Thứ Tư, 8 tháng 1, 2025

KẾT QUẢ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ IV VÀ NĂM 2024, KHẲNG ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG

Tổng cục Thống kê công bố báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2024.

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2024 ước tính tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn quý IV các năm 2017, 2018 trong giai đoạn 2011-2024[1], duy trì xu hướng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25%, quý III tăng 7,43%). 

Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,99%, đóng góp 4,86% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,35%, đóng góp 44,03%; khu vực dịch vụ tăng 8,21%, đóng góp 51,11%. 

Về sử dụng GDP quý IV/2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 7,98%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 11,35%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 13,49%.

GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09% so với năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011-2024[2]

Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 5,37%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%, đóng góp 45,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%, đóng góp 49,46%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 đạt mức tăng trưởng tích cực 3,27% mặc dù chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ. Trong đó, sản lượng nhiều nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng khá. 

Cụ thể, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2024 tăng 2,94% so với năm trước, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,03% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,03%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp phục hồi tích cực và tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2023. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp năm 2024 tăng 8,32% so với năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 8,52% của năm 2022 trong giai đoạn 2019-2024[3], đóng góp 2,70 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. 

Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,83%, thấp hơn mức tăng các năm 2011, 2016, 2017, 2018 trong giai đoạn 2011-2024[4], đóng góp 2,49 điểm phần trăm. 

Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,43%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm. 

Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,05%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 7,24%, làm giảm 0,21 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 7,87%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm.

Các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2024 tăng 7,38% cao hơn tốc độ tăng 6,91% của năm 2023[5]

Một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như: Bán buôn và bán lẻ tăng 7,96% so với năm trước, đóng góp 0,80 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,82%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,11%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,76%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,86%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,64%; khu vực dịch vụ chiếm 42,36%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,14% (Cơ cấu tương ứng của năm 2024 là 11,86%; 37,58%; 42,30%; 8,26%).

Về sử dụng GDP năm 2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,57% so với năm 2023; tích lũy tài sản tăng 7,20%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,45%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,10%.

Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2024. 

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,88% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 ước đạt 28,3%, cao hơn 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp nhưng vẫn duy trì mức tăng trưởng tích cực, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. 

Diện tích lúa năm 2024 ước đạt 7,13 triệu ha, tăng 12,0 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước đạt 60,9 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,46 triệu tấn, giảm 33,6 nghìn tấn. Sản lượng lương thực có hạt năm 2024 đạt 47,87 triệu tấn, giảm 65,0 nghìn tấn so với năm 2024, trong đó sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 31,4 nghìn tấn.

– Lúa đông xuân: Diện tích gieo trồng lúa đông xuân năm 2024 đạt 2,95 triệu ha, tăng 1,5 nghìn ha so với năm 2023; năng suất lúa đạt 68,8 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha, sản lượng đạt 20,33 triệu tấn, tăng 145,0 nghìn tấn.

– Lúa hè thu: Diện tích gieo trồng lúa hè thu năm 2024 đạt 1,91 triệu ha, giảm 3,6 nghìn ha so với năm 2023; năng suất đạt 58,4 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng đạt 11,16 triệu tấn, tăng 139,1 nghìn tấn.

– Lúa thu đông: Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm nay đạt 717,9 nghìn ha, tăng 10,2 nghìn ha so với vụ thu đông 2023; năng suất đạt 57,9 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng đạt 4,16 triệu tấn, tăng 118,5 nghìn tấn.

– Lúa mùa: Vụ mùa năm nay cả nước gieo cấy được 1,55 triệu ha lúa mùa, tăng 3,9 nghìn ha so với vụ mùa năm 2023; năng suất lúa ước đạt 50,4 tạ/ha, giảm 2,9 tạ/ha; sản lượng đạt 7,81 triệu tấn, giảm 436,4 nghìn tấn.

