Thứ Ba, 1 tháng 6, 2021

NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI DO CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG, THOÁI HÓA,, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ, BẤT MÃN GÂY RA

Một số đối tượng lá mặt, lá trái, cơ hội chính trị, số phần tử bất mãn, cực đoan quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng những thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại bí mật cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân. Số đối tượng này tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, móc nối viết bài nói xấu chế độ, chống phá Nhà nước Việt Nam. Những bài viết được tung lên Internet có nội dung tuyên truyền những quan điểm phản động, cực đoan. Chính số đối tượng ở trong nước, những phần tử bất hảo nói trên đã tham gia cộng tác viết bài, cung cấp thông tin, gửi thư kiến nghị đưa lên mạng gây ảnh hưởng xấu xung quanh việc ta bắt giữ các đối tượng có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Ngoài ra, phải kể đến một số văn nghệ sĩ, nhà báo, các nhà hoạt động chính trị, xã hội người ngoại quốc, ở nước ngoài đã đến Việt Nam do không có những thông tin chính xác, đầy đủ, bị người Việt phản động lưu vong tuyên truyền, lôi kéo cung cấp thông tin bịa đặt chống phá Việt Nam. Trong khi đó, các nguồn sách báo, phim ảnh có nội dung đồi trụy, ca ngợi một chiều, phiến diện về cuộc sống của những nước phát triển TBCN không quản lý được, tác động vào tư tưởng, tâm lý của nhân dân. Những biểu hiện cơ hội hữu khuynh ở nước ta hiện nay đã và đang xuất hiện trong bối cảnh đất nước vừa có thời cơ, vận hội lớn, vừa đứng trước nguy cơ, thách thức nghiêm trọng. Tư tưởng cơ hội hữu khuynh đó không chỉ được xây dựng trên một cơ sở lý luận xét lại nào đó, mà chỉ là sự cóp nhặt hỗn tạp giữa trào lưu triết học, xã hội học tư sản hiện đại, song lại chưa thoát được căn bệnh giáo điều đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và mắc bệnh thực dụng. Điều này thể hiện thái độ và lối sống cơ hội nhằm trục lợi cả chính trị và vật chất. Cố tình nhắm mắt trước lịch sử của dân tộc về quá trình phát triển đi lên CNXH là tất yếu, lợi dụng sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô để phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân các nước đó lựa chọn, và từ đó lên lớp dạy cho nhân dân ta. Họ cho rằng bi kịch Xô viết như lời cáo chung cho Chủ nghĩa Cộng sản, là hệ quả tất yếu cho các nước XHCN còn lại. Một số đối tượng còn kích động nhân dân để gây rối như các vụ bạo loạn ở một vài nơi trong nước. Đồng thời, những đối tượng này còn cho rằng CNXH không có cơ sở kinh tế vì chế độ XHCN ở nước ta đã chấp nhận nền kinh tế thị trường. Một số quan điểm khác phủ nhận con đường phát triển đất nước theo hướng XHCN lại viện dẫn cơ sở lý luận, phương pháp luận Mác xít về quá trình vận động của lịch sử như một dòng chảy lịch sử tự nhiên. Những người cơ hội trước kia đã từng giáo điều trong việc nhận thức về sự thối nát, giãy chết của CNTB, thì bây giờ họ lại ấu trĩ cho rằng thế giới TBCN ngày nay toàn những nước tư bản có nền công nghệ phát triển cao, toàn những con rồng, con hổ; rằng con đường tư bản đưa dân tộc đến tương lai tươi sáng. Họ ngụy biện rằng không nhất thiết phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng CNXH, không nhất thiết phải chịu sự lãnh đạo của Đảng CS thì đất nước mới phát triển. Từ đó vội vàng đi đến kết luận rằng CNXH chỉ là một lý thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực, nếu có thì chỉ mới có sự chứng thực của sự thất bại và đổ vỡ. Chúng xuyên tạc, trong nội bộ Đảng vẫn duy trì cái gọi là chế độ tập trung dân chủ, mà hầu hết các Đảng CS trên thế giới đã từ bỏ, vì thế thực chất, sự tập trung quyền lực bao giờ cũng đưa tới chỗ triệt tiêu dân chủ. Nhiều lắm dân chủ chỉ trở thành đồ rởm, chỉ có tác dụng trang trí cho sự tập trung quyền lực. "Đảng là cản trở của nền dân chủ" nên kiến nghị đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng "Đảng chỉ nên lãnh đạo tư tưởng, đạo đức, lối sống và định hướng chung chung", "không lãnh đạo kinh tế, văn hóa, không lãnh đạo lực lượng vũ trang"... đó là công việc của nhà nước. Đây là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang để vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng tung ra luận điệu trong Đảng có phe cải cách và phe bảo thủ, có “nhóm lợi ích” từ lãnh đạo cấp cao và nhóm này chi phối toàn bộ các nhóm lợi ích ở cấp dưới. Chúng cũng bịa đặt rằng "điều này cho thấy phe bảo thủ đã thành công trong việc đặt nặng sự ổn định chính trị trong nước trước cải cách. Thành phần thủ cựu trong Đảng cộng sản lo ngại Nhà nước sẽ mất đặc quyền đặc lợi". Chúng tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, xuất hiện nhiều cuốn nhật ký, hồi ký tài liệu tung ra những chuyện giật gân trong sinh hoạt của các nhà lãnh đạo, đề cao người này, hạ thấp người kia, kích động, chia rẽ lãnh đạo cao cấp của Đảng, gây nghi ngờ hòng mong chia rẽ nhân dân với Đảng. Các đối tượng phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, công kích đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là định hướng XHCN, như "kinh tế thị trường và CNXH như nước với lửa không thể hòa nhập được". "Kinh tế thị trường là kinh tế TBCN, do thời cuộc và do cuộc sống bắt buộc, chính quyền Việt Nam phải chọn sống chung với con hổ yêu tinh hiện đại này, thể nào sớm hay muộn cũng bị nó ăn thịt"; thực hiện đường lối mở cửa, phát triển kinh tế thị trường là chế độ Cộng sản Việt Nam đã uống liều thuốc đắng, kinh tế nhà nước là ung nhọt, là sân sau của những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải đất nước. Xuyên tạc lịch sử, đòi lật án, chúng xuyên tạc "Thành quả cách mạng Tháng Tám là thành quả cay đắng. Chính quyền về tay nhân dân nhanh chóng rơi vào tay Đảng cộng sản", rằng "dù không có Đảng Cộng sản, nhiều thuộc địa đã giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu của dân tộc là do Đảng cộng sản gây ra". Chúng vu cáo "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc nội chiến, quân đội ta là những người lính đánh thuê của các thế lực hiếu chiến". Bôi nhọ lịch sử chính là một thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, làm mất lòng tin.Tất cả các mũi tấn công trên đều nhằm vào phát triển mầm mống các nhân tố chống CNXH, thúc đẩy sự hình thành xã hội dưới tác động của hàng hóa, nguồn vốn phương Tây, hình thành tâm lý sùng bái đồng dollar, lôi kéo thêm lực lượng cán bộ, đảng viên có quan điểm sai trái, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân để lấn át kinh tế nhà nước. Tiếp tục phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh khi chúng cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác-Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu. Du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" suốt mấy chục năm là một sai lầm mà lịch sử không bao giờ tha thứ. Từ đó họ phát động chiến dịch bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh, bôi nhọ danh nhân mà họ gọi là chiến dịch "hạ bệ thần tượng". Gần đây chúng tung lên luận điệu "No Ho" phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc công lao, sự nghiệp vĩ đại của Bác. Thâm độc hơn, chúng tung ra luận điệu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác-Lênin. Chúng ngụy biện rằng, bây giờ học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời, nên chỉ dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh mà thôi, vì "Chủ nghĩa Hồ Chí Minh" là chủ nghĩa dân tộc, vì dân tộc”. Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, là thủ đoạn thâm độc làm suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh và thực chất là để phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tiến tới phủ định chính ngay tư tưởng Hồ Chí Minh. Trắng trợn hơn, chúng rêu rao tư tưởng Hồ Chí Minh là “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Bây giờ có độc lập tự do rồi thì cần gì tư tưởng Hồ Chí Minh nữa. Hoặc cứ coi Hồ Chí Minh là một vị thánh của dân tộc để thờ, còn tư tưởng của Người thì không cần cho đất nước trong thời cuộc hiện nay. Họ còn nói chế độ một Đảng là không dân chủ, thậm chí đòi các đảng cộng sản đang cầm quyền phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Một số người cho rằng thích ứng với nền kinh tế đa sở hữu thì nền chính trị không thể nhất nguyên được, không thể duy trì sự lãnh đạo của một đảng duy nhất. Do vậy theo họ, dân chủ phải đi liền với đa nguyên về chính trị. Không ít những lời gièm pha, chỉ trích rằng dân chủ của ta là nửa vời, chưa mở ra đã khép lại… Có người nói cách làm của chúng ta là non gan, yếu bóng vía, không dám mở bung dân chủ hết cỡ, không dám thực hiện dân chủ công khai, không giới hạn. Để chứng minh điều này, những người có lập trường cơ hội và thù địch viện dẫn và xuyên tạc nhiều sự thật lịch sử. Lấy hiện tượng làm bản chất, cường điệu một số hiện tượng đơn lẻ, có thực và có nguyên nhân cụ thể, biến nó thành phổ biến, tất yếu và không tránh khỏi của cả hệ thống. Từ tệ tham nhũng mà Đảng đang đấu tranh thì họ suy ra thành đảng tham nhũng. Đối với các chủ trương của Đảng, Nhà nước ta, dưới con mắt của các phần tử cơ hội, thù địch đều cho là có vấn đề, sai lầm, đầy mâu thuẫn, lúng túng và bế tắc. - Tấn công vào định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Họ cho rằng Đảng ta đưa ra định hướng XHCN là thừa, vô nghĩa, do đó chỉ cần đặt vấn đề xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh là đủ, cần gì phải định hướng XHCN, vì theo họ dòng sông tự nó phải chảy ra biển, cần gì phải uốn nắn. Rằng: Việt Nam tiến lên CNXH bỏ qua TBCN là một điều kỳ quặc, trái quy luật, vì thế hãy tạm gác lại mục tiêu CNXH và lùi về với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đúng đắn nhất. 3. Những luận điệu sai trái hình thành do trình độ nhận thức chính trị kém So với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn là một nước nghèo và đang phát triển, sự phát triển kinh tế còn chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế còn chưa cao. Trong lĩnh vực xã hội, còn nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải được tiếp tục quan tâm giải quyết. Điều đó đã tác động, gây ảnh hưởng xấu tới tâm trạng xã hội, là cái cớ để một số phần tử đả kích chế độ. Các thế lực thù địch đã lôi kéo, kích động một bộ phận nhân dân và cả một số cán bộ các dân tộc thiểu số đi theo tiếng gọi của thần thánh hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Họ kích động tư tưởng hẹp hòi, dẫn đến nhận thức sai lệch trong một số vấn đề như: dân tộc thiểu số phải có đức tin riêng, có cuộc sống riêng, người Kinh là những kẻ cướp đất, cướp miếng ăn của họ. Từ cách nhìn sai lệch dễ nảy sinh quan điểm sai trái, những yếu tố tâm lý nghi kỵ, dân tộc hẹp hòi. Do sự nhận thức yếu kém cộng với sự kích động thù địch trong và ngoài nước, một số đồng bào dân tộc đã gây mất trật tự trị an, chống lại và hành hung người thi hành công vụ; một số người còn trốn, đi theo Fulro ra nước ngoài làm tay sai cho chúng. Đồng bào ở các vùng chiến lược về an ninh, quốc phòng ở nước ta chủ yếu là đồng bào theo đạo, người dân tộc thiểu số, có trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Đây là những địa bàn trọng yếu nhưng hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu kém nên đã trở thành một trong những điểm yếu để các thế lực thù địch tác động mạnh bằng chiến tranh tâm lý. Ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch thông qua việc truyền đạo trái phép, các tổ chức phi chính phủ đã mị dân bằng những khẩu hiệu có liên quan sát thực đến đời sống của nhân dân như “đói cho ăn, đau cho thuốc, chết cho hòm”… Sự kiện đồng bào Mông ở Mường Nhé vừa qua cũng có sự tác động của các đối tượng phản động. Trong khi đó, một số nơi do bất bình trước những khó khăn, những cách làm sai trái của một số cán bộ nên phản ứng tập thể, gây mất an ninh trật tự ở nông thôn, an ninh đô thị, thậm chí kéo dài những vụ tranh chấp, khiếu kiện, đình công, lãn công… Do tác động nhiều mặt, trong xã hội đã xuất hiện nhiều hiện tượng như tầm thường văn hóa, chạy theo lối sống sinh hoạt văn hóa lai căng, thác loạn, dung tục, xa rời văn hóa truyền thống. Một số đầu sách có nội dung phức tạp, xuyên tạc lịch sử văn học Việt Nam vẫn được nhập khẩu, phát hành. Trên thị trường băng đĩa nhạc xuất hiện hàng loạt băng đĩa đồi trụy, phản động được lưu hành. Hàng loạt thông tin xâm nhập vào không được kiểm chứng, dẫn đến nhận thức sai lệnh thông tin và hình thành nên quan điểm sai trái. Một số báo, đài đưa tin, bài thiếu chính xác, thiếu định hướng tư tưởng gây ảnh hưởng xấu trong dư luận. Trong khi đó, một số cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài (AFP, Reuter, BBC, VOA) đưa các tin, bài vu cáo ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Không ít cán bộ, đảng viên và một bộ phận quần chúng nhân dân đã đọc, nghe những luận điệu này, không phân biệt đúng sai, nhiều cán bộ đảng viên đã biểu hiện dao động, mất lòng tin và suy thoái về tư tưởng chính trị, vô tình thành phần tử cơ hội gấy nguy hại nghiêm trọng tới sự vững mạnh về chính trị và trong sạch về tổ chức của Đảng. Các thế lực thù địch rất quan tâm lôi kéo tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, học sinh, sinh viên vì đây là lực lượng hùng hậu, là đội ngũ quan trọng trong xã hội, nhất là trí thức, lớp trẻ. Chúng coi đó là hướng hoạt động có tính chiến lược nhằm chuyển hóa tư tưởng của thế hệ điều hành đất nước trong tương lai. Những thế hệ sau 1975 đã quên hoặc chưa từng nếm trải những khổ cực trong chiến tranh do đó dễ bị thao túng, lôi kéo. Do ảnh hưởng của các thế lực thù địch cùng với tác động của một số yếu tố khách quan, một số sinh viên hiểu sai và nói sai về đất nước và chế độ. Có một số cán bộ, đảng viên, trí thức cũng ngộ nhận, phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, thậm trí có người còn đòi xóa bỏ nguyên tắc này. Họ cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ nay đã lỗi thời, nó chỉ thích họp với hoạt động của Đảng khi chưa dành được chính quyền, còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo chiến tranh, rằng thực hiện tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong xã hội, sẽ không có dân chủ, không có nhân đạo. Họ cho rằng định hướng XHCN là giáo điều, sách vở, xuất phát từ định đề giai cấp chứ không xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Theo họ, phải từ bỏ định hướng XHCN thì mới phù hợp với thực tế đất nước, xu thế với thời đại. Họ cho rằng chúng ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất XHCN bằng mọi giá, nên lực lượng sản xuất ngày càng bị yếu kém, trì trệ, dẫn tới kinh tế tụt hậu. Một số người cho rằng không nên phân chia nền kinh tế theo tiêu chí quan hệ sản xuất mà lâu nay vẫn làm, như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo họ, cách phân chia đó dẫn đến việc phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, không có lợi cho việc phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế khác. Thay vào đó, nên phân chia nền kinh tế theo tiêu chí nhỏ, vừa và lớn. Họ cho rằng, chỉ bằng cách xóa bỏ mọi dấu hiệu quan hệ xã hội của sản xuất thì mới có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Có người còn lớn tiếng khuyên chúng ta cứ “nhập khẩu” toàn bộ luật pháp của phương Tây về và làm theo thì đất nước mới phát triển. “Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, Đảng ta, nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Chúng thường xuyên chống phá chúng ta bằng nhiều thủ đoạn trong đó có những luận điệu sai trái, xuyên tạc. Vì vậy, đấu tranh chống luận điệu sai trái như một nhiệm vụ tất yếu chúng ta cần làm và nhất định phải làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các loại quan điểm sai trái để có những đối sách phù hợp. Yêu cầu chung nhất của việc đấu tranh này chính là làm tốt công tác tư tưởng trong Đảng và toàn dân bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn xã hội. Gần 90 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định công tác đấu tranh chống quan điểm sai trái trực tiếp phục vụ cho việc lãnh đạo thực hiện những mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức tình cảm, tư tưởng của nhân dân. Đấu tranh chống các luận điệu sai trái cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn./.

