Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Bộ Tổng Tham mưu với công tác nghiên cứu, tham mưu xây dựng, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng trong thời kỳ mới

 

79 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam luôn thể hiện đúng vai trò cơ quan quân sự cơ mật, tham mưu chiến lược, đầu não của Quân đội và dân quân tự vệ.

Suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, mỗi chiến dịch lớn, từng trận quyết chiến chiến lược tạo nên bước ngoặt, cục diện mới để kết thúc chiến tranh và suốt 49 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng QĐND thời kỳ mới, trở thành một quân đội anh hùng đều có công sức, trí tuệ, tài nghệ tham mưu, chỉ huy, quản lý, điều hành của BTTM dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Để có kết quả đó, Đảng ủy, thủ trưởng BTTM luôn lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt công tác, trong đó hết sức quan tâm công tác nghiên cứu, tham mưu phát triển lý luận quân sự, quốc phòng (QS, QP). Với 79 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đặc biệt là 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9-10-2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, BTTM đã chủ trì, phối hợp nghiên cứu, tham mưu với Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước phát triển hệ thống lý luận cơ bản về QS, QP làm cơ sở dẫn đường cho tổ chức thực hiện thắng lợi sự nghiệp BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành tích tiêu biểu.

Nghiên cứu, tham mưu xây dựng phát triển lý luận về nghệ thuật QS, QP

Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được Đảng ủy, thủ trưởng BTTM-Cơ quan Bộ Quốc phòng hết sức quan tâm. Đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu, phát triển lý luận nghệ thuật QS, QP của BTTM được đánh giá cao, góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận nghệ thuật QS, QP Việt Nam, nhất là nghiên cứu, tham mưu cho QUTƯ, Bộ Quốc phòng nội dung về QS, QP trong xây dựng các Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), nghị quyết đại hội Đảng các nhiệm kỳ, cũng như nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị, QUTƯ về QS, QP. Nổi bật là nghiên cứu, tham mưu để Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 16-KL/TW ngày 7-7-2017 và Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-8-2017 về tổ chức lực lượng và bảo đảm vũ khí, trang bị cho QĐND Việt Nam; tham mưu hoạch định các chiến lược(*), nghị quyết của Bộ Chính trị và của QUTƯ về tổ chức QĐND Việt Nam trong tình hình mới.

Những vấn đề mới về lý luận được bổ sung, phát triển, tiêu biểu như: Xác định các hình thái chiến tranh, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy, điều hành tác chiến chiến lược, nghệ thuật chiến dịch, chiến lược; phương thức tác chiến (phòng thủ chiến lược, chiến lược tiến công tổng hợp, tác chiến không gian mạng); lý luận tác chiến liên hợp; tổ chức quân đội thời kỳ mới, tiêu chí quân đội hiện đại; sách trắng quốc phòng, đấu tranh quốc phòng; phát triển từ lý luận bạn, thù sang đối tác, đối tượng... Bên cạnh đó, BTTM còn tổ chức nghiên cứu, tham mưu với QUTƯ ban hành các nghị quyết về huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giáo dục-đào tạo, khoa học quân sự... Từ đây đã hình thành nên hệ thống lý luận nghệ thuật QS, QP rất phong phú, có giá trị định hướng cho cả trước mắt và lâu dài, bảo đảm mọi hoạt động QS, QP luôn đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và đạt hiệu quả cao, góp phần BVTQ trong thời kỳ mới.

Bộ Tổng Tham mưu với công tác nghiên cứu, tham mưu xây dựng, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng trong thời kỳ mới

Khối nữ quân nhân tại Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-2024). Ảnh: TUẤN HUY 

Tham gia nghiên cứu, tham mưu phát triển hệ thống lý luận về BVTQ là công sức, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cơ quan chủ trì tham mưu là QUTƯ, Bộ Quốc phòng, cùng các ban, bộ, ngành khác, trong đó cơ quan trung tâm phối hợp, hiệp đồng tổ chức nghiên cứu, tham mưu cho QUTƯ là BTTM-Cơ quan Bộ Quốc phòng.

Dấu ấn nổi bật là đã tham mưu xây dựng Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, XI, XIII về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Bổ sung, phát triển lý luận về quan điểm, mục tiêu, phương châm, phương thức, sức mạnh BVTQ. Cái mới là định hình được quan điểm chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; quan điểm “dân là gốc”, trung tâm, chủ thể của sự nghiệp BVTQ; bảo vệ môi trường hòa bình, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, nền văn hóa, an ninh phi truyền thống, biển, đảo, không gian mạng, vũ trụ; phương châm giữ “trong ấm, ngoài êm”; “làng giữ làng, bản giữ bản, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”, không trông chờ, ỷ lại. Mở rộng không gian chiến tranh, thu hẹp phạm vi chiến trường; rút ngắn thời gian chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh lâu dài, phát triển chính sách quốc phòng "4 không"...