– Cây hằng năm: Diện tích gieo trồng một số cây hoa màu như ngô, khoai lang, lạc, đậu tương giảm so với năm trước do hiệu quả kinh tế không cao, nông dân thu hẹp sản xuất để tập trung vào trồng rau hoặc chuyển sang trồng cây ăn quả hoặc cây làm thức ăn chăn nuôi, thực hiện kinh tế nông nghiệp tuần hoàn.

– Cây lâu năm: Năm 2024, diện tích trồng cây lâu năm đạt 3.815,5 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm trước, trong đó: Nhóm cây công nghiệp đạt 2.172,6 nghìn ha, tăng 0,1%; nhóm cây ăn quả đạt 1.302,8 nghìn ha, tăng 2,6%.

– Chăn nuôi Chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm, gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát.

b) Lâm nghiệp

Trong quý IV/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 103,3 nghìn ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 172,8 ha, tăng 24,7%. 

Tính chung năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 301,3 nghìn ha, tăng 1,7% so với năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 1.627,3 ha, giảm 5,5%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản quý IV/2024 ước đạt 2.524,5 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 9.547,0 nghìn tấn, tăng 2,5% so với năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5.721,6 nghìn tấn, tăng 4,0%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.825,4 nghìn tấn, tăng 0,3%.

3. Sản xuất công nghiệp

– Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2024 ước tăng 8,4% so với năm trước (năm 2023 tăng 1,3%). 

Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6% (năm 2023 tăng 1,5%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,0 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2024 giảm 5,1% so với tháng trước và tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung năm 2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,3% so với năm 2023 (năm trước tăng 1,6%).

– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2024 tăng 10,0% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 10,6% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2024 là 77,1% (năm 2023 là 88,0%).

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2024 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 3,2% so với cùng thời điểm năm trước./.

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những bước ngoặt lịch sử

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới.

Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.

 Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1]. Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.

 2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"[2].

 Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"[3].

 3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945),  Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"[4].

 Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội"[5]. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

 4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.

Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

 Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước./

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, khách quan, từ mong muốn của nhân dân, đòi hỏi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền bằng uy tín, năng lực mà không một đảng phái nào có thể thay thế được.

Từ nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị, trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Với truyền thống chống giặc ngoại xâm và tinh thần yêu nước nồng nàn, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản và những cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân. Mặc dù các phong trào đấu tranh diễn ra rất sôi nổi và liên tục ở khắp các địa phương, vùng, miền, nhưng cuối cùng đều thất bại.

Trước thực trạng khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong với đường lối đúng đắn để lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu, bốn bể tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng vô sản và khẳng định cách mạng muốn thành công, cần: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(5). Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thông qua vai trò lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đã hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi khách quan của lịch sử đất nước.

Về tổ chức: Đảng “là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh”(6); có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, sẵn sàng đấu tranh vì lý tưởng của Đảng, vì Tổ quốc và nhân dân. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng, khoa học, tiến bộ; là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Về đường lối cách mạng: Ngay tại Hội nghị thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, trong đó vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ và con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam, đó là: Tiến hành cuộc cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - một chế độ tốt đẹp, ưu việt nhất dành cho tất cả người dân Việt Nam. Đây là con đường cách mạng đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Với ý nghĩa đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, đã chấm dứt sự khủng hoảng về tổ chức lãnh đạo và đường lối cứu nước ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành Đảng cầm quyền cho đến năm 1988(7), ở Việt Nam đã hình thành và tồn tại nhiều đảng chính trị với ý thức hệ, tôn chỉ, mục đích hoạt động khác nhau, song đều thất bại. Trong bối cảnh các lực lượng, tổ chức, đảng phái khác trong xã hội đã bị thất bại, không đảm đương được vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nên ngay khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trước sóng gió “chấn động chính trị” cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 (thế kỷ XX) làm hàng loạt các đảng cộng sản bị mất vai trò cầm quyền, dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vững vai trò cầm quyền, bản lĩnh, sáng suốt đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.