Nhận rõ các luận điệu sai trái, thù địch để kiên quyết đấu tranh bác bỏ

Trong quá trình cách mạng, cuộc đấu tranh tư tưởng luôn diễn ra thường xuyên và hết sức phức tạp. Cường độ và tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh này thường tăng cao ở những thời điểm quan trọng và nhạy cảm. Thời điểm hiện nay, toàn Đảng đang triển khai những nhiệm vụ trọng đại chuẩn bị cho Đại hội XIII và đó cũng là dịp các thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động chống phá cách mạng nước ta mà một trong những trọng điểm của chúng là chống phá về tư tưởng. Tình hình đó đặt ra những trách nhiệm nặng nề đối với cuộc đấu tranh tư tưởng, trong đó đấu tranh chống các luận điệu sai trái, thù địch càng trở thành một trong những nhiệm vụ bức thiết. Để thực hiện tốt trọng trách này, vấn đề nhận diện các loại luận điểm sai trái, thù địch là hết sức cần thiết. Sau đây, xin nêu những dạng luận điệu sai trái, thù địch để có những giải pháp xử lý cụ thể và thích hợp. Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, "phi chính trị hóa", vô hiệu hóa quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ nhà nước XHCN ở Việt Nam. Khi Mỹ tiến hành bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố "Mỹ quan hệ với Việt Nam là vì quyền lợi của Mỹ và để chuyển hóa chế độ chính sách ở Việt Nam theo kiểu Đông Âu và Liên Xô cũ". Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Kissinger cho rằng "Những người cộng sản Việt Nam đã thắng trong chiến tranh, nhưng họ sẽ thua trong hòa bình, trước đây cộng sản dùng súng để đuổi người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, ngày nay người Mỹ sẽ dùng dollar để đuổi cộng sản ra khỏi Sài Gòn. Chính phủ Hoa Kỳ đã chi mất 1.000 tỷ USD trong chiến tranh Việt Nam, bây giờ họ cũng không thể để cộng sản yên vị trên đất nước Việt Nam được". Âm mưu của Mỹ là sử dụng con đường ngắn nhất lôi kéo Việt Nam theo Mỹ, dùng chính trị để phát triển ảnh hưởng kinh tế, dùng kinh tế để chi phối sự lãnh đạo của Đảng CSVN, dùng quần chúng để làm tăng thêm sự đối lập của quần chúng với chính quyền và với Đảng. Với ý đồ đó, Mỹ và các thế lực thù địch đã thực hiện một loạt bước như ngoại giao thân thiện, chi phối đầu tư, khoét sâu nội bộ, viện trợ kinh tế, cấp học bổng cho học sinh, nghiên cứu sinh và nhận học sinh, nghiên cứu sinh sang Mỹ và các nước tư bản khác để tiếp cận, từng bước thực hiện âm mưu lũng đoạn nội bộ ta. Chúng ráo riết chống phá bằng mọi thủ đoạn vừa công khai, vừa bí mật, kết hợp bên trong và bên ngoài hòng làm thay đổi quan điểm, lập trường chính trị trong nội dung các văn kiện Đại hội Đảng, hòng làm cho Đảng ta suy yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo nên và thúc đẩy nhanh quá trình tự diễn biến, làm xói mòn và mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy yếu hệ thống lãnh đạo bằng cách loan tin bịa đặt có mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo cấp cao... Nhiều nội dung của tư tưởng đa nguyên, xóa bỏ độc quyền lãnh đạo đã được ráo riết tuyên truyền dưới nhiều hình thức để xâm nhập vào xã hội và nội bộ Đảng ta trong thời gian qua. Các đối tượng thù địch nước ngoài tiếp tục gia tăng chống phá, xuyên tạc nội dung nghị quyết, phá hoại quá trình thực hiện nghị quyết. Một số xu hướng mà các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện truyền bá những luận điệu sai trái: - Tấn công vào nền tảng tư tưởng của chúng ta - chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các nhà tư tưởng chống cộng, chống CNXH phê phán, đả kích tới tấp vào CN Mác-Lênin hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta và đẩy chúng ta đi chệch quỹ đạo của CNXH. Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Cộng sản như: du nhập CN Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì CN Mác-Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc. Họ còn cho rằng lý luận Mác-Lênin chỉ giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp, còn tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết đấu tranh dân tộc thuần túy, không thể áp đặt mẫu học thuyết Mác-Lênin vào Việt Nam, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường; vì thế các đảng cánh tả và nhiều đảng cộng sản trên thế giới không coi chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng. Và họ đưa ra luận điệu rằng tại sao các nước theo chủ nghĩa Mác-Lênin chưa thể là nước phát triển, còn tất cả các nước phát triển trên thế giới hiện nay đều không tuân theo chủ nghĩa Mác-Lênin. - Phủ định nền tảng tư tưởng: phủ định học thuyết Mác-Lênin, cho là học thuyết Mác-Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, chỉ phù hợp với một chừng mực nào đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với nước ta, từ đó cho rằng CN Mác-Lênin lỗi thời ở Việt Nam. Gần đây chúng chuyển sang luận điệu "Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa, ngay cả các cán bộ cấp cao". Đồng thời chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa ra các luận điệu "đấu tranh giai cấp", "tập trung dân chủ" là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ, không phù hợp với xu thế thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển. - Phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" suốt mấy chục năm. Cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương tiện; đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử... - Phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng hình thái kinh tế xã hội chỉ là một lý thuyết về CNXH không tưởng, không bao giờ thực hiện được, sự sụp đổ CNXH ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu, dự báo trước. Cho rằng, nhà tư bản bóc lột công nhân nào khi hiện nay các nhà máy, công xưởng toàn các rô bốt làm việc. Cho rằng CNXH đặt xã hội lên trên cá nhân chỉ là đề cao một số người đang nắm quyền trong xã hội đó. - Tấn công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng không thể làm trái qui luật bỏ qua chế độ tư bản vì hiện nay Việt Nam đang xây dựng và phát triển CNTB dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vậy nên, cần giải quyết các vấn đề xã hội ở chừng mực nào đó, theo chủ nghĩa xã hội dân chủ là tốt nhất. Chúng cho rằng, kinh tế thị trường lại định hướng XHCN sẽ không thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, sẽ bị cô lập trên trường quốc tế. Chúng rêu rao: Đảng CSVN đã chọn con đường sai, không thể có CNXH. Không ít kẻ đã lớn tiếng rằng "CNXH chính là bước quá độ từ CNXH nghèo đói tiến tới CNTB, những ước mơ của CNXH thì chính CNTB đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở CNTB những lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề được đặt ra trong đời sống loài người. Tóm lại, người ta muốn nói những người Mác xít bàn về CNXH chẳng khác nào bàn về hư vô". - Tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, các thế lực thù địch đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, đòi đa đảng. Các thế lực chống cộng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ. Bằng việc vu cáo Đảng CS chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, "độc đoán, đảng trị", thực hiện sự chuyên chính của một đảng, sự thống trị quan liêu của giới thượng lưu, chúng đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân. Gần đây chúng đưa ra luận điệu mới rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Điều kiện hiện nay không còn phù hợp nữa để lực lượng khác mới đưa đất nước tiến lên. Một số người không phủ nhận hoàn toàn tính chất ưu việt của CNXH nhưng lại phê phán Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, cho rằng những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích thù hận, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên. Dựa vào một số "cải cách" ở các nước tư bản và nhất là dựa vào các mô hình xã hội - dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, họ cho rằng từ CNTB tiến sang CNXH không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị mới. - Về sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân: chúng cho rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, "lại được đào luyện trong một lôgíc chuyên chế bạo ngược", cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển. Họ lập luận: "... nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là "Người đào huyệt chôn CNTB" xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò lịch sử của mình? Đảng CSVN không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Vì thế nhiều cán bộ cao cấp của Đảng chỉ phấn đấu leo cao để tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Với những điều kiện như trên, giai cấp công nhân và Đảng CSVN không thể lãnh đạo, xây dựng được CNXH đích thực ở Việt Nam..." v.v... và v.v... - Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH, phê phán triệt để, bôi đen CNXH hiện thực, bác bỏ con đường XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN. Cho rằng "đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thời đại, đi theo con đường TBCN thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích đau đớn hơn, chậm chạp hơn". Gần đây có luận điệu xảo quyệt, thâm độc hơn như "con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ TBCN theo định hướng XHCN, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập với nhau". - Phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng CSVN và bôi nhọ lãnh đạo. Chúng lập luận, cho dù trong quá khứ có làm nhiều thành tích thì đến thời đại mới đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước. Phản bác quan điểm, cương lĩnh của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch đòi "từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ". - Chống phá nước ta về vấn đề nhân quyền. Một số nước Phương Tây đưa ra những chiêu bài "nhân quyền cao hơn chủ quyền, nhân quyền không biên giới, vấn đề nhân quyền về bản chất không còn được coi là công việc thuộc nội bộ của một quốc gia". Hơn nữa, họ còn nêu ra rằng cộng đồng quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ của một quốc gia để bảo vệ nhân quyền và giải tỏa tai họa để can thiệp "nhân đạo". Ngay cả khi quan hệ Việt – Mỹ đã được nâng cấp thành quan hệ đối tác toàn diện, một số đối tượng trong chính quyền Mỹ vẫn công khai tuyên bố: "Vấn đề nhân quyền vẫn sẽ là trọng tâm của sự bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Sự khác biệt về nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã cản trở mối giao hảo giữa hai nước và sự tiến bộ chậm chạp về nhân quyền đã làm tắc nghẽn sự phát triển của Việt Nam". Mục tiêu của các thế lực thù địch là tập trung hướng vào nội bộ ta, tìm mọi hình thức, tinh vi hoặc trắng trợn, công khai hoặc bí mật, ráo riết làm cho nội bộ không ổn định, luôn luôn gieo rắc ngờ vực, nghi kỵ, giảm sút lòng tin hòng gây chia rẽ, lục đục nội bộ. Ví dụ các chiến dịch tung tin thường tập trung vào các kỳ đại hội, kỳ bầu cử Quốc hội nhằm mục đích kích động, chia rẽ nội bộ. Xuất hiện nhiều luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm như "Phe thân Mỹ sẽ thắng và phe thân Trung Quốc sẽ thua”. Theo số liệu thống kê hiện nay ở bên ngoài có 52 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, mạng internet, 429 tờ báo, tạp chí, trên 40 nhà xuất bản tập trung tuyên truyền chống phá ta. Hàng năm có hơn 3 nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, 28 nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát qua con đường bưu điện quốc tế dưới dạng quà cáp, và gần 11 nghìn ấn phẩm được đưa vào bằng nhiều con đường khác. Các đài phát thanh RFI, VOA, BBC liên tục phát những tài liệu, các cuộc phỏng vấn những phần tử người Việt lưu vong ở nước ngoài để cắt xén, thổi phồng, xuyên tạc một số sự kiện ở trong nước đưa lên mạng đang phát tán rộng rãi trong xã hội nhằm gây khó khăn cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội trước thời điểm Đại hội Đảng.