Về phương thức BVTQ, bên cạnh phương thức đấu tranh vũ trang, phát triển sức mạnh quốc phòng, lấy sức mạnh quân sự làm nòng cốt, đủ khả năng răn đe và đánh thắng mọi hành động xâm lược, chiến tranh, đã có sự phát triển phù hợp hơn như kết hợp sử dụng nhiều phương thức, nhấn mạnh phương thức đấu tranh phi vũ trang, đấu tranh quốc phòng, coi trọng xây dựng tự bảo vệ; lấy phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính, lấy ngoại giao làm mũi nhọn tiên phong trong giải quyết tranh chấp, xung đột quốc tế, BVTQ từ sớm, từ xa.

Về sức mạnh giữ nước “bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là QĐND...”.

Tích cực tham gia nghiên cứu, phát triển lý luận về kết hợp KT-XH với quốc phòng, an ninh, đối ngoại

BTTM luôn chủ động tham gia tiến trình nghiên cứu phát triển lý luận về kết hợp KT-XH với quốc phòng, an ninh (QPAN), đối ngoại. Trong các văn kiện đại hội Đảng từ nhiệm kỳ Đại hội XI về trước thường đề cập kết hợp kinh tế với QPAN, từ Đại hội XII đã có sự phát triển rõ hơn, đầy đủ, toàn diện hơn thành kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với QPAN và QPAN với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại.

Đóng góp nổi bật là BTTM-Cơ quan Bộ Quốc phòng đã chủ trì tham mưu với QUTƯ xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành nghị quyết, đề án, đặc biệt là Kết luận về tăng cường tiềm lực QPAN kết hợp với phát triển KT-XH trên hướng chiến lược phía Tây Nam và phía Tây của Tổ quốc; về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; nghị quyết về phát triển KT-XH các xã biên giới đất liền, kết hợp với tăng cường củng cố QPAN, đối ngoại.

Tham mưu với QUTƯ ban hành nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng của Quân đội; về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. BTTM-Cơ quan Bộ Quốc phòng còn có nhiều công trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn về đối ngoại, tăng cường đoàn kết quốc tế với Lào, Campuchia, Cuba, Trung Quốc, Cộng đồng ASEAN... Sự bổ sung, phát triển lý luận về kết hợp KT-XH với QPAN, đối ngoại làm cho hệ thống lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú, toàn diện, phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Chủ trì nghiên cứu, tham mưu xây dựng các văn bản pháp luật về QS, QP, tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả BVTQ

Nhận thức đúng chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực QS, QP nên BTTM đã chủ trì, phối hợp nghiên cứu, tham mưu xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Tiêu biểu là đã chủ trì, phối hợp nghiên cứu, tham mưu xây dựng Luật Quốc phòng, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, Luật Dân quân tự vệ, Luật Lực lượng dự bị động viên, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự...

BTTM cũng nghiên cứu, xây dựng hệ thống các văn bản nghị định, thông tư, hướng dẫn triển khai thực hiện nhiệm vụ QS, QP trên phạm vi cả nước như: Nghị định về khu vực phòng thủ, kết hợp kinh tế với quốc phòng, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm, quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn, vật nổ sau chiến tranh, công tác quốc phòng ở bộ, ngành Trung ương, địa phương... Đây là cơ sở pháp lý để hoạt động QS, QP tuân thủ đúng Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong thời kỳ mới

Từ sự biến động phức tạp của tình hình chính trị, an ninh thế giới; tình trạng bất ổn chính trị, xung đột, chiến tranh, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; sự điều chỉnh chiến lược, tự chủ chiến lược và tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức quốc tế mới đặt ra cho BTTM phải làm tốt chức năng tham mưu, chỉ đạo, điều hành chiến lược, trong đó có nghiên cứu phát triển lý luận QS, QP, BVTQ.

Tiếp tục nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật QS, QP

Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật QS, QP, trong đó, tiếp tục phát triển lý luận về đường lối, học thuyết quốc phòng, học thuyết quân sự Việt Nam làm cơ sở học thuật, nền tảng lý luận cho phát triển lý luận và chỉ đạo thực tiễn hoạt động QS, QP đạt hiệu quả cao.

