, thực dân và tay sai là kẻ đã gây ra chiến tranh, phát động chiến tranh để hòng thống trị và bóc lột nhân dân ta. 

Chúng ta yêu hòa bình, độc lập, tự do nhưng đó phải là nền hòa bình, độc lập, tự do thực sự chứ không phải là nền hòa bình, độc lập, tự do giả hiệu. Độc lập, tự do của chúng ta chỉ có được bằng cuộc đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Sự hi sinh xương máu để có được hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là lẽ đương nhiên mà mọi người Việt Nam yêu nước đều tự giác dâng hiến theo đúng tinh thần: quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Chúng ta không chấp nhận khoanh tay đứng nhìn, quỳ gối để mong đế quốc, thực dân ban phát cho thứ hòa độc lập, tự do giả hiệu, bánh vẽ. Đó là truyền thống, là đạo lý của dân tộc, hiện hữu trong mỗi người con đất Việt.

 Ông cha đã không tiếc hi sinh, mất mát để giành lại hòa bình, giành lại độc lập, tự cho cho đất nước. Chúng ta luôn tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của các thế hệ ông cha, trân trọng giá trị hòa bình, độc lập, tự do của đất nước. Lịch sử sẽ mãi ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, công ơn của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã đem lại độc lập, tự do, để đất nước tồn tại và phát triển. Mọi luận điệu đổ lỗi, thậm chí muốn kết tội Đảng Cộng sản Việt Nam là đi ngược lại ý chí của nhân dân Việt Nam, là đồng lõa với kẻ thù dân tộc – những kẻ phải chịu trách nhiệm về những mất mát, hao tổn xương máu của nhân dân./.

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN ĐẾN QUAN ĐIỂM “NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

Vấn đề mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn đã được đề cập rất sớm từ thời cổ đại. Tuy nhiên, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin mới đưa ra quan niệm thực sự khoa học về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nhận thức, đưa ra quan điểm khoa học, cách mạng về cái khách quan và cái chủ quan, lý luận, thực tiễn, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Còn lý luận là sản phẩm phát triển cao của nhận thức, là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu của hiện thực khách quan.

Vấn đề lý luận và thực tiễn đã được thống nhất thành một chỉnh thể. Thực tiễn và lý luận là hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn trong cùng một chỉnh thể thực tiễn.

Những cống hiến vĩ đại của Chủ nghĩa Mác - Lênin cả về lý luận và thực tiễn đã góp phần làm cho hệ thống lý luận của Mác, Ăngghen ngày càng hoàn bị. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích về mặt lý luận, mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn trên cơ sở lý luận. Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác đã dung hợp lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp thành một chỉnh thể không tách rời..”. Đó là mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.

Quan niệm về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn chiếm một vị trí quan trọng trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, và trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, thì thực tiễn là cái luôn giữ vai trò quyết định; còn lý luận có tính độc lập tương đối của nó. Điều này có nghĩa là: Sự hình thành và phát triển của lý luận một mặt, bị quy định bởi thực tiễn lịch sử xã hội, mặt khác lại phụ thuộc vào sự tác động của các yếu tố bên trong của nó.

Như vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn còn có sự tác động qua lại và bổ trợ cho nhau. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn còn được hiểu theo cách phù hợp và tương thích cũng như tính điều kiện cần và đủ. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn lại mang tính chất vận động, phát triển liên tục tương hỗ, bảo trợ giữa thực tiễn và lý luận.

Từ những quan điểm “Lý luận và Thực tiễn” của Chủ nghĩa Mác - Lênin nêu trên, Hồ Chí Minh đã hệ thống hóa một cách tinh tế thành những quan điểm toàn diện và sâu sắc và rất thực tiễn về những vấn đề thực tiễn ở nước ta. Quan điểm “Nói đi đôi với làm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc cách mạng về nhận thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". 

Từ thực tiễn, Người nói: “Có những kẻ miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến Tổ quốc, nhân dân”. Nói thì cứ nói, nhưng làm thì cứ làm. Người nói: Nói cái gì phải cho tin - nói và làm cho nhất trí - làm thế nào cho dân tin”. Nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”, từ đó “nói phải đi đôi với làm”.

Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng. Thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đi cùng nhau, hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau. Hồ Chí Minh căn dặn: “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”.

Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “kinh thánh”, là những công thức có sẵn, cứng nhắc mà nên biết vận dụng, cải biến, sáng tạo thành những thuật ngữ dễ hiểu, đơn giản để mọi người đều hiểu. Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mới có hiệu quả và những vấn đề lý luận cao siêu của chủ nghĩa Mác mới đi vào hiện thực được./.

 

TƯ TƯỞNG BẢO VỆ TỔ QUỐC “TỪ SỚM, TỪ XA” TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII

             Tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi đổi mới đất nước. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Từ thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của an ninh, đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng; về nội hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nhấn mạnh việc kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ phát triển và hội nhập. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Có kế sách phòng ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Đồng thời tiếp tục chủ trương: “Phải chuyển mạnh sang việc “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”.

Quan điểm trên là sự thể hiện tầm nhìn chiến lược mới về quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; thể hiện tính chủ động trong nắm, phân tích tình hình thế giới, khu vực, đất nước và lường đón những phát triển trong thời gian tới của Đảng ta.

Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đòi hỏi chúng ta phải chủ động bám sát tình hình, tích cực nghiên cứu, nhất là nghiên cứu, dự báo chiến lược; đánh giá kịp thời về đối tượng, đối tác; dự kiến các tình huống chiến lược có thể xảy ra.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bao hàm cả yếu tố thời gian và không gian:

Nói đến từ “sớm” có nghĩa nói về thời gian. Các yếu tố, nội dung bảo vệ Tổ quốc đều được chủ động tiến hành từ sớm, từ trước, duy trì thường xuyên, liên tục, về mọi mặt trong thời bình. Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển cũng là quá trình triển khai các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước. Nói “bảo vệ Tổ quốc từ sớm” có nghĩa là phải có chiến lược bảo vệ, tự bảo vệ bên trong; phòng chống, ngăn ngừa, triệt tiêu các nhân tố phá hoại, mất ổn định bên trong lẫn bên ngoài.

Còn “bảo vệ Tổ quốc từ xa” (không gian), được hiểu là cần chủ động, cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Hiện nay, cần chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền, biển, đảo, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện rõ tinh thần chủ động, tích cực chăm lo xây dựng sức mạnh tổng hợp của quốc gia ngay từ trong thời bình và ngay từ bây giờ. Xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, thực hiện “nước nhà cường thịnh, giang sơn thêm vững bền”, “quốc phú, binh cường” là “kế sách” bảo vệ Tổ quốc tích cực nhất, chủ động nhất và có hiệu quả nhất; phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay./.