Không để những kẻ cơ hội, lươn lẹo chui vào bộ máy công quyền

Không ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta đã ví những kẻ cơ hội chính trị như những “con lươn, con chạch”. Vì nói đến “con lươn, con chạch”, người ta hay liên tưởng đến những kẻ ra luồn vào cúi, sống lươn lẹo, uốn éo, thoắt ẩn thoắt hiện, khó nắm bắt như loài lươn, loài chạch. Một trong những biểu hiện tinh vi nhất của những kẻ cơ hội chính trị như “con lươn, con chạch” là thái độ “sống giả” để tạo ra uy tín giả vì mục đích háo danh, vụ lợi. Một trong những nội dung rất quan trọng trong công tác chuẩn bị đại hội ở các tổ chức đảng là việc chuẩn bị nhân sự. Đại hội có thành công hay không, phụ thuộc một phần rất quan trọng vào công tác chuẩn bị, quy hoạch, sàng lọc nhân sự có chặt chẽ, chu đáo, chính xác hay không. Thời gian gần đây, Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị yêu cầu tổ chức đảng các cấp cần phải làm thật tốt công tác chuẩn bị nhân sự ngay trước thềm đại hội. Một trong những nội dung các chỉ thị đề ra là các cấp ủy đương nhiệm phải chủ động sàng lọc, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những kẻ cơ hội chính trị, lập trường thiếu vững vàng, thiếu quyết đoán, không có khí khái, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” nêu rõ: “Kiên quyết sàng lọc, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng, bè phái, cơ hội, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh”. Kết luận số 55-KL/TW ngày 15-8-2019 của Ban Bí thư “Về việc tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng”, trong đó cảnh báo một số nơi cấp ủy viên, ủy viên thường vụ, người đứng đầu cấp ủy còn đủ điều kiện tái cử có hiện tượng giữ mình, né tránh, ngại va chạm; đồng thời yêu cầu không đưa vào cấp ủy khóa mới những người có biểu hiện “thiếu tích cực trong công tác, sợ trách nhiệm, dĩ hòa vi quý”. Trước đó (tháng 11-2018), chủ trì cuộc họp Ban chỉ đạo xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Dứt khoát không đưa vào quy hoạch nhiệm kỳ mới những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, mất đoàn kết, gây rối nội bộ, tham nhũng tiêu cực, cơ hội chính trị như “con lươn, con chạch”. Không ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta ví những kẻ cơ hội chính trị như những “con lươn, con chạch”. Một trong những biểu hiện tinh vi nhất của những kẻ cơ hội chính trị như “con lươn, con chạch” là thái độ “sống giả” để tạo ra uy tín giả vì mục đích háo danh, vụ lợi. Theo Từ điển tiếng Việt giải thích, “giả” không chỉ có nghĩa “không phải là thật”, mà “giả” còn bao hàm nhiều nghĩa như: Giống vật gì nhưng không phải mang bản chất của vật ấy; làm ra để thay thế một vật nào đó; làm giống như thật; bắt chước sự thật. Chung quy lại, giả đối lập với thật, là lợi dụng cái thật để làm y như thật nhằm che mắt, lừa dối thiên hạ vì mục đích hẹp hòi, nhỏ nhoi, không chính đáng. Ví như làm và bán hàng giả để kiếm lợi nhuận bất chính. Học hành giả nhằm nâng “khống” kiến thức với động cơ tiến thân không lành mạnh. Chứng chỉ giả nhằm hợp lý hóa trình độ nào đó hay “đánh bóng” lý lịch cá nhân hòng vụ lợi. Thật ra, cái giả nào cũng đáng quan ngại. Nhưng thời nay, có một thứ giả đáng quan ngại hơn chính là tình trạng “sống giả”. “Sống giả” không chỉ có nghĩa là sống không thật lòng mình, mà đó là kiểu cách sống bằng mọi giá để lấy lòng, mua chuộc người khác. Ở nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức hiện nay, “sống giả” được khoác lên bộ mặt không ít người. Những người “sống giả” có đặc điểm chung là, với cấp trên cái gì cũng phải, cũng đúng, cũng hay; với thủ trưởng thì bao giờ cũng nhẹ nhàng, mềm mỏng, nhũn nhặn “một dạ hai vâng”; với mọi người thì “mười lăm cũng ừ, mười tư cũng gật”, “gió chiều nào che chiều ấy”, “thấy xôi khen xôi ngọt, thấy thịt bảo thịt bùi”, lúc nào cũng ứng xử theo kiểu dĩ hòa vi quý để cố gắng không làm mất lòng, phật ý ai cả. Nhưng còn có một thứ “sống giả” tinh vi hơn, đấy là một số người ứng xử đến mức “siêu khéo”, luôn sử dụng những “lời có cánh”, những mỹ từ để khen ngợi người này, vuốt ve người khác, biết tận dụng thời cơ để cung kính cấp trên, chiều chuộng cấp dưới, “cưng nựng” đồng nghiệp. Cái sự “sống giả” này thấy rõ nhất ở một số người đang trong thời điểm chuẩn bị quy hoạch, chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm, chuẩn bị bầu cử, chuẩn bị đại hội, chuẩn bị bổ nhiệm chức vụ mới. Những người “sống giả” không dễ phát hiện như hàng giả, chứng chỉ giả, bằng cấp giả. Vì đó là những con người bằng xương bằng thịt hẳn hoi, đôi khi được “khoác” trên mình bằng diện mạo bóng bẩy hào hoa, nhưng họ nhũn nhặn thể hiện “cử chỉ giả” để làm xiêu lòng người khác. Ví như nụ cười họ tươi tắn, rực rỡ như những đóa hoa đang nở; giọng mềm như tơ lụa, lời ngọt như mía lùi, ánh mắt lại biết “đung đưa” đúng lúc, đúng chỗ và như có ma lực thôi miên vào từng đối tượng giao tiếp, ứng xử. Những người “sống giả” thường biết diễn giỏi, nói hay, lợi dụng tình cảm chân thành, hồn hậu của mọi người nhằm mua chuộc nhân tâm. Như vậy, “sống giả” cũng là một trong những hình thức tạo dựng uy tín giả cho cán bộ, đảng viên, một triệu chứng không thể xem thường trong bộ máy công quyền. Vì thực tế đã có những người tiến thân không phải do tài năng, đức độ, mà đi lên bằng cái “môi mỏng, lưỡi mềm” siêu đẳng của họ. Họ hiếm khi gây mất lòng ai, nhưng do tài cán có hạn, lại chỉ khư khư giữ mình vì ngại đụng chạm, ngại va vấp, ngại khuyết điểm, thế nên những người này thường không có chính kiến rõ ràng, không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm, nên không góp phần tạo ra động lực thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc cho tập thể, cho bộ máy. “Sống giả” thực chất là cách sống chủ yếu chỉ vì lợi ích của mình mà không vì tập thể, vì mọi người, do đó, ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận động, phát triển lành mạnh của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đấy là chưa kể có những người “sống giả” đến mức như một “diễn viên có hạng” trong giao tiếp ứng xử, họ sẵn sàng đổi màu như con tắc kè để mua vui người này, lấy lòng người khác nhằm mục tiêu tối thượng là “tăng phiếu, lên ghế” cho bản thân mình! “Sống giả” đâu đó vẫn hiện diện hằng ngày trên những khuôn mặt thật, song, nó lại được bao bọc tinh vi bởi những cái mặt nạ bóng bẩy hào hoa bên ngoài, thế nên nó rất dễ làm mập mờ, lẫn lộn ranh giới tốt-xấu, đúng-sai, hay-dở trong nội bộ và gây khó khăn thêm cho việc nhận định, đánh giá chuẩn mực nhân cách cán bộ, đảng viên. Châm ngôn có câu: “Lộng giả thành chân”, nó vừa có nghĩa “bỡn quá hóa thật”, vừa mang hàm ý những cái giả để lâu ngày nếu không được vạch mặt chỉ tên để uốn nắn, chấn chỉnh và loại trừ khỏi cuộc sống thì sẽ đến lúc người ta tin đó là sự thật. Nếu tổ chức, cơ quan, đơn vị nào đó mà cứ để cho tình trạng “sống giả” nhởn nhơ thì không chỉ làm tổn thương những nhân cách trung thực, phương hại những phẩm giá chân chính mà còn làm thui chột những cán bộ, đảng viên có động cơ phấn đấu lành mạnh. Hiện nay, các địa phương, các cơ quan, đơn vị đang khẩn trương, tích cực chuẩn bị các bước quy hoạch nhân sự chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Vì vậy, cấp ủy, ban thường vụ, người đứng đầu cấp ủy và các cơ quan chức năng giúp việc càng phải sớm nhận diện, phát hiện, thẩm định, sàng lọc chặt chẽ ngay từ đầu để ngăn chặn không cho những kẻ cơ hội như “con lươn, con chạch”, “sống giả” chui vào vị trí lãnh đạo các cấp. Làm được như vậy, chúng ta sẽ góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ./.