Nghiên cứu phát triển lý luận về tác chiến chiến lược; tham mưu hoạch định chiến lược bảo vệ biển, đảo, không phận quốc gia, hệ thống các chiến lược ngành (chuyên ngành) trong Quân đội; tiếp tục làm rõ lý luận về QĐND hiện đại; lý luận tác chiến tổng lực, tác chiến số, tác chiến liên hợp, tác chiến không người lái, vận dụng trong chiến tranh nhân dân BVTQ thời kỳ mới.

Bổ sung, phát triển lý luận xây dựng nền quốc phòng toàn dân BVTQ

Nắm vững mục tiêu bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc và định hướng trong Chiến lược quốc phòng “Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù”, cần tổ chức nghiên cứu về học thuyết BVTQ từ sớm, từ xa; lý luận về nhận diện và đấu tranh, ứng phó với các nguy cơ, thách thức đối với QPAN, BVTQ thời kỳ mới; lý luận về nền quốc phòng toàn dân, nhất là về các tiềm lực, thế trận văn hóa, đối ngoại; nội hàm thế trận, đấu tranh quốc phòng; thống nhất lý luận lợi ích quốc gia-dân tộc và mục tiêu BVTQ.

Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển lý luận về kết hợp KT-XH với QPAN, đối ngoại

Nghiên cứu, làm rõ lý luận về kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN, đối ngoại trong bối cảnh mới. Làm rõ lý luận về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; phát triển kinh tế vùng biên gắn với bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia; phát triển kinh tế số gắn với BVTQ trên không gian mạng; phát triển kinh tế vùng gắn với phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ các cấp; phát triển kinh tế đối ngoại gắn với BVTQ từ sớm, từ xa; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Nghiên cứu tham mưu xây dựng chiến lược, luật về kết hợp kinh tế với QPAN, đối ngoại..., làm rõ lý luận về “Chủ động thiết lập tuyến phòng thủ, tạo vành đai an ninh từ ngoài lãnh thổ, biên giới hành chính quốc gia để bảo vệ vững chắc Tổ quốc”.  

Nâng cao năng lực tham mưu, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về QS, QP

Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách về QS, QP, chú trọng tham mưu xây dựng Luật Phòng không nhân dân, Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, các văn bản pháp luật về BVTQ từ sớm, từ xa, BVTQ trên không gian mạng, vũ trụ... Tham mưu với QUTƯ tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 347-NQ/QUTW và Kết luận số 623-KL/QUTW về nâng cao chất lượng nghiên cứu dự báo, tham mưu chiến lược quốc phòng đến năm 2025 và những năm tiếp theo; tổng kết một số luật đã ban hành.

Bổ sung, phát triển lý luận QS, QP và BVTQ là nhiệm vụ quan trọng, vẻ vang, yêu cầu khách quan của sự nghiệp BVTQ thời kỳ mới. Phát triển lý luận để có cơ sở khoa học dẫn đường cho hoạt động thực tiễn giành thắng lợi. Vì vậy, cần tăng cường lãnh đạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy trí tuệ đội ngũ cán bộ, chiến sĩ BTTM-Cơ quan Bộ Quốc phòng để thực hiện công tác này.

Phong trào Thi đua Quyết thắng của LLVT Quân khu 2: Phát triển sâu rộng, vững chắc, đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất

 

Trong 5 năm qua, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 2 và cấp ủy, chỉ huy các cấp đã quán triệt nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên về công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT), cụ thể hóa thành các chủ trương, kế hoạch hành động thiết thực, cụ thể; mục tiêu, chỉ tiêu thi đua gắn sát với thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ của LLVT Quân khu.

Để công tác TĐKT và Phong trào Thi đua Quyết thắng (TĐQT) mang lại hiệu quả cao, trước hết, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ, định hướng tư tưởng, xây dựng động cơ, quyết tâm thi đua cho cán bộ, chiến sĩ; khơi dậy ý thức tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thách thức để giành những thành tích mới trên các mặt công tác.