Với năng lực, bản lĩnh và uy tín của một đảng mác-xít chân chính, được rèn luyện qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Đảng đã lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Thực tiễn lịch sử cách mạng và những thành tựu vĩ đại đạt được đã chứng minh: “Ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền với sự nghiệp của Đảng; mục đích, lý tưởng của Đảng cũng là ước mơ, nguyện vọng của nhân dân”(9).

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, nghĩa là Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử về sự phát triển của đất nước, của dân tộc, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho người dân. Đảng phải đề ra được quan điểm, chủ trương, đường lối, chiến lược, định hướng lớn đúng đắn để xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, phải làm cho quan điểm, chủ trương của Đảng được thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Muốn vậy, Đảng phải luôn nhất quán nguyên tắc “tập trung dân chủ”, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ theo quy định, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân theo Cương lĩnh, nghị quyết, Điều lệ Đảng. Đảng cầm quyền trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng càng phải khẳng định được năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; đồng thời, phải bảo đảm “các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10), không được “đứng trên”, “đứng ngoài” pháp luật, cũng không “độc đoán, chuyên quyền” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo “bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật”(11). Nhà nước thể chế hóa mọi đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp và pháp luật, qua đó, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Sau mỗi kỳ đại hội Đảng, nghị quyết của Đảng sẽ được Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước triển khai bằng việc thể chế hóa thành các văn bản, quy định, bảo đảm triển khai thực hiện trong xã hội.

Trong điều kiện cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, việc Đảng hoạt động theo nguyên tắc, Điều lệ Đảng và trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật chính là cơ sở vững chắc bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng; phòng, chống mọi nguy cơ độc quyền, thoái hóa, biến chất có thể xảy ra.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đề cao dân chủ, tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Độc lập dân tộc, giải phóng con người, mang lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội cho tất cả người dân Việt Nam chính là mục tiêu, là lý tưởng phấn đấu của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù trong điều kiện đất nước có chiến tranh, vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng vẫn luôn quan tâm đến quyền dân chủ cho nhân dân, như thực hiện người cày có ruộng, phổ thông giáo dục, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần… Vấn đề quyền con người, thực thi dân chủ được Đảng gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, khẳng định chủ quyền của quốc gia - dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, mối liên hệ gắn bó với nhân dân, vấn đề dân chủ tiếp tục được Đảng đặc biệt chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(12). Với nhận thức đúng đắn đó, Đảng luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ phải được thực hiện trong toàn hệ thống chính trị thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Điểm cốt lõi của việc bảo đảm dân chủ là Đảng luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”(13). Mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng là vì hạnh phúc của nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(14).

Thứ tư, Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(15). Việc Đảng cầm quyền duy nhất rất dễ dẫn đến tệ quan liêu, bảo thủ, trì trệ, do đó, đòi hỏi Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, kiểm soát quyền lực lãnh đạo để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, cầm quyền được lịch sử ghi nhận và nhân dân tin tưởng giao trọng trách.

Đảng “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(16). Đây là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(17); đồng thời “không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(18).

Đảng không ngừng xây dựng, chỉnh đốn, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và giữ nghiêm kỷ luật đảng để giữ cho tổ chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân; bảo đảm đủ năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, nhiệm vụ.

Đảng luôn coi trọng công tác tư tưởng, quan tâm phát triển đội ngũ đảng viên.  Không ngừng rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.

Đảng luôn đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng để tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.../.


Nhận diện và đấu tranh với những kẻ đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, bóc trần và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch đó là việc làm rất cần thiết, qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng đã tự xác định vai trò là “đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"(1). Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định nền độc lập, tự do cho dân tộc bằng sự kiện ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong suốt 94 năm, Đảng luôn khẳng định “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(2). Đảng cũng xác định rõ vị trí, vai trò là “cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3) để thực hiện những cam kết chính trị và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử.

Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được khẳng định rõ trong Hiến pháp - văn bản pháp luật cao nhất của đất nước: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4). Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được Nhà nước, xã hội, nhân dân công nhận và được hiến định, là sự ghi nhận những cống hiến của Đảng và khẳng định vai trò lãnh đạo tất yếu của Đảng trong mọi bước phát triển của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền đến nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chưa bao giờ ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Sự chống phá dưới mọi hình thức đó ngày càng tinh vi hơn, từ hình thức vũ trang, bán vũ trang nay chuyển sang núp dưới âm mưu "diễn biễn hòa bình”, nhất là sử dụng internet, các trang báo mạng phản động để đăng tải những nội dung chống phá, xuyên tạc, bóp méo sự thật về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 - mà thực chất, là xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng(?!). Họ cho rằng, Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã phủ nhận quyền lực của nhân dân trong việc lựa chọn đảng cầm quyền thông qua bầu cử, cũng như phủ nhận quyền lực của nhân dân trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là trái với nguyên tắc của một thể chế nhà nước dân chủ(?!)

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn tập trung phê phán, thổi phồng các điểm tiêu cực, hạn chế trong đời sống kinh tế - xã hội, cố tình bôi đen, hạ thấp những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng; đánh lạc hướng dư luận, gây tâm lý dao động, hoang mang trong nhân dân. Từ đó, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh việc kích động, lôi kéo, xúi giục việc chống phá Đảng, Nhà nước ta,...

Một số điểm nhấn về vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Cần nhận thức về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên một tư duy mới. Vai trò đó trong giai đoạn cách mạng Việt Nam hiện nay và trong tương lai càng quan trọng khi xây dựng một đất nước trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; CNH, HĐH đất nước, trong thời cách mạng khoa học - công nghiệp thứ tư. Vai trò đó được thể hiện trong đường lối, chủ trương và ngay cả trong hành động của một Đảng duy nhất trong xã hội và là một Đảng cầm quyền.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam phải chứng tỏ thực sự xứng đáng với vai trò lãnh đạo của mình trước nhân dân

Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(1). Quan điểm đó nhất quán trong hệ thống tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản cầm quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò “người cầm lái” con thuyền cách mạng. Chỉ khi người cầm lái có đủ tâm, đức, tài thì con thuyền mới cập bến thành công.

Thực tế hiện nay đang đặt ra một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải quyết:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam (cũng như các Đảng Cộng sản khác trên thế giới) đang phải rất nỗ lực tìm tòi, xây dựng lý luận về CNXH. Sự cảnh báo của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về việc hiểu lý luận của các ông đã không được các Đảng Cộng sản coi trọng đúng mức. Các ông cảnh báo rằng: lý luận của các ông không phải là một học thuyết máy móc, giáo điều, mà là phương pháp luận, phải xem xét lý luận trong điều kiện lịch sử cụ thể. Việc xác định đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) là một cố gắng lớn, song chưa cụ thể.

Hai là, công tác cán bộ còn nhiều bất cập, hạn chế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng ta đã xác định đây là một trong những nguyên nhân đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng vẫn chưa khắc phục được cơ bản.

Ba là, sự giảm niềm tin trong Đảng và trong xã hội. Sự bất bình của nhân dân ở nhiều nơi khá gay gắt, nhất là ở một số lĩnh vực: đất đai, dân chủ, ở thái độ xử lý đối với tham nhũng. Một số nơi, tổ chức đảng, chính quyền không duy trì quan hệ đối thoại với dân. Sự băng hoại về đạo đức, nhân cách, lối sống không những biểu hiện nghiêm trọng ở ngoài xã hội mà đã nhiễm vào trong Đảng.

Vì vậy, Đảng phải chỉnh đốn lại, khắc phục tình trạng trên thì mới củng cố được vai trò lãnh đạo của mình trước nhân dân.