Hãy bày tỏ lòng yêu nước đúng cách

Trong mỗi người con dân đất Việt, hầu như ai cũng mang trong mình một tình yêu sâu sắc đối với quê hương, đất nước. Điều quan trọng là mỗi người cần thể hiện tình yêu nước sao cho đúng cách, đúng lương tâm trách nhiệm của một công dân chân chính. Thời gian qua, đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, lợi dụng lòng yêu nước nhưng nhận thức còn mơ hồ của một bộ phận người dân, một số đối tượng xấu đã lên mạng xã hội kêu gọi, lôi kéo, kích động người dân xuống đường, biểu tình. Chưa dừng lại ở đó, những phần tử cơ hội chính trị, bất đồng chính kiến còn đưa ra cái gọi là “thông điệp mạnh mẽ của người dân lên án thái độ ươn hèn và phản ứng nhu nhược của Đảng, Nhà nước trước hành động ngang ngược vi phạm chủ quyền Việt Nam của Bắc Kinh”(!). Thực ra không phải bây giờ, mà những năm gần đây, lợi dụng vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ môi trường, các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã kích động một bộ phận người dân xuống đường biểu tình, tuần hành mà thực chất là nhằm gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân. Tháng 5-2014, lợi dụng việc Trung Quốc hạ giàn khoan dầu Hải Dương 981 xâm phạm chủ quyền biển Việt Nam, các phần tử xấu đã xúi giục, lôi kéo, kích động người dân, công nhân xuống đường đi tuần hành, biểu tình trái pháp luật. Một số người dân quá khích xông vào đập phá tài sản của một số doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, gây thiệt hại về kinh tế. Trước hết phải khẳng định rằng, việc Trung Quốc mới đây đưa tàu thuyền vào bãi Tư Chính thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam là trái với luật pháp quốc tế.

KHÔNG ĐỂ LÒNG YÊU NƯỚC BỊ LỢI DỤNG

Trước những vấn đề hệ trọng của đất nước, việc người dân bày tỏ quan điểm, thể hiện lòng yêu nước là rất đáng trân trọng. Chỉ đáng tiếc, trong khi đa số người dân đã thể hiện thái độ bình tĩnh, đúng mực, vẫn còn một số người do thiếu thông tin hoặc bị xúi giục, lôi kéo, kích động nên đã bị cuốn theo “tâm lý đám đông” tiêu cực, rồi bày tỏ lòng yêu nước thái quá, không phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc. Lòng yêu nước của nhân dân ta, như Bác Hồ từng khẳng định “đó là một truyền thống quý báu của ta”. Nhưng truyền thống quý báu đó chỉ thực sự phát huy tác dụng khi mỗi người dân thể hiện lòng yêu nước đúng mực, đúng lúc, đúng chỗ; không có bất cứ thái độ, cử chỉ, hành vi nào làm tổn thương đến hình ảnh đất nước, phương hại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Người dân có lòng yêu nước chân chính không thể đi tuần hành rầm rộ gây cản trở giao thông, xông vào đập phá trụ sở chính quyền, ném gạch đá vào lực lượng công an đang thực thi nhiệm vụ, dọa “đốt” công ty… như từng xảy ra ở tỉnh Bình Thuận và một số địa phương phía Nam trong tháng 6-2018. Để lòng yêu nước chân chính của nhân dân không bị lợi dụng, các cấp ủy, chính quyền cần làm tốt hơn nữa công tác dân vận, tăng cường biểu dương, khen thưởng, nhân rộng gương người tốt, việc tốt; đồng thời, chú trọng nắm bắt dư luận xã hội để kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng của dân. Hiện nay, trình độ dân trí ngày càng tăng, nhu cầu của các tầng lớp nhân dân cũng ngày càng cao và đa dạng. Sự bùng nổ thông tin, nhất là thông tin trên mạng xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm, lối sống, ứng xử… của các thành phần trong xã hội, nhất là giới trẻ. Điều này đặt ra yêu cầu, trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở phải chủ động, tăng cường gặp gỡ, đối thoại, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân để thu hẹp những khoảng cách bất đồng, tháo gỡ mâu thuẫn, tìm biện pháp giải quyết và bảo đảm lợi ích tối ưu cho người dân.

TỈNH TÁO TRƯỚC NHỮNG ÂM MƯU ĐEN TỐI CỦA CÁC PHẦN TỬ XẤU

Thời gian qua, đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, lợi dụng lòng yêu nước nhưng nhận thức còn mơ hồ của một bộ phận người dân, một số đối tượng xấu đã lên mạng xã hội kêu gọi, lôi kéo, kích động người dân xuống đường, biểu tình. Chưa dừng lại ở đó, những phần tử cơ hội chính trị, bất đồng chính kiến còn đưa ra cái gọi là “thông điệp mạnh mẽ của người dân lên án thái độ ươn hèn và phản ứng nhu nhược của Đảng, Nhà nước trước hành động ngang ngược vi phạm chủ quyền Việt Nam của Bắc Kinh”(!). Thực ra không phải bây giờ, mà những năm gần đây, lợi dụng vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ môi trường, các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã kích động một bộ phận người dân xuống đường biểu tình, tuần hành mà thực chất là nhằm gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân. Tháng 5-2014, lợi dụng việc Trung Quốc hạ giàn khoan dầu Hải Dương 981 xâm phạm chủ quyền biển Việt Nam, các phần tử xấu đã xúi giục, lôi kéo, kích động người dân, công nhân xuống đường đi tuần hành, biểu tình trái pháp luật. Một số người dân quá khích xông vào đập phá tài sản của một số doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, gây thiệt hại về kinh tế. Trước hết phải khẳng định rằng, việc Trung Quốc mới đây đưa tàu thuyền vào bãi Tư Chính thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam là trái với luật pháp quốc tế.

Vắc xin đặc trị chống "chạy chức, chạy quyền"