Phong trào Thi đua Quyết thắng của LLVT Quân khu 2: Phát triển sâu rộng, vững chắc, đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất
Lãnh đạo, chỉ huy Quân khu 2 trao cờ thi đua của Bộ Quốc phòng và Quân khu tặng các tập thể tiêu biểu trong Phong trào Thi đua Quyết thắng năm 2023. Ảnh: HOÀNG TRUNG 

Kết hợp chặt chẽ Phong trào TĐQT với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" thời kỳ mới, thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”, chú trọng phát huy tinh thần nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp. Chỉ đạo tổ chức tốt hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, xây dựng Đảng bộ Quân khu vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; bảo đảm LLVT Quân khu luôn vững vàng, kiên định về chính trị, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Thông qua đó, Phong trào TĐQT của LLVT Quân khu 2 ngày càng phát triển sâu rộng, vững chắc và đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất; góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Nổi bật là, chủ động nghiên cứu, nắm, dự báo, đánh giá đúng tình hình, tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xử lý kịp thời các tình huống, không để bị động, bất ngờ, giữ ổn định an ninh chính trị địa bàn. Chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân ngày càng vững chắc; phối hợp chặt chẽ với các địa phương khảo sát, lập quy hoạch, đầu tư thi công nhiều công trình quan trọng trong phòng thủ Quân khu và khu vực phòng thủ các địa phương.

Cùng với đó, Phong trào TĐQT đã thúc đẩy thực hiện tốt các khâu đột phá được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu lần thứ IX, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của các đơn vị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, tập trung đột phá về xây dựng lực lượng, thực hiện sáp nhập, điều chỉnh tổ chức biên chế theo Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Kế hoạch của Bộ Quốc phòng; đột phá về nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, đã chú trọng đổi mới về phương pháp chỉ đạo, gắn huấn luyện, diễn tập sát với thực tiễn chiến đấu; đột phá về xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật, kỷ luật, đã tập trung tạo chuyển biến tích cực về ý thức tự giác của bộ đội gắn với xử lý nghiêm minh các tập thể, cá nhân vi phạm.

Bên cạnh đó, thực hiện Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Đơn vị quản lý tài chính tốt”, Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm hậu cần, tài chính, kỹ thuật đáp ứng kịp thời cho nhiệm vụ thường xuyên, đột xuất của LLVT Quân khu. Đặc biệt, công tác đối ngoại quốc phòng được Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu rất quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện; duy trì kết nghĩa và tích cực phối hợp giúp đỡ các đơn vị quân đội Bắc Lào; tăng cường giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào, Việt Nam-Trung Quốc, góp phần quan trọng thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác trên tuyến biên giới đất liền ở địa bàn Quân khu.

Phong trào Thi đua Quyết thắng của LLVT Quân khu 2: Phát triển sâu rộng, vững chắc, đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất
 Các đơn vị thuộc Sư đoàn 316 (Quân khu 2) thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, giải trí trong giờ giải lao trên thao trường. Ảnh: PHẠM HẢI 
Phong trào Thi đua Quyết thắng của LLVT Quân khu 2: Phát triển sâu rộng, vững chắc, đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất
Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316 (Quân khu 2) tích cực huấn luyện nâng cao trình độ thao tác sử dụng vũ khí, trang bị. Ảnh: ĐỨC ĐÀO 

Qua thực tiễn Phong trào TĐQT đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều điển hình tiên tiến với những cách làm khoa học, đổi mới, sáng tạo. Tiêu biểu như các mô hình, sáng kiến: “Xây dựng đơn vị huấn luyện kiểu mẫu”, “Luyện giỏi, rèn nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao”, “Hồ sơ thông tin chiến sĩ”, “5 phút lắng đọng”, “Mỗi ngày một nội dung, mỗi tuần một điều luật”, “Thực hiện 4 cùng với nhân dân”, “Khu kỹ thuật chính quy, an toàn, sẵn sàng chiến đấu cao”, “Vườn tăng gia kiểu mẫu”, “Quân, dân y kết hợp”, “LLVT đồng hành cùng nhân dân xây dựng nông thôn mới”, “Dân quân bám bản”, “Cơm nóng cho em”, “Xuân biên cương-Tết thắm tình quân dân”...

Cùng với đó là những tấm gương về tinh thần tận tụy, gắn bó máu thịt với dân, tích cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo. Đặc biệt hơn, đó là những tấm gương không quản ngại khó khăn, vất vả, hiểm nguy trong rà phá bom, mìn, vật nổ; tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; tham gia giúp dân phòng, chống đại dịch Covid-19 và nhiều cán bộ, chiến sĩ dầm mình trong mưa lũ, bùn đất để giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai xảy ra trên địa bàn các tỉnh Yên Bái, Hà Giang, Sơn La, Điện Biên... thời gian gần đây. Đó là những tấm gương ngời sáng tiêu biểu cho phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, là bằng chứng sinh động thể hiện rõ nét vai trò, động lực quan trọng trong Phong trào TĐQT của LLVT Quân khu.