2. Đảng phải thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản

Nguyên tắc đầu tiên, cơ bản mà V.I.Lênin nêu lên là nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản cầm quyền cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc:

Một là, Đảng phải luôn luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh chú trọng vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin tùy vào hoàn cảnh cụ thể. Người coi đó là cơ sở(2) chủ đạo, để đạt mục đích tối cao là giải phóng con người. Giáo điều, cứng nhắc, cũng như xa rời những nguyên lý cơ bản có tính chất phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đều là con đường chết của cách mạng.

Hai là, thực hiện tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh đưa ra luận đề quan hệ mật thiết: tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải đi đến tập trung. Hàm lượng dân chủ càng cao thì tập trung trong Đảng càng đúng đắn.

Ba là, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Để nhấn mạnh tính chất này, Hồ Chí Minh lưu ý hai điều cần tránh trong hoạt động của Đảng Cộng sản cầm quyền: Độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể; dựa dẫm tập thể, không quyết đoán.

Bốn là, thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là điều trăn trở nhất của Hồ Chí Minh với tư cách là lãnh đạo Đảng cầm quyền. Nguyên tắc này liên quan tới vấn đề đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết dựa trên cơ sở mục đích, lý tưởng của Đảng; lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; tôn trọng ý kiến cá nhân.

Năm là, chú trọng kết nạp những người ưu tú vào Đảng và luôn luôn làm trong sạch Đảng, loại bỏ những phần tử biến chất ra khỏi Đảng. Đây chính là quá trình “đồng hóa” và “dị hóa” của sự vật, làm trong sạch đội ngũ qua bộ lọc. Chất lượng, năng lực của đội ngũ đảng viên có tính chất quyết định đối với chất lượng, năng lực cầm quyền của Đảng.

Sáu là, hoạt động đúng pháp luật. Vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước chưa được Hồ Chí Minh đề cập nhiều, tuy nhiên, tinh thần của Người về vấn đề rất rõ, đó là tinh thần pháp quyền: mọi người, từ cán bộ cao cấp đến mọi đảng viên khác đều có nghĩa vụ tôn trọng thực thi pháp luật.

Bảy là, có trách nhiệm với dân và tăng cường mối quan hệ máu thịt với dân. Mục đích hoạt động của Đảng và quyền lợi của dân là một - đó là tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), chia dân thành: tiên tiến, vừa vừa, lạc hậu. Nhiệm vụ của Đảng là phải làm cho dân giác ngộ, đưa dân lên hàng “tiên tiến”. Gần dân, hiểu dân, vì dân, đó là phong cách Hồ Chí Minh, đó là sự “hiếu với dân” của Hồ Chí Minh, và đó cũng là yêu cầu có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh nêu lên cho việc thực hiện vai trò của Đảng cầm quyền.

Tám là, chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong sáng. Trong mọi chính sách đối nội và đối ngoại, Đảng Cộng sản cầm quyền phải lãnh đạo bảo đảm lợi ích của dân tộc đồng thời không phương hại đến lợi ích của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.

3. Giữ vững tư cách và vai trò cầm quyền của Đảng

Khi đề cập tư cách của một Đảng Cộng sản cầm quyền, Hồ Chí Minh rất nhấn mạnh đến vấn đề “đạo đức”, “văn minh” của Đảng. Để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức, của văn minh cần “rèn” đạo đức cán bộ, đảng viên trong thực tế chứ không chỉ dừng lại ở những quy định trong Điều lệ.

Sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của quá trình Đảng thể hiện rõ với toàn xã hội vai trò, sức mạnh và uy tín của mình. Nhưng, Đảng sẽ không còn ở vị trí cầm quyền nữa, nếu Đảng bị suy yếu, không trong sạch, vững mạnh; niềm tin của nhân dân vào Đảng suy giảm. Như Hồ Chí Minh lập luận: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(3). Chính vì vậy, vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng cũng như việc phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn bản thân là hai vế đồng thời vận hành trong cùng một cơ thể sống. Do đó, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ đó thể hiện ở việc Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ và năng lực lãnh đạo cũng như sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Con đường XHCN mà dân tộc Việt Nam lựa chọn là đúng đắn, nhưng rất gian nan. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh cũng dự đoán con đường tiến lên XHCN sẽ không bằng phẳng, không ai có thể định sẵn, mà phải qua thực tế mới có bước đi phù hợp. Như Hồ Chí Minh viết trong Di chúc, đây là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Do đó, Đảng phải tự tìm tòi, tự tổng kết thực tiễn để đề ra lý luận đổi mới, trong đó có lý luận về Đảng cầm quyền trong chế độ một Đảng.