“Chạy chức, chạy quyền” là một trong những tình trạng bổ nhiệm chức vụ/quyền hạn cho những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Đó có thể là người thân, họ hàng, cùng cánh hẩu, cùng quê, "đệ tử"... được giấu dưới vỏ bọc “đúng quy trình”, “đúng quy định”. Vấn nạn này ngày càng trở nên ung nhọt, phổ biến không chỉ gây nhiều hệ lụy trong công tác cán bộ, gây bức xúc trong dư luận xã hội mà còn làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, đòi hỏi cần phải có vắc xin đặc trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[1], vì “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” và Người cũng nhấn mạnh rằng, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[2]. Thấm nhuần những chỉ dẫn của Người, trong 89 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác cán bộ, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có đức có tài, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Tuy nhiên, thực tế công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác cán bộ nói riêng (bao gồm lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo...) đã cho thấy, một trong những vấn nạn nhức nhối, nổi cộm hiện nay, được đề cập trong các văn kiện Đại hội của Đảng, trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng chính là “chạy chức, chạy quyền”. Thông qua “chạy”, những kẻ cơ hội, đầu cơ chính trị đã chui sâu, leo cao vào các vị trí chủ chốt trong tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Những năm gần đây, thông tin về việc những quan chức lạm dụng chức vụ/quyền hạn được giao đã kéo bè, kéo cánh, đưa người thân, cánh hẩu vào giữ các vị trí tại các cơ quan công quyền, tạo tiền đề hình thành “nhóm lợi ích” cho thấy, câu chuyện cả nhà làm quan, cả họ làm quan như vưa, như chúa ở mỗi địa phương đã không còn là hiện tượng đơn lẻ. Vấn nạn này xảy ra, trải dài từ Bắc vào Nam: Hà Giang, Mỹ Đức (Hà Nội), An Dương (Hải Phòng), Kim Thành (Hải Dương), Bắc Ninh, Quảng Trạch (Quảng Bình), Hiệp Đức (Quảng Nam), Bình Định, Cần Thơ,v.v.. dẫn đến tình trạng một gia đình, một dòng họ “cát cứ”, “thao túng”, “chi phối” công tác cán bộ nói riêng, quyền lực chính trị, kinh tế của địa phương nói chung, gây bức xúc trong nhân dân. Có thể nói, “chạy chức, chạy quyền” là "điển hình phản cảm" của việc vi phạm các chuẩn mực đạo đức của người cách mạng, đe dọa trật tự kỷ cương, luật pháp, để lại những hệ lụy tiêu cực về kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề; làm băng hoại cả nền tảng đạo đức xã hội. Việc “sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi”[3] trong công tác cán bộ là những biểu hiện cụ thể, phản ánh sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của những người “chạy” và cả người được “chạy”. Một mặt, “chạy chức, chạy quyền" là sự tha hóa quyền lực, tạo ra lỗ hổng, khiếm khuyết trong công tác cán bộ, gây mất đoàn kết nội bộ, làm triệt tiêu động lực phấn đấu của những người chính trực, gây tâm tư trong công tác tư tưởng, công tác cán bộ; mặt khác, tạo “hiệu ứng cần chạy, phải chạy” trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương để được lên chức ở Trung ương và địa phương. Soi rọi theo 23 điều Hồ Chí Minh yêu cầu về “Tư cách người cách mệnh” (tác phẩm Đường Cách mệnh, năm 1927), có thể thấy, những người tham gia “chạy chức, chạy quyền” và những người giúp cho việc vận hành “chạy chức, chạy quyền” được hanh thông chính là những người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cả tư tưởng và hành động. Đó là những người đã không rèn luyện đạo đức cách mạng theo đúng những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, không làm trọn lời thề đảng viên, không phụng Tổ quốc và nhân dân như khi tuyên thệ. Cụ thể: 1) Họ đã không “tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Chịu khó. Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật"[4]. Bởi vì “chạy”, cho nên họ không phải trải qua quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng, không phải bền gan phấn đấu, tu dưỡng mà đã được sớm cất nhắc, bổ nhiệm. Bởi vì sớm có được chức vụ/quyền hạn dễ dàng nên họ đã "dương dương tự đắc", tự cao, tự đại, tự mãn với những gì mình đang có, để rồi sa vào cá nhân chủ nghĩa, tiếp tục tạo điều kiện, tiếp tay cho những kẻ “như mình, giống mình” chạy tiếp vào các vị trí khác. 2) Họ đã không “đối người phải: “Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người”[5], vì, chức vụ/quyền hạn hiện có là do được nâng đỡ, cất nhắc bởi “chạy”, nên phần thì họ không đủ năng lực, trình độ đảm đương công việc; phần thì do “mặc chiếc áo quá rộng”, có chức, có quyền quá dễ dàng nên không thể nghiêm cẩn trong công việc, càng không thể “có lòng bày vẽ cho người”. Vì năng lực có hạn, lại lộng quyền, lạm quyền nên trong thực thi công vụ thì quan liêu, tham ô, tham nhũng, vòi vĩnh, gây bức xúc trong xã hội và trong quan hệ ứng xử với đồng nghiệp thì “nịnh trên, nạt dưới”, làm mất lòng tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, vào công tác cán bộ. 3) Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và cả tổ chức thực hiện, những kẻ do “chạy” được chức, quyền cũng không có tinh thần và phương pháp “làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”[6]. Đó là những người không chỉ coi thường tổ chức, Điều lệ Đảng, pháp luật, công khai vi phạm các nguyên tắc tổ chức, làm suy yếu tổ chức đảng, mất uy tín của tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ mà còn trở thành nhân tố gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, dẫn đến thao túng bộ máy lãnh đạo, thao túng công tác cán bộ. Với họ, những kẻ cơ hội, chăm lo đầu tư quan hệ để lấy lòng cấp trên, a dua theo bất cứ điều gì cấp trên nói, làm theo chỉ đạo của cấp trên... thì sẽ được cất nhắc, bổ nhiệm; còn những người có năng lực và đạo đức, nhưng liêm chính, không chịu cúi luồn, không cùng phe cánh “sẽ trượt từ vòng quy hoạch”. Điều 10. Hành vi chạy chức, chạy quyền 1. Tiếp cận, thiết lập quan hệ, hối lộ, mua chuộc người có trách nhiệm, chức vụ, quyền hạn hoặc người có liên quan nhằm mục đích có được vị trí, chức vụ, quyền lợi. 2. Tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, nhất là các dịp lễ tết, sinh nhật và các cơ hội khác, sử dụng danh nghĩa tình cảm cá nhân hoặc danh nghĩa tổ chức, cơ quan, đơn vị, cá nhân khác để tặng quà, tiền, bất động sản, sắp xếp các hoạt động vui chơi, giải trí cho cán bộ lãnh đạo, người có thẩm quyền hoặc người có liên quan nhằm mục đích được sự ủng hộ, tín nhiệm, được vị trí, chức vụ, quyền lợi. 3. Lợi dụng các mối quan hệ thân quen hoặc sử dụng lợi thế, vị trí công tác, uy tín của người khác để tác động, tranh thủ, gây sức ép với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, bổ nhiệm mình hoặc người khác, "cánh hẩu" vào vị trí, chức vụ theo ý đồ cá nhân hoặc một nhóm người. 4. Lợi dụng việc nắm được thông tin nội bộ hoặc thông tin bất lợi của tổ chức, cá nhân để đặt điều kiện, gây sức ép đối với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, đề cử, bổ nhiệm mình. 5. Dùng lý lịch, xuất thân gia đình, thành tích công tác của bản thân để mặc cả, cài đặt điều kiện, đòi hỏi vô lý đối với tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm nhằm có được vị trí, chức vụ, quyền lợi. 6. Sử dụng các hành vi tiêu cực khác nhằm có được vị trí, chức vụ, quyền lợi. Điều 11. Hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền 1. Biết nhân sự có hành vi chạy chức, chạy quyền nhưng che giấu, thỏa hiệp, không xử lý theo thẩm quyền hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý. 2. Không xử lý theo thẩm quyền quy định hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý khi nhận được đơn, thư phản ánh, tố cáo nhân sự có hành vi chạy chức, chạy quyền. 3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng uy tín, ảnh hưởng của bản thân và gia đình gợi ý, tác động, gây áp lực để người khác quyết định hoặc tham mưu, đề xuất, nhận xét, đánh giá, biểu quyết, bỏ phiếu giới thiệu nhân sự theo ý mình. 4. Xác nhận, chứng thực, nhận xét, đánh giá không đúng sự thật hoặc làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ nhân sự, kết quả bầu cử, lấy phiếu giới thiệu, phiếu tín nhiệm, thi tuyển nhằm có lợi cho nhân sự hoặc để đạt mục đích cá nhân. 5. Trì hoãn, không thực hiện khi thấy bất lợi hoặc chọn thời điểm có lợi đối với nhân sự theo ý mình để thực hiện quy trình công tác cán bộ. 6. Trực tiếp hoặc gián tiếp nhận hối lộ nhằm giúp cho người khác có được vị trí, chức vụ, quyền lợi không chính đáng. 7. Trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ, môi giới cho nhân sự thực hiện các hành vi chạy chức, chạy quyền nêu tại Điều 10 Quy định này. 8. Các hành vi khác nhằm bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. (Quy định số 205-QÐ/TW ngày 23/9/2019 “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”) Tệ nạn này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo rất sớm, trong một số bài viết ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và sau này. Tuy nhiên, ung nhọt này dường như chưa có “kháng sinh” đặc trị. Cùng với thời gian Đảng cầm quyền, vấn nạn này ngày càng “lở loét”, “lan nhanh” dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “là con đẻ” của “chạy chức, chạy quyền” đã mặc nhiên coi “chạy” là con đường tiến thân hiệu quả nhất, để rồi “lan vòi bạch tuộc” của mình, tiếp tục dung dưỡng, bảo kê cho những người có “nhu cầu chạy” đến được với những người “cần phải chạy”, để tạo thành đường dây, phong trào “chạy chức, chạy quyền”. Sự “chạy” này vừa vô tình, vừa hữu ý đã làm cho bệnh cậy quyền, ỷ thế, độc đoán, chuyên quyền, tham lam, địa phương chủ nghĩa, tư túng, kéo bè kéo cánh, nể nang, óc hẹp hòi… trong đội ngũ cán bộ chủ chốt không bị ngăn chặn, kiểm soát kịp thời; làm cho công tác cán bộ trở nên bị động, bị vô hiệu hóa, hình thức; làm cho trong nội bộ thì "im ắng", bên ngoài thì "thậm thà thậm thụt"... Hệ quả của nó là, nạn “chạy chức, chạy quyền” diễn ra trong tất cả các khâu của công tác cán bộ: chạy tuổi, chạy vào quy hoạch, chạy để được bổ nhiệm, chạy để được luân chuyển, v.v.., tạo thành một “làn sóng” khi trầm khi bổng, nhưng rõ nét nhất, sôi động nhất là trước mỗi kỳ đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. “Chạy chức, chạy quyền” không chỉ tạo ra một tiền lệ xấu trong công tác cán bộ, làm cho những người làm việc nghiêm túc, nỗ lực trau dồi về mọi mặt và thành tâm phấn đấu cũng dần tự ti vào năng lực bản thân, rồi “nhìn gương” đó để phát sinh tính láu cá, cơ hội, đầu cơ chính trị... mà còn làm mất uy tín của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng cầm quyền và chế độ. Ung nhọt và căn bệnh trầm kha này đã được Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”[7], được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trăn trở, nhấn mạnh tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018 của ngành tổ chức xây dựng Đảng ngày 19/1/2018: “Chạy chức, chạy quyền, tệ tham nhũng đã chi phối tới nhiều khâu trong công tác cán bộ, từ lựa chọn đối tượng đưa đi đào tạo, bồi dưỡng, đến quy hoạch, luân chuyển, đánh giá, bổ nhiệm, nên mới “có hiện tượng đề bạt, cất nhắc nhiều người nhà, người thân quen mặc dù không đủ tiêu chuẩn? Vì sao cứ nói bổ nhiệm đúng quy trình nhưng kết quả thực tế bố trí cán bộ lại là sai?”.

KIÊN QUYẾT CHỐNG “CHẠY CHỨC, CHẠY QUYỀN”

Để phòng và chống “chạy chức, chạy quyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải chú trọng, thường xuyên, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát trong mọi mặt công tác, để ngăn ngừa, phòng và chống các biểu hiện, các căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức vụ/quyền hạn được giao để mưu cầu lợi ích cá nhân... Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh: Trong công tác cán bộ, cả người làm công tác cán bộ và việc lựa chọn cán bộ để bổ nhiệm cũng cần “phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”[9]. Đó phải là những người thường xuyên, “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết lợi ích của cá nhân mình, dòng họ mình, địa phương mình… Trong thực tế, việc “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”[10] theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã được triển khai thực hiện. Đi liền cùng đó, “các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”[11]. Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, 7 khóa XII, thì việc “xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm”[12] cho thấy vấn đề chống “chạy chức, chạy quyền” đã được chú trọng thực hiện tương đối đồng bộ và toàn diện. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa như mong đợi. "Chạy chức, chạy quyền" vẫn âm ỉ ở nhiều nơi và hệ lụy của nó là “bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên lên chức do “chạy” đã không đáp ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ được giao phó. Tự coi mình là những “ông vua con”, “cha mẹ dân”, những con sâu mọt đó đã luôn "nịnh trên, nạt dưới", không chỉ coi thường tổ chức, kỷ luật, pháp luật mà còn luôn lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền để cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu cấp dưới, vòi vĩnh của dân... Sự hư hỏng bởi ham hư danh, mong muốn được “vinh thân phì gia” của những kẻ “chạy” và sự tha hóa bởi những đặc quyền, đặc lợi của những cán bộ, đảng viên suy thoái “được nhờ chạy” cho thấy việc phải tìm ra vắc xin đặc hiệu để phòng và chữa “chủng bệnh” này là yêu cầu có tính cấp bách và thường xuyên. Để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ, trong một số nghị quyết chuyên đề, Đảng cũng đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện các quy định, quy chế; đồng thời, cương quyết đấu tranh, xử lý kịp thời, nghiêm minh những sai phạm, không có “vùng cấm””[13]. Cụ thể, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã khẳng định quyết tâm: 1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; 2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên; 3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; 4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả… nhằm khắc phục hữu hiệu, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng "chạy chức, chạy quyền" và những tiêu cực trong công tác cán bộ.