Năm năm qua, Phong trào TĐQT của LLVT Quân khu đã có hàng nghìn lượt tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các cấp, các ngành và địa phương tôn vinh, khen thưởng. Trong đó, có gần 7.000 trường hợp được đề nghị khen thưởng thành tích cống hiến và thành tích trong các cuộc kháng chiến; 9 lượt đơn vị được tặng cờ thi đua của Chính phủ, 64 lượt tập thể được tặng cờ thi đua của Bộ Quốc phòng, 82 lượt tập thể được tặng cờ thi đua của Quân khu, 57 cá nhân đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quân và hàng nghìn lượt tập thể đạt danh hiệu Đơn vị Quyết thắng, Đơn vị Tiên tiến, cá nhân đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, Chiến sĩ tiên tiến, Lao động tiên tiến... Đó là những bông hoa rực rỡ hương sắc trong vườn hoa TĐQT của LLVT Quân khu.

Phong trào Thi đua Quyết thắng của LLVT Quân khu 2: Phát triển sâu rộng, vững chắc, đạt nhiều kết quả quan trọng, có chiều sâu và thực chất
Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn Công binh 543 (Quân khu 2) huấn luyện đánh bộc phá lô cốt, hầm hào, công sự. Ảnh: ĐÀO DUY TUẤN 

Những năm tới, xu thế chủ đạo của thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác và phát triển, song luôn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, phức tạp, khó dự báo; các nước lớn cạnh tranh quyết liệt, xung đột quân sự, chạy đua vũ trang diễn ra gay gắt. Trong nước và trên địa bàn Quân khu có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng và xây dựng Quân đội tiếp tục đặt ra yêu cầu mới, đòi hỏi ngày càng cao, nhất là trong lộ trình xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến tới xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” từ năm 2030. Phát huy truyền thống vẻ vang “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng” của LLVT Quân khu qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những bài học kinh nghiệm 5 năm qua, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường đổi mới, sáng tạo nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác TĐKT và Phong trào TĐQT bảo đảm sát với yêu cầu nhiệm vụ, phù hợp với đặc thù địa bàn.

Trong đó, chú trọng tập trung hướng vào thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và nhiệm vụ chính trị trọng tâm của LLVT Quân khu; thực hiện tốt các khâu đột phá; khắc phục khâu yếu, mặt yếu, giải quyết việc khó, việc mới, tạo sự chuyển biến tiến bộ toàn diện, vững chắc trên các mặt công tác, nhất là huấn luyện, luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật, cải cách hành chính và chuyển đổi số, điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; phối hợp chặt chẽ, hiệu lực, hiệu quả với cấp ủy, chính quyền các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, gắn kết Phong trào TĐQT trong LLVT với các phong trào thi đua, các cuộc vận động, thi đua yêu nước ở các cấp, ngành, địa phương; xây dựng Đảng bộ Quân khu trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng LLVT Quân khu vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao; gắn thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" thời kỳ mới, đưa công tác TĐKT và Phong trào TĐQT của LLVT Quân khu lên tầm cao mới, lan tỏa sâu rộng, tiếp tục tạo động lực mạnh mẽ, trở thành phong trào hành động cách mạng của LLVT Quân khu, tỏa sáng hơn nữa hình ảnh và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới.

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 5: Tấm gương vĩ đại đoàn kết các dân tộc trên thế giới.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương vĩ đại trong cuộc đấu tranh của các dân tộc trên thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân và đế quốc vì độc lập và tự do. Đây là lời khẳng định của quyền Tổng bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Jorge Kneyness, ngày 24-8-2024, tại Argentina, khi làm việc với đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương thăm và làm việc tại Argentina.

Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đã góp phần làm nên vị thế và vai trò vững mạnh của Việt Nam ngày hôm nay

Tổng bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Jorge Kneyness đánh giá rằng: Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đã góp phần làm nên vị thế và vai trò vững mạnh của Việt Nam ngày hôm nay trên trường quốc tế. Không chỉ có vậy, cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản toàn diện về tư tưởng, đạo đức và phong cách trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là việc luôn gắn lý luận với thực tiễn, điều cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời đại.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt nhân dân đấu tranh chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ông Kneyness bày tỏ: “Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ và tôn trọng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức ở thế giới thứ ba, trong đó có tư tưởng về quân sự. Đó là kết quả của việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn trong những điều kiện lịch sử nhất định, là sự tiếp thu vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng quân sự của dân tộc và tinh hoa quân sự nhân loại”.