Cần đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, vì đó là nhân tố quyết định đến thành bại của sự nghiệp cách mạng. Nếu đội ngũ cán bộ của Đảng mạnh thì sự chống phá của các thế lực thù địch không thể làm cho Đảng suy yếu và mất vai trò cầm quyền. Ngược lại, nếu bên trong suy yếu, thì trong quá trình hội nhập quốc tế, “diễn biến hoà bình” rất dễ biến thành nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong Đảng.

Cần chú ý thực hành dân chủ trong Đảng, coi đó là vấn đề then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay. Vấn đề mất dân chủ trong Đảng vẫn biểu hiện ở nhiều dạng: Nhiều cấp ủy chưa tôn trọng quyền làm chủ của đảng viên; không ít đảng viên không làm tròn trách nhiệm, thờ ơ, thụ động chính trị, không đóng góp ý kiến, bày tỏ chính kiến trong tổ chức Đảng; lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, công kích tổ chức Đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên; núp bóng dân chủ để lồng ý kiến cá nhân thao túng tổ chức Đảng, lạm quyền dân chủ, dân chủ thái quá; dân chủ hình thức, nhiều việc cũng để cho cán bộ, đảng viên đóng góp ý kiến (thậm chí cho cả nhân dân đóng góp ý kiến) nhưng không nghiên cứu để tiếp thu, dẫn đến tốn kém thì giờ và tiền bạc, làm giảm lòng tin; có thái độ không đúng đắn, lẫn lộn đối tượng, đối xử không công bằng với những người có ý kiến “gai góc”, thẳng thắn; thao túng và khuyến khích tình trạng vô chính phủ, v.v.. Hệ quả của các biểu hiện đó là Đảng không mạnh về nhiều mặt, dân chủ trong Đảng không bảo đảm, dẫn đến dân chủ trong xã hội không được chú ý.

Đồng thời, hoạt động của Đảng cần được định chế hóa. Vấn đề này phản ánh trình độ dân chủ và năng lực, bản lĩnh chính trị của Đảng, phản ánh tư duy của tổ chức Đảng cấp cao, tư duy và phong cách của những cán bộ chủ chốt trong Đảng. Những tiêu cực trong Đảng nếu giải quyết không tốt, thì sự cầm quyền, năng lực cầm quyền của Đảng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Có thể nói, chưa bao giờ “sức đề kháng” trong Đảng có những biểu hiện yếu kém như giai đoạn này. Đây là một trong những nguyên nhân khiến nước ta đứng trước thử thách, nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò cầm quyền của Đảng và sự tồn vong của chế độ chính trị.

Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt. Đường lối đúng mà phương thức lãnh đạo không phù hợp, thậm chí sai, thì không thể đưa được đường lối, chủ trương của Đảng cầm quyền vào cuộc sống, thậm chí làm cho cách mạng bị tổn thất.

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng giai đoạn hiện nay phải đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng cao, điều đó thể hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Xét trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản cầm quyền thì Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng.

Bên cạnh đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Do Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng duy nhất trong xã hội và là đảng cầm quyền, nên Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải là những tổ chức phản biện cho Đảng. Đảng thực thi vai trò, chức năng, nhiệm vụ cầm quyền của mình trong sự so sánh, đối chiếu với các ý kiến tư vấn, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội. Qua đó, Đảng tự điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội./.