LIỀU VẮC XIN ĐỦ MẠNH ĐỂ PHÒNG VÀ CHỐNG "CHẠY CHỨC, CHẠY QUYỀN"

Tiếp đó, để đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chống các biểu hiện tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi; lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về "Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương" và chuẩn bị và tổ chức thật tốt Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng theo tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 205-QÐ/TW ngày 23/9/2019 “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” (Quy định 205)[14], khẳng định quyết tâm cao độ của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Quy định 205 gồm 15 điều; trong đó: 1) Quy định chung gồm (điều 1 và điều 2); 2) Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ gồm (điều 3 đến điều 9); 3) Chống chạy chức, chạy quyền gồm (điều 10 đến điều 13); 4) Điều khoản thi hành gồm (điều 14 và điều 15). Nội dung 15 điều của Quy định 205 một lần nữa cho thấy công tác cán bộ đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng gắn với trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, khẳng định chủ trương của Đảng về kiểm soát để phòng và chống sự tha hóa quyền lực là: Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế và mọi quyền hạn đều phải được ràng buộc bằng trách nhiệm. Cụ thể, theo Quy định 205: “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”. Trong đó, việc đầu tiên là phải loại trừ nạn “chạy chức, chạy quyền” của những kẻ cơ hội - một ung nhọt đang được cả xã hội quan tâm và loại trừ sự cấu kết của những kẻ cơ hội đang nắm quyền lực chính trị để lũng đoạn, trục lợi - một di chứng của công tác cán bộ đang gây bức xúc trong nhân dân, nhằm không để lọt vào cấp ủy khoá mới những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm. Quy định nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành chức năng ở Trung ương và địa phương; của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo của địa phương, cơ quan, đơn vị trong tổ chức quán triệt và cụ thể hoá theo thẩm quyền để thực hiện nghiêm Quy định này; đồng thời, yêu cầu Ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy định; xử lý kỷ luật theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật những tập thể, cá nhân vi phạm; thường xuyên kiểm tra, giám sát và hằng năm báo cáo cấp trên trực tiếp kết quả thực hiện Quy định 205. Theo đó, cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ và đột xuất; cấp trên tăng cường kiểm tra cấp dưới, cấp dưới giám sát cấp trên, thực hiện giám sát dọc, giám sát ngang gắn liền với việc thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự trong từng tổ chức Đảng,v.v.. Tạo mọi điều kiện và phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ và công tác cán bộ trên tinh thần “cán bộ, đảng viên có trách nhiệm phát hiện và lắng nghe ý kiến của nhân dân để phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền về hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền”… Có thể nói, việc thực thi giải pháp “kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền”, chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng... trong công tác cán bộ theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 và Quy định 205 ngày 23/9/2019 sẽ là bước đột phá sâu sắc, là liều vắc xin đặc trị trong công tác cán bộ nói chung, phòng và chống “chạy chức, chạy quyền” nói riêng, thiết thực xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh./.

Cảnh giác với chiêu bài núp bóng “xã hội dân sự”

Vài năm gần đây, cái gọi là “xã hội dân sự” được nhiều cá nhân bất mãn chính trị và các thế lực thù địch thường xuyên đề cập trên một số diễn đàn mạng xã hội. Đằng sau việc hô hào phát triển "xã hội dân sự" theo mô hình phương Tây, các thế lực thù địch âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống phá sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta. Khái niệm “xã hội dân sự” hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng đại ý chung “là không gian xã hội công cộng nằm ngoài nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các định chế xã hội độc lập tương đối với Nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội” (theo Tạp chí Cộng sản)… Về bản chất, “xã hội dân sự” có một số điểm tích cực. Đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý vì mục tiêu khẳng định quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước… Song, do thiếu định nghĩa chuẩn mực cũng như góc nhìn về “xã hội dân sự” khác nhau nên khái niệm này thường bị giải thích một cách chủ quan bởi ý chí của người sử dụng. Trong khi đó, thực tiễn biến động chính trị ở Ukraine, Trung Đông, Bắc Phi gần đây qua các cuộc “cách mạng màu”, “mùa xuân Arab” đã cho thấy, các thế lực bên ngoài bất chấp pháp lý và đạo lý của các quốc gia, đặc biệt chú trọng thúc đẩy, hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” nhằm từng bước tạo ra tổ chức đối lập, hình thành xã hội đa nguyên, đa đảng; áp đặt các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa theo kiểu của họ và coi đó là phương thức hoạt động chủ yếu nhằm chuyển hóa chế độ xã hội ở các quốc gia được cho là không cùng ý thức hệ. Đối với nước ta, trong 10 năm trở lại đây, lợi dụng việc đề cao các quyền lập hội, quyền công dân, quyền tự do tôn giáo và quyền tự do báo chí, các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với các phần tử thoái hóa, biến chất, bất mãn chính trị bên trong đã thổi phồng và lợi dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để chống phá quyết liệt. Chúng tìm cách lôi kéo quần chúng vào các nhóm, hội, diễn đàn tự phát với nội dung: Đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng; bảo vệ môi trường, dân chủ, nhân quyền… để tập hợp lực lượng qua các mạng xã hội, như: Diễn đàn xã hội dân sự, Hội Anh em dân chủ, Văn đoàn độc lập, Hội Nhà báo độc lập, Hội Phụ nữ nhân quyền… Ngoài ra, thông qua dự án tài trợ, tổ chức hội thảo, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ..., không ít tổ chức phi chính phủ (NGO) ngoài nước đã tìm cách tiếp xúc, móc nối, mua chuộc số cán bộ, đảng viên thoái hóa để tuyên truyền, kích động tâm lý bất mãn, lôi kéo họ thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước. Chúng khai thác, lợi dụng internet để phát tán thông tin thất thiệt, bịa đặt, bôi nhọ Đảng, chính quyền và các đồng chí lãnh đạo; tung hô những chức sắc tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ bất mãn, cơ hội chính trị; kích động tư tưởng vô chính phủ, tuyên truyền các giá trị ưu việt của văn hóa phương Tây... Mục đích cuối cùng là làm “đổi màu” các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, từ đó phê phán công cuộc đổi mới, tiến tới đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã xác định hành vi phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi phát triển "xã hội dân sự"… là một trong những hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhanh nhất. Nếu cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân không hiểu rõ bản chất, nắm vững vấn đề thì rất dễ “nhiễm độc”. Như đã đề cập, quyền tự do lập hội, quyền công dân, quyền tự do tôn giáo và quyền tự do báo chí được Đảng, Nhà nước ta đề cao thời gian qua, phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế. Bằng chứng là hiện có gần 400 hội đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc; trên 600 tổ chức nghiệp đoàn đang hoạt động tại các địa phương và khoảng hơn 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 400 tổ chức có các chương trình, dự án triển khai tại nước ta. Riêng tôn giáo (một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước ta), quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân thời gian qua cũng hết sức được coi trọng. Cụ thể là đến cuối năm 2018, nước ta đã có 16 tôn giáo và 43 tổ chức pháp môn tu hành được công nhận. Từ năm 2001 đến 2017, tỷ lệ tín đồ tôn giáo đã được công nhận tăng lên 6% dân số… Trước tình hình trên, việc đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng “xã hội dân sự” chống phá Việt Nam là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Trong đó, vấn đề đầu tiên là phải phân biệt, đánh giá đúng vai trò, vị trí của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp để tập trung lãnh đạo, định hướng tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước; cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, không để bị tác động, lôi kéo vào các hành vi làm tổn hại đến đất nước. Muốn vậy, bản thân các tổ chức này cũng cần phải tự thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, gắn bó mật thiết hơn với đời sống xã hội và thành viên của tổ chức mình. Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng cần được làm thường xuyên, liên tục là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức quần chúng. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần phát huy tốt hơn chức năng phản biện xã hội, giám sát, vận động nhân dân cùng tham gia giám sát, phản biện, góp ý kiến trong việc hoạch định cơ chế, chính sách nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở trong sạch, vững mạnh, tiếp tục phát huy tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Cùng với đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam; kiên quyết xử lý các tổ chức hội, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động vi phạm pháp luật; kịp thời ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức xã hội theo đúng định hướng phát triển đất nước. Đặc biệt, đối với các tổ chức hội, cá nhân có biểu hiện hoạt động phức tạp, có dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng tự do, dân chủ chống, phá Đảng, Nhà nước, nhân dân cần phải bị xử lý nghiêm khắc; cùng với đó là tăng cường đối thoại, tiếp xúc, cảm hóa chính trị đối với quần chúng, nhân dân bị các thế lực thù địch lôi kéo nhằm thực hiện ý đồ chống đối từ bên trong, tạo ổn định chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội để đất nước phát triển.