Những nhận xét tương tự như vậy có ở rất nhiều người, ở các giới khác nhau, ở nhiều quốc gia khác nhau, suốt nhiều năm qua, đặc biệt là 55 năm kể từ ngày Bác mất. Nhưng tất cả có một điểm chung, đó là ở họ có tình yêu vô bờ với cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tấm gương gần gũi, giản dị, với tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, với nhân dân Việt Nam và mảnh đất hình chữ S xinh đẹp và kiên cường. Rất nhiều chiến sĩ cộng sản ở khắp các châu lục đã chia sẻ rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mẫu mực trong việc xây đắp nên tình đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung với các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới. 

Có thể thấy rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người cộng sản Việt Nam mẫu mực, mà còn là người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy chung, là biểu tượng vĩ đại, sáng ngời và lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, của hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Trong Di chúc, khi bàn về vấn đề quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện một tầm nhìn lớn lao, một nhãn quan văn hóa rất mực nhân văn, sâu sắc và tinh tế. Người quan tâm tới việc củng cố sự đoàn kết trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và ra sức thúc đẩy sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Đó là nhãn quan và đức độ của một danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người là hiện thân của những khát vọng lớn lao của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.

“Các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”

Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, phần nói về phong trào cộng sản thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình". Người bày tỏ niềm tin rằng "các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại". 

Mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế luôn bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở Tua, diễn ra vào tháng 12 năm 1920, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đây, Người đã đặt nền móng cho tình đoàn kết chiến đấu giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.

Đối với phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến đoàn kết giữa các đảng cộng sản anh em trên toàn thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển tình đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh...

Vận dụng sáng tạo chủ trương đoàn kết quốc tế trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Với tư tưởng "cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới", "giúp bạn là tự giúp mình, Người đã gắn đất nước mình với quốc tế, dân tộc với thời đại. Đã tiến hành những hoạt động ngoại giao hết sức sắc bén và có hiệu quả, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và của các lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả ở những nước tư bản, đế quốc. Chính là từ Chủ tịch Hồ Chí Minh mà sức mạnh của thời đại được kết hợp với sức mạnh của dân tộc đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù xâm lược, tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới và nâng cao vị thế của dân tộc ta, đất nước Việt Nam. 

Thực hiện tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra sức hàn gắn, khôi phục khối đoàn kết trong phong trào cộng sản thế giới. Đảng ta đã làm hết sức mình, có trách nhiệm với phong trào cộng sản thế giới, với anh em, bè bạn. Chỉ riêng việc Đảng ta kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới thắng lợi ở Việt Nam đã là hành động thiết thực để bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế.

Có thể nói, tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong sáng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản ngày nay đã được Đảng ta phát triển, kế thừa trong suốt 55 năm qua. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn về mọi mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại với 193 nước trên thế giới, có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Việt Nam còn tham gia vào các diễn đàn, các tổ chức quốc tế, đặc biệt là có đóng góp lớn trong hoạt động của Liên hợp quốc, của ASEAN.

Bằng những nỗ lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, Việt Nam đã và đang góp phần xây dựng thế giới ngày càng ổn định, phồn vinh và phát triển.

Hiện nay, tình hình thế giới đang biến đổi phức tạp, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có nhiều khuynh hướng mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chủ trương nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế… Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ trương đoàn kết quốc tế trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực hiện di nguyện trong Di chúc của Bác, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam quyết tâm giữ vững môi trường hòa bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước. Tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong sáng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản đã được Đảng ta kế thừa và phát triển trong suốt 55 năm qua. Tư tưởng đoàn kết quốc tế của Người vẫn sẽ là kim chỉ nam để Việt Nam ngày càng hội nhập, phát triển, trở thành đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta những bài học lịch sử hết sức quý báu. Đó là bài học nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là bài học không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Đó là bài học sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thấm nhuần sâu sắc và phát huy tình cảm quốc tế trong sáng, thủy chung của Người, trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung của thời đại; tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Với đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. 

Đánh giá cao tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền Tổng bí thư Kneyness khẳng định, những quan điểm của Người trong công tác ngoại giao không chỉ có giá trị to lớn trong lịch sử, mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường bảo vệ đất nước, xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam. Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đã làm nên vị thế và vai trò vững mạnh của Việt Nam ngày hôm nay trên trường quốc tế.