THẾ GIỚI - VIỆT NAM: VỀ BÀI VIẾT CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ: BÀI VIẾT CỦA TỔNG BÍ THƯ LÀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC MANG TÍNH THỜI ĐẠI!

     Mấy ngày nay tranh thủ đọc các bài viết trong sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…” có thể khẳng định qua bài viết của  Cố TBT Nguyễn Phú Trọng đã làm sáng tỏ hơn cả lý luận và thực tiễn con đường phát triển của đất nước ta. Xin giới thiệu bài viết của ông Khamvisanh Keosouvanh, Trợ lý Trưởng Ban Tuyên huấn Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, trên báo Vietnam+ ngày 02/11/2021!

Theo ông Khamvisanh Keosouvanh, nội dung bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất phù hợp với tình hình phát triển thực tế của Việt Nam cũng như của thế giới.

Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng là “định hướng chiến lược mang tính thời đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.”

Đây là nhận định của ông Khamvisanh Keosouvanh, Trợ lý Trưởng Ban Tuyên huấn Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong bài viết gửi riêng cho phóng viên TTXVN tại Vientiane.

Theo ông Khamvisanh, nội dung bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất phù hợp với tình hình phát triển thực tế của Việt Nam cũng như của thế giới.

Thứ nhất, sau khi tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Đại hội Đảng XIII), nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Đảng và nhân dân Việt Nam là phổ biến, quán triệt và phấn đấu tổ chức thực hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đến các mốc năm 2025, 2030 và 2045 mà Đại hội Đảng XIII đã đề ra, cũng như xác định phương hướng để thống nhất tổ chức thực hiện, đặc biệt là trong công tác chính trị-tư tưởng ở trong và ngoài Đảng; đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Việc bài viết được xuất bản trước ngày tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là rất phù hợp để giúp lãnh đạo Việt Nam nhận thức rõ, chuẩn bị lựa chọn nhân sự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam với những thời cơ và thử thách mới.

Thứ hai, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã bắt đầu bài viết với những ngôn từ nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc, từ đó khẳng định chủ trương, lập trường của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ ngày được thành lập và trong suốt sự nghiệp đấu tranh cách mạng, đó là: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Qua đó thể hiện sự vững tin tuyệt đối, sự trung thành của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước tiến tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Ông Khamvisanh nhấn mạnh bài viết đã nêu bật quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm Đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo ông Khamvisanh, không phải ngẫu nhiên mà trong năm 2020, khi cả thế giới đang phải đối mặt với sự lây lan của đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài và có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hàng đầu tại khu vực châu Á.

Ông khẳng định rất hiếm quốc gia nào trên thế giới có thể làm được điều này, đồng thời tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước của Việt Nam theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa sẽ đảm bảo thực hiện thành công.

Thứ ba, bài viết là định hướng chiến lược mang tính thời đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; là kết tinh trí tuệ của người viết, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào tình hình thực tiễn của Việt Nam, là sự tổng kết mới về mặt lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần quan trọng làm đa dạng, phong phú kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Do vậy, bài viết rất phù hợp để đưa ra thảo luận trên diễn đàn quốc tế về sự nghiệp xây dựng, phát triển của các quốc gia có mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.

Không chỉ vậy, bài viết cũng phù hợp để đưa vào nội dung trao đổi lý luận của Đảng cũng như các trường Đảng tại những quốc gia có mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội để trao đổi kinh nghiệm, đưa ra thảo luận, nghiên cứu tại các hội thảo khoa học, là tài liệu nghiên cứu ý nghĩa cho các giảng viên, nghiên cứu sinh của các trường Đảng.

Ông Khamvisanh nêu rõ Lào và Việt Nam là hai nước anh em, có quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện; Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam có cùng một nguồn cội từ Đảng Cộng sản Đông Dương.

Do đó, bài học kinh nghiệm từ công tác lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội, nhất là kinh nghiệm mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút cũng sẽ là những bài học quý báu cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào để vận dụng vào tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, cùng nhau lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

Yêu nước ST.