Cảnh giác với bệnh công thần và kiêu ngạo cộng sản

Bệnh công thần, kiêu ngạo cộng sản là những thói hư tật xấu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã từng được V.I Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ lâu. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu, tránh những căn bệnh ấy, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt cuộc đời, khi đương chức cũng như khi nghỉ hưu. Thế nhưng, vẫn có những người xao nhãng, để những căn bệnh ấy không chỉ làm méo mó hình ảnh, nhân cách, vinh quang của chính họ mà còn tạo ra dư luận xấu, ảnh hưởng đến niềm tin, tình cảm của nhân dân, đồng chí, đồng đội... Chúng ta hẳn có nhớ một sự việc gần đây, từng có cựu Ủy viên Trung ương Đảng tuổi đời còn trẻ, tương lai đang rộng mở thì “dính chàm”, bị cách hết mọi chức vụ. Nguyên nhân do nhiều sai phạm, trong đó một phần do thói độc đoán, chuyên quyền, kiêu ngạo, không biết lắng nghe, không tôn trọng cả cấp trên và cấp dưới. Lại có cán bộ cấp cao lúc nghỉ hưu vẫn không giữ được mình, có nhiều sai phạm ảnh hưởng đến thanh danh họ, như cựu quan chức mạt sát cảnh sát giao thông; cựu bộ trưởng đòi đặc quyền đặc lợi... Đáng buồn hơn, có cả cán bộ kinh qua rèn luyện, cống hiến, lập nhiều chiến công nhưng lúc nghỉ hưu lại thiếu tỉnh táo, nói và viết không đúng đường lối quan điểm của Đảng; tiếp xúc với nhiều đối tượng cơ hội chính trị, thậm chí cả đối tượng phản động, bị chúng lợi dụng, kích động, dẫn đến tán phát nhiều thông tin xấu, gây hoang mang, bức xúc trong dư luận. Trước góp ý chân thành của đồng chí đồng đội, những người này lại không tiếp thu, sửa chữa, cho rằng cách nghĩ, cách làm của họ mới là cấp tiến, là “trở về với nhân dân”. Họ còn tham gia các cuộc tọa đàm, trao đổi, tham gia xuất bản những ấn phẩm do một vài hội, nhóm tổ chức gây ra những tranh cãi, bất đồng chính kiến làm bức xúc dư luận. Rồi còn tham gia ký các đơn, tâm thư, thỉnh nguyện tập thể có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, không có lợi cho đất nước, quân đội nhưng họ lại được kẻ xấu tung hô, ngợi ca nên ngày càng mù quáng... Ngay trong lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn hóa văn nghệ, nhiều năm qua, chúng ta không khỏi đau xót khi thấy có những nhà văn, nhà báo, nhà quản lý từng dạn dày kinh nghiệm, có tên tuổi nhưng khi nghỉ hưu đã đánh mất chính mình, đăng đàn nói, viết những điều sai trái, đi ngược với lý tưởng cả một đời theo đuổi. Có người còn tham gia thường xuyên viết bài, cộng tác cả cho những trang mạng phản động, có người bị kích động và bị lợi dụng để rồi xuất hiện trong những clip với nhiều nội dung sai sự thật, có cả thông tin xấu độc gây hoang mang dư luận. Có người để lại lời nói, việc làm thiếu trách nhiệm, tùy tiện đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, uy tín lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội... Cuộc sống luôn cần sự phản biện đa chiều nhưng nếu sự chỉ trích đi kèm bệnh kiêu ngạo cộng sản và công thần thì hậu quả vô cùng nguy hiểm. Năm 1921, V.I Lênin đã vạch ra một trong 3 thứ kẻ thù chính - kẻ thù “nội xâm” mà những người cộng sản Nga phải kiên quyết đấu tranh tiêu diệt, kẻ thù đầu tiên, chính là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến bệnh công thần: “Cậy mình có một ít thành tích, thì tự kiêu tự đại, cho mình là “cứu tinh” của dân, “công thần” của Đảng. Theo Người: “… Có những người cậy mình là “công thần cách mạng”, rồi đâm ra ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật, không thi hành nghị quyết của Đảng...”. Người cũng chỉ ra nhiều thứ “bệnh” của cán bộ, trong đó có bệnh kiêu ngạo với những biểu hiện: “Tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người ta khen ngợi, tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo... Việc gì cũng muốn làm thày người khác”. Cùng với đó là bệnh hiếu danh, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Rồi bệnh óc lãnh tụ: “Đánh được vài trận, hoặc làm được vài việc gì ở địa phương đã cho mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm rồi, đáng làm lãnh tụ rồi. Nào có biết so với công cuộc giải phóng cả dân tộc thì những thành công đó chỉ là một chút cỏn con, đã thấm vào đâu!”. Soi rọi những lời căn dặn trên vào các biểu hiện mắc bệnh của một số cán bộ mà chúng tôi nêu ở phần đầu bài viết, có thể thấy rất rõ những điều các bậc tiền bối cách mạng căn dặn dường như đã nói đúng, nói trúng tim đen của ai đó xa rời đạo đức, danh dự người cộng sản chân chính. Người cộng sản cần có dũng khí để đấu tranh với những điều sai trái, những thói hư tật xấu trong xã hội nhưng phê bình phải trên tinh thần xây dựng, phải có cái tâm. Cuộc sống xấu đi bởi sự im lặng nhưng cuộc sống cũng xấu đi và tồi tệ hơn bởi những tiếng nói sai sự thật, phán xét hồ đồ, tùy tiện, vô trách nhiệm, giật gân, đao to búa lớn để nâng mình lên bằng cách bôi nhọ người khác, gắp lửa bỏ tay người. Đó là thói phê bình nói lấy được của kẻ không biết mình là ai, thậm chí “Chân mình thì lấm mê mê/Lại đi cầm đuốc mà rê chân người” như cha ông ta đã dạy. Đó là thói phê bình vơi tình cạn nghĩa, không thể chấp nhận đối với những người từng chung đội ngũ, từng thuộc lời thề thứ 7 về tình đồng đội. Đã là người cộng sản, là đồng chí, đồng đội, thì khi góp ý, phê bình phải với tinh thần người cộng sản, đồng chí, đồng đội chứ không thể bịa đặt thông tin, đổi trắng thay đen, gây hoang mang, suy giảm niềm tin của nhân dân. Càng không thể phê phán khi chính mình chưa đủ tâm, đủ tầm, đủ thông tin và nhận thức về những lĩnh vực mình còn nông cạn, chưa trải nghiệm. Không thể chấp nhận những kiểu phê bình tùy tiện như biến người từng trải nghiệm, kinh qua chiến đấu, được đào tạo bài bản, có trình độ, năng lực chỉ huy quân sự cao thành người “không hiểu quân sự, không qua chiến tranh”. Không thể phê bình kiểu thầy bói xem voi phủ nhận cả thành tích, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bằng ý kiến chủ quan, lệch lạc. Đây cũng là vấn đề mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề cập, chỉ rõ để mỗi cán bộ, đảng viên không sai phạm. Nghị quyết chỉ rõ, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống có việc nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu... Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước, quân đội; Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội. Nghị quyết cũng không cho phép “kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước...”. Vậy thì rõ ràng, một vài hiện tượng cán bộ nghỉ hưu gần đây giao lưu, cấu kết với các thế lực phản động hoặc bị chúng lợi dụng để xuyên tạc, chống phá, tán phát thông tin sai sự thật trên mạng xã hội là điều không thể chấp nhận, chính là việc vi phạm Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng. Nhìn ở góc độ pháp lý, những hành vi xuyên tạc, vu khống người khác thông qua cái gọi là phê bình, đấu tranh, bày tỏ chính kiến với nhiều trường hợp đã vi phạm Điều 155, Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015, người vu khống, nói xấu, bôi nhọ danh dự, tuy tín của người khác còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về một trong các tội: Tội làm nhục người khác hoặc tội vu khống... Những hành vi vi phạm cả về pháp lý và đạo lý như vậy cần phải được đấu tranh, phê phán, lên án, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh. Tổ chức đảng, đoàn thể nơi quản lý những cán bộ đó phải tăng cường giáo dục, rèn luyện họ chấp hành đúng kỷ luật và các quy định của Đảng, đề cao lương tâm, trách nhiệm, danh dự của người đảng viên chân chính. Đối với các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan quản lý Nhà nước, phải có thái độ và biện pháp xử lý nghiêm minh, công bằng, không để nương nhẹ, hóa mù ra mưa với những trường hợp công thần, kiêu ngạo cộng sản dẫn đến những lời nói, việc làm sai phạm. Chúng ta từng có bài học kinh nghiệm sâu sắc về một số trường hợp tướng lĩnh quân đội, công an từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân nhưng vi phạm kỷ luật, pháp luật vẫn bị xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm. Bác Hồ từng căn dặn: “Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta đây là anh hùng, là lãnh tụ”. Nhưng nhân dân và tổ chức cũng luôn rộng mở với những người biết khắc phục sửa sai. Thực tế đã có cán bộ tướng lĩnh có biểu hiện kiêu ngạo, được Bác Hồ nhắc nhở, rèn luyện sau trở thành vị tướng tài năng, đức độ, đảm nhiệm các chức vụ cao cấp của quân đội, sau đó ông tiếp tục sống cuộc sống khiêm nhường, cống hiến theo đạo đức cách mạng cho đến lúc nghỉ hưu, qua đời. Theo Người, để phòng trị bệnh kiêu ngạo, công thần, mỗi cán bộ, đảng viên phải: Rèn luyện đức khiêm tốn; thật thà tự phê bình và tiếp thu ý kiến phê bình của người khác; kịp thời phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm... Với cán bộ cao cấp, càng đòi hỏi khi đương chức cũng như nghỉ hưu phải có sự tỉnh táo, cẩn trọng khi nói và làm, nhất là phát ngôn trên truyền thông và mạng xã hội, đặt lợi ích của đất nước, của cộng đồng lên trên; giữ gìn bản lĩnh, danh dự và uy tín người quân nhân cách mạng. Sinh thời, Bác Hồ từng gửi cho Thiếu tướng Nguyễn Sơn 12 chữ: “Đảm dục đại” (Gan phải to); “Tâm dục lễ” (tấm lòng, tâm hồn phải trong sáng); “Trí dục viên” (Suy nghĩ trọn vẹn, toàn diện, chu đáo); “Hạnh dục phương” (Hành động đúng đắn, ngay thẳng, phân minh, đàng hoàng). Sau này, nói chuyện với các tướng lĩnh, Bác nói đến 6 đức tính cần phải có, gồm: Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung nhưng phẩm chất đầu tiên phải có là Trí. Người chỉ rõ Trí là phải có đầu óc sáng suốt, nhìn mọi việc để suy xét, rồi quyết định cho đúng. Suy nghĩ thấu suốt, nhìn xa trông rộng, phát ngôn rạch ròi, có thể định hướng dư luận, thế mới xứng tầm của những người từng ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy. Để tán phát những thông tin xấu, tiếp tay cho những căn bệnh kiêu ngạo, công thần, những điều sai trái có “cánh tay vô hình” của kênh truyền thông mạng xã hội và thủ đoạn lôi kéo của các đối tượng xấu, cơ hội chính trị thường lợi dụng những cán bộ nghỉ hưu, có tinh thần đấu tranh cao nhưng trong nhiều trường hợp lại thiếu thông tin; không sử dụng hoặc ít cập nhật mạng xã hội, internet... Vì thế, cũng cần có biện pháp thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin, ngăn ngừa các đối tượng xấu lôi kéo, lợi dụng. Các cơ quan chức năng cần có biện pháp tăng cường quản lý hiệu quả mạng xã hội, để các nhà cung cấp của Google, Facebook, YouTube... chấp hành nghiêm quy định của pháp luật Việt Nam; buộc họ chủ động và có biện pháp ngăn chặn, xử lý những thông tin chưa được kiểm chứng, tránh lăng mạ, xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, cá nhân, chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội.../.

"Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở vào giai đoạn cam go, quyết liệt nhất, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Dân vận, đăng trên báo Sự thật, số ra ngày 15/10/1949. Ngắn gọn và súc tích, tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa cô đọng tư tưởng của Người về công tác dân vận, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thấm nhuần lời dặn của V.I.Lênin: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”[1] và nhận thức sâu sắc rằng “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[2], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về vận động quần chúng kiểu mới để tiến hành công tác dân vận. Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá trị căn cốt về dân vận; trong đó, Người khẳng định bản chất của “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[3]. Thấm nhuần lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, muốn tuyên truyền, vận động và phát huy nguồn sức mạnh nội lực của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và cả hệ thống chính trị phải gắn bó mật thiết với nhân dân; phải tốt công tác dân vận, bởi “trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước”[4]. Hơn nữa, “chúng ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều”, cho nên, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[5]. Cũng theo lời Người, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dù đúng đắn, nhưng nếu không được sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân thì rất khó đi vào hiện thực cuộc sống; nhưng muốn được nhân dân ủng hộ thì phải thực hiện tốt công tác dân vận, “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Nghĩa là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gần dân, hết lòng yêu dân, kính dân, hiểu dân, phải: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[6]; cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân, vì “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”[7]. Muốn đạt được như vậy, mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm dân vận, đều phải biết: 1) “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[8], để đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân. 2) Phải khắc phục kiểu suy nghĩ và làm việc từ “trên dội xuống”, chỉ thích lãnh đạo, “thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác”[9]; “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”[10] - “cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn”[11]. 3) Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, với bất cứ việc to, việc nhỏ, thì “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”[12]. Cụ thể, để dân vận đúng và hiệu quả, mỗi người khi tiến hành dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị”[13] mà phải chú trọng thực hiện sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, các đoàn thể chính trị với công tác tuyên truyền vận động quần chúng trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu, lợi ích, quyền lợi của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên tinh thần đó, người làm dân vận phải: Một là, “tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”. Hai là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Ba là, “trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”. Bốn là, “khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.

CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CÙNG LÀM DÂN VẬN

Một trong những nội dung quan trọng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Dân vận không phải là việc riêng của một hai người, một hai ban, ngành, không chỉ là công tác của các đoàn thể vận động quần chúng mà phải là của cả hệ thống chính trị, là “tất cả cán bộ chính quyền. Tất cả cán bộ đoàn thể. Tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ trách dân vận”[14]. Cụ thể, theo Người, cán bộ chính quyền và các Đoàn thể địa phương là những người trước tiên phải làm/phụ trách dân vận, phải phối hợp chặt chẽ, “cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức phân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn…”[15]; “các cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân”; “hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”. Bởi, cán bộ chính quyền là một thành tố hệ thống chính trị, nếu trong quá trình thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình mà làm công tác dân vận không tốt, nhất là sa vào quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà cho dân, thì công tác dân vận cũng vẫn không mang lại hiệu quả thiết thực. Để làm dân vận đúng và tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”[16]. Đó phải là những người luôn tự mình làm gương thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng” và “phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy”[17],v.v.. để nhân dân noi theo, vì quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức, những người luôn lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Hơn nữa, vì “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, cho nên, “muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói”, rồi “phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành”[18]... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải chú trọng thực hiện lời Người dặn và nhất thiết phải khắc phục “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”[19]. Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận chính là: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[20]. Điều đó có nghĩa là, dân vận tốt sẽ góp phần vào thành công của cách mạng, còn dân vận kém sẽ gây chia rẽ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm tổn hại phong trào cách mạng, đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, tấm gương làm dân vận mẫu mực của Người - của “một vị lãnh tụ thực sự liên hệ sâu sắc với quần chúng, mà nói như vậy cũng không đủ, phải nói là một vị lãnh tụ kiệt xuất đã hoà sâu trong nhân dân Việt Nam, thực sự trở thành một thể thống nhất với nhân dân Việt Nam”[21], luôn hết lòng yêu thương nhân dân, vì nhân dân phục vụ đã được Đảng ta thấm nhuần và thực hiện. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, đã có nhiều nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về tăng cường công tác dân vận được ban hành. Theo đó, cấp ủy, các cấp chính quyền, đoàn thể một mặt đã chú trọng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy, tôn trọng; mặt khác, tăng cường công tác vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động về xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc... góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội. Phong trào “Dân vận khéo” và việc xây dựng mô hình “Dân vận khéo” cụ thể, thiết thực, phù hợp điều kiện thực tế ở các địa phương đã góp phần từng bước tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, bức xúc trong nhân dân. Việc chỉ đạo đăng ký các mô hình “Dân vận khéo” gắn với đấu tranh phòng, chống lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng và thực hành tiết kiệm góp phần thiết thực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Thông qua đó, phát huy cao độ tinh thần tự quản và ý thức cộng đồng của nhân dân trong xây dựng khu dân cư văn hóa, văn minh đô thị, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

TIẾP TỤC THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG “DÂN VẬN KHÉO” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Tuy nhiên, thực tế triển khai công tác dân vận cũng còn những hạn chế, cần phải khắc phục, đó là, việc thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức, chưa trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Cụ thể, một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân vẫn chưa được giải quyết kịp thời; đặc biệt, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, tệ nạn nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân, nhất là “tham nhũng vặt” vẫn còn không ít ở địa bàn cơ sở đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác dân vận; ở một số địa bàn cơ sở, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội giảm sút vai trò lãnh đạo, thiếu sự phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… Thực trạng này đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI ngày 3/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương mẫu mực của Người về dân vận, nhất là để “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân… Phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22], trong thời gian tới, các cấp ủy và cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau: Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò, mục đích, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong tình hình mới. Cụ thể, gắn thực hiện công tác dân vận với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Thứ hai, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đa dạng các phương pháp, hình thức dân vận phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương, mỗi địa bàn cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời, thông qua các hình thức, biện pháp sinh động, phong phú tuyền truyền, giáo dục để nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, hiểu biết pháp luật cho nhân dân, để nhân dân thực hiện tốt vai trò “là chủ”, “làm chủ” của mình. Gắn thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Thứ ba, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác dân vận, để các tầng lớp nhân dân đều có thể thông qua diễn đàn Mặt trận bày tỏ chính kiến của mình. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động và kịp thời nắm bắt nhanh tình hình, tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của người dân để tham mưu Đảng, Chính phủ điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Thông qua đó, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhân dân, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhân nguồn sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ tư, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; trong đó, chú trọng nâng cao trình độ và tinh thần, trách nhiệm của người làm dân vận trên tinh thần “không để sót một người dân nào” và “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Đồng thời, quan tâm tạo điều kiện về vật chất, tinh thần và cơ chế để các tổ chức và người làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; xây dựng phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, nâng cao trách nhiệm với dân và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mô hình, điển hình đã có và tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình mới. Chú trọng xác định nội dung trọng tâm phong trào thi đua “Dân vận khéo”, mô hình “Dân vận khéo” phù hợp với điều kiện từng địa bàn cơ sở, từng đối tượng gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, trọng tâm là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước./.

Ngăn chặn hiện tượng bè phái, lũng đoạn công tác cán bộ

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta rút ra kết luận: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên thời gian qua, ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương, hiện tượng “cánh hẩu”, kéo bè cánh lũng đoạn công tác cán bộ dẫn tới lũng đoạn các hoạt động khác đã xảy ra ở mức độ nghiêm trọng. Hiện tượng này cần được khắc phục, ngăn chặn kịp thời nhằm xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”. 1. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần lên án “bệnh” kéo bè, kéo cánh và gọi đây là căn bệnh “cánh hẩu” trong Đảng. Người đúc kết: Bè cánh được lôi kéo từ những người có họ hàng, là bà con, cháu, chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người cùng xóm, cùng quê; rồi “chén chú, chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng số đông, lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người tốt, có tài nhưng không cùng “cánh” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng… Tuy nhiên, thực trạng này vẫn tồn tại nhức nhối. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) ngày 30-10-2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã chỉ ra các hiện tượng: Cục bộ, bè phái; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích…; và coi đây là những biểu hiện cần kiên quyết ngăn chặn. Trên thực tế, ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị, thói cục bộ, bè phái dễ có cơ hội xuất hiện vào những thời điểm nhạy cảm, như: Quyết định về công tác nhân sự (lấy phiếu quy hoạch, lấy phiếu tín nhiệm…), bầu cử trong đại hội hay trong hội nghị biểu quyết đầu tư các dự án quan trọng. Khi những người nắm giữ trọng trách trong các cơ quan, đơn vị không vì lợi ích chung sẽ rất dễ để cho các “nhóm lợi ích” lèo lái, thậm chí tranh giành, “xâu xé” lẫn nhau khiến nội bộ mất đoàn kết. Đây là “mảnh đất màu mỡ” cho chủ nghĩa cá nhân phát triển, chủ nghĩa cơ hội lộng hành. Ngoài ra, tình trạng bè phái cũng không kích thích, khuyến khích được sự tận tâm cống hiến của những cá nhân có thực tài; tạo kẽ hở để những kẻ cơ hội tìm mọi thủ đoạn, kể cả việc "mua quan, bán chức" luồn lách vào hệ thống các cơ quan nhà nước. Thời gian qua, hiện tượng bổ nhiệm người nhà, người thân diễn ra ở nhiều địa phương, đơn vị. Điển hình như năm 2015, Bộ Giao thông - Vận tải đã vào cuộc xác minh mối quan hệ gia đình của 30 người đang làm việc tại Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam và các đơn vị thành viên với tổng giám đốc đơn vị này. Kết quả cho thấy, có 15/30 người có quan hệ gia đình với tổng giám đốc, trong đó 12 người giữ chức vụ quản lý và một người trong số này là phó tổng giám đốc... Năm 2016, Bộ Nội vụ đã chỉ ra 9 địa phương, đơn vị có hiện tượng “cả nhà làm quan”. Đáng chú ý là nhiều trường hợp bổ nhiệm người nhà, người thân không bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn, như ở các tỉnh: Quảng Nam, Gia Lai, Bình Định... Tuy nhiên, ở nhiệm kỳ Đại hội khóa XII, Đảng ta đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có việc xử lý nghiêm sai phạm của cán bộ cấp cao do liên quan đến bổ nhiệm người nhà, người thân không đúng quy định. Nổi bật trong số này là việc Ban Bí thư kỷ luật ông Lê Phước Thanh bằng hình thức cách chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam nhiệm kỳ 2010-2015 do bổ nhiệm “thần tốc” con trai là Lê Phước Hoài Bảo. Hoặc ông Vũ Huy Hoàng (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương) đã bị cấp có thẩm quyền xóa tư cách nguyên Bộ trưởng, Bí thư Ban Cán sự đảng Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2011-2016 vì nhiều sai phạm, trong đó có việc tiếp nhận, bổ nhiệm con trai là Vũ Quang Hải sai quy định… 2. Trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng như các tỉnh ủy, thành ủy đã đề ra nhiều giải pháp mới hướng tới khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, trong đó coi việc ngăn chặn tình trạng bè phái, lũng đoạn công tác cán bộ là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Có thể nói, chưa bao giờ một hệ thống kiểm soát, quy trình về công tác cán bộ lại đầy đủ, công khai, minh bạch như hiện nay. Rõ nhất là gần đây, việc Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Quy định số 205-QĐ/TƯ ngày 23-9-2019 “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” đã nhận được sự đồng tình rất cao của dư luận. Những nội dung rất cụ thể trong Quy định số 205-QĐ/TƯ cùng với nhiều văn bản được Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành trong 2 năm qua, như: Quy định 105-QĐ/TƯ ngày 19-12-2017 về “Phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm giới thiệu cán bộ ứng cử”; Quy định số 132-QĐ/TƯ ngày 8-3-2018 về “Việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị”…, sẽ góp phần hữu hiệu để phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn tình trạng bè phái, lũng đoạn công tác cán bộ. Điểm nổi bật trong các văn bản mới là quy rõ trách nhiệm cá nhân đến từng vấn đề, từng khâu trong quy trình của công tác cán bộ, tránh tình trạng “công cá nhân, tội tập thể”, “hòa cả làng” như trước đây… Như vậy, vấn đề mấu chốt là những tổ chức, cá nhân được giao trọng trách về công tác cán bộ cần phải thực hiện nghiêm hệ thống các văn bản đã có, không được “đi ngang”, “đi tắt”, phá bỏ quy trình và nếu vi phạm phải xử lý nghiêm. Đặc biệt, phải tiếp tục nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác tổ chức, tránh tình trạng né trách nhiệm hay lợi dụng thông tin để tư lợi. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác cán bộ. Cùng với đó là người đứng đầu, cá nhân thành viên cấp ủy, tổ chức Đảng, lãnh đạo tổ chức, cơ quan, đơn vị cần đề cao trách nhiệm cá nhân; coi việc thực hiện nhiệm vụ khách quan, công tâm là lương tâm, nhân phẩm, lòng tự trọng của người có thẩm quyền trong công tác cán bộ. Ngoài ra, cần nhân rộng việc thực hiện chế độ thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo khung năng lực vị trí việc làm, có đề án tranh cử rõ ràng và ràng buộc trách nhiệm, nhằm lựa chọn được người có phẩm chất và năng lực tham gia xây dựng cơ quan, đơn vị. Trước mắt, thực hiện Quy định số 205-QĐ/TƯ và các văn bản khác liên quan cần được triển khai đồng thời với Chỉ thị số 35-CT/TƯ ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, nhất là trong công tác chuẩn bị nhân sự bộ máy Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Trong đó, cần thực hiện tốt công tác luân chuyển, điều động, bố trí, sắp xếp cán bộ chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 gắn với việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương… Mục tiêu cụ thể là phải thực hiện cho bằng được chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong phiên bế mạc Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII: “Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những cán bộ vi phạm, thoái hóa, biến chất! Bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý nghiêm minh, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để lấy lại và củng cố niềm tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân dân”. Việc sớm ngăn chặn cho được tình trạng “cánh hẩu”, bè phái, lũng đoạn công tác cán bộ, tiến tới lũng đoạn cơ quan, đơn vị, địa phương cũng đồng nghĩa với việc góp phần đưa Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) vào cuộc sống.

Thêm 50 ca Covid-19

Bộ Y tế trưa 1/6 ghi nhận 50 ca dương tính trong nước, gồm tại Bắc Giang 32, Bắc Ninh 9, Lạng Sơn 8, Long An một. Như vậy tính trong buổi sáng nay, Bộ Y tế đã công bố tổng cộng 161 ca Covid-19. Tổng số ca nhiễm cộng đồng từ ngày 27/4 đến nay lên 4407, ghi nhận ở 36 tỉnh thành, gấp 5 lần so với tổng số ca nhiễm của đợt dịch hồi tháng 1-2 liên quan Hải Dương, Quảng Ninh. 50 ca mới được ghi nhận từ số 7433-7482, nâng tổng số ca nhiễm ở Bắc Giang 2329, Bắc Ninh 866, Lạng Sơn 73, Long An 6.