55 năm thực hiện Di chúc là một chặng đường lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo, khẳng định dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng, kiên định con đường cách mạng mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập và làm theo lời Người dạy, Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ký kết nhiều Hiệp định thương mại quan trọng với các đối tác lớn trên thế giới. Việt Nam cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm và có nhiều đóng góp quan trọng trong các tổ chức khu vực và quốc tế như: ASEAN, Liên hợp Quốc, WTO…

Trong lĩnh vực đối ngoại quốc phòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên và trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác đối ngoại quốc phòng, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt, đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột; thúc đẩy hợp tác giải quyết các thách thức chung, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, xứng đáng là một trong những trụ cột quan trọng của đối ngoại nhà nước. Quân đội ta đã tích cực, chủ động tham gia có trách nhiệm, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta”, hiện thực hóa một trong những mục tiêu bảo vệ Tổ quốc mà Đảng ta đã xác định, đó là “tham gia bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới”.

Những đóng góp hiệu quả của Việt Nam trong các tổ chức này ngày càng được các nước ghi nhận, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của thế giới. Đó là những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng tạo đà để nhân dân ta tiếp tục tạo nên thành công mới trong các giai đoạn tiếp theo như Bác hằng mong muốn.

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn

 

Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc (tháng 5-1965), cách mạng Việt Nam đang đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ dùng không quân mở chiến dịch “Mũi lao lửa” và từ ngày 2-3-1965, Mỹ ném bom liên tục, ác liệt hơn gọi là “sấm rền” đánh phá liên tục miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Ở miền Nam, ngày 8-3-1965, Mỹ đưa đơn vị chiến đấu đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ gồm 3.500 lính thủy đánh bộ đổ bộ lên Đà Nẵng và Chu Lai, bắt đầu tiến hành cuộc Chiến tranh cục bộ. 

Trên bình diện quốc tế, sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản quốc tế đã làm nảy sinh sự bất đồng giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc. Những bất đồng này đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thực tế này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong Di chúc, Người đã tiên liệu được sự khó khăn, gian khổ, lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng Người khẳng định giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước là một tất yếu, dù phải kéo dài, dù có thể ta phải hy sinh thêm nhiều của, nhiều người nữa.

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những di sản tư tưởng cao quý, nổi bật trong đó là phong cách lãnh đạo của Người. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh 

Khát vọng và niềm tin tất thắng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam còn được thể hiện việc Người hoạch định cụ thể về một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội, về xây dựng văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà nước ta hướng tới... Trong đó, những đề nghị của Người về miễn thuế nông nghiệp 1 năm, để “đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”; về xây dựng lại thành phố, làng mạc; về xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”... thực sự thiết thực, cụ thể, đầy tính nhân văn.

Vẫn là Hồ Chí Minh – một con Người đầy bao dung nhân ái, đã dành tình thương yêu cho hết thảy mọi người: Từ những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ…; Người lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai... 

Trong ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước hết phải biết tự ứng xử. Khiêm nhường, chu đáo, cẩn thận, với mình thì nghiêm, với người thì rộng lòng khoan thứ. Mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn, được toàn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc" nhưng không bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người tự cho mình là "người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận", là "người đày tớ trung thành của đồng bào". Lúc sinh thời, nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân. Cho nên, cũng dễ hiểu tại sao khi phần mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố chọn một cách “vào đề” phù hợp nhất để nói điều mà toàn dân và cả chính bản thân Người không ai muốn: “...tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Một đoạn mở đầu đơn giản, độc đáo, đậm chất nhân văn và có sức thuyết phục cao, làm lay động lòng người.

Người “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó chính là phép xử thế của một nhà văn hóa lớn, thể hiện tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền, thấu hiểu được vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại; thấu hiểu được vai trò của nhân dân, là gốc, là chủ thể của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và đổi mới đất nước.

Khiêm nhường trong vị thế một nguyên thủ quốc gia, một Hồ Chí Minh cũng rất giản dị trên cương vị một lãnh tụ của nhân dân Việt Nam. Phút cuối của đời mình, sau khi dành tâm tư, tình cảm cho Đảng, cho dân, cho phong trào cách mạng thế giới, ung dung và thư thái, Hồ Chí Minh để lại mấy dòng cuối cùng trong Di chúc để viết về việc riêng của mình. Người dùng đến 8 từ “phục vụ”, không hề dùng một từ nào biểu đạt rằng mình là người lãnh đạo, hay đứng cao hơn mọi người. Và niềm nuối tiếc duy nhất của Người không phải vì không được sống lâu hơn như lẽ thường tình, như mục đích thụ hưởng mà “chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tìm hiểu, nghiên cứu văn kiện đặc biệt này, càng khẳng định rằng, bao giờ và ở đâu, vẫn luôn ngời sáng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương của đạo đức cách mạng, chí công vô tư; tấm gương của một con người vĩ đại mà khiêm nhường hết mực.

Học và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” như ý nguyện của Người.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm điện đàm với Tổng thống Hàn Quốc, hội đàm trực tuyến với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản.

 

Chiều 3-9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm cấp cao với Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol; hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.

Tại cuộc điện đàm với Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol, hai nhà lãnh đạo bày tỏ vui mừng tiến hành cuộc điện đàm cấp cao để cùng trao đổi ý kiến về việc thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc và các vấn đề hai bên cùng quan tâm.

Tổng thống Yoon Suk Yeol bày tỏ chia buồn sâu sắc về việc cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần; tin tưởng Đảng, Nhà nước Việt Nam đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục giành nhiều thành tựu to lớn, nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế. Tổng thống Hàn Quốc khẳng định coi trọng vai trò của Việt Nam trong quá trình triển khai các chính sách của Hàn Quốc tại khu vực.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cảm ơn Tổng thống Hàn Quốc đã gửi Điện chia buồn, Thủ tướng Han Duck Soo đã dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Tổng thống Yoon Suk Yeol và lãnh đạo các chính đảng của Hàn Quốc đã chúc mừng đồng chí Tô Lâm được tín nhiệm bầu giữ cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chúc mừng những thành tựu mà đất nước Hàn Quốc đã đạt được trong thời gian qua, trong đó có việc phục hồi kinh tế, củng cố chuỗi cung ứng; đánh giá cao quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong 32 năm qua phát triển nhanh chóng trên hầu hết các lĩnh vực, nhất là sau khi hai bên nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện; nhấn mạnh Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với Hàn Quốc.

Hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường hơn nữa hiểu biết lẫn nhau và sự tin cậy chính trị thông qua duy trì tiếp xúc, trao đổi cấp cao và trên các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân giữa hai nước; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư ngày càng thực chất, hiệu quả, cân bằng, bền vững. Hai bên nhất trí sẽ cùng nỗ lực nâng kim ngạch thương mại song phương lên 150 tỷ USD vào năm 2030. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hoan nghênh các doanh nghiệp Hàn Quốc tham gia vào các dự án đầu tư lớn của Việt Nam. Tổng thống Hàn Quốc nhấn mạnh Hàn Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác lao động, văn hóa, du lịch, giáo dục, giao lưu nhân dân; quan tâm, hỗ trợ công dân hai nước đang sinh sống, học tập và làm việc tại mỗi nước.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trên các vấn đề khu vực, quốc tế. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định, Việt Nam luôn quan tâm và sẵn sàng đóng góp tích cực vào tiến trình hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên. Về vấn đề Biển Đông, hai bên nhất trí về sự cần thiết của việc giữ gìn hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tổng thống Hàn Quốc trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sớm sang thăm Hàn Quốc. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời.

* Chiều cùng ngày, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. Thủ tướng Kishida Fumio một lần nữa chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Việt Nam là đối tác quan trọng của Nhật Bản ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã gửi Điện chia buồn và cử Đặc phái viên là nguyên Thủ tướng Suga Yoshihide dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản sang dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Thủ tướng Kishida Fumio đã gửi lời chúc mừng đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tái khẳng định Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Hai nhà lãnh đạo vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trong quan hệ song phương, nhất là việc hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình ở châu Á và trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau thông qua duy trì trao đổi cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại, hợp tác song phương. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế là trụ cột chính của quan hệ hai nước, đi sâu kết nối hai nền kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Nhật Bản sẽ tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam thông qua viện trợ ODA, tăng cường hợp tác với Việt Nam trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hoan nghênh các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh theo hướng thực chất, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết; làm sâu sắc hơn kết nối nguồn nhân lực, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Chính phủ Nhật Bản tiếp tục quan tâm, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại Nhật Bản.

Hai bên cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhất trí tăng cường hợp tác củng cố môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông.