Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

ĐỪNG TƯỞNG!

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: "Người Mỹ thường hỏi tôi sao quan hệ Việt Nam - Cuba tốt đến như thế? Tôi trả lời: "Chúng tôi quan hệ máu thịt với Cuba. Ngoài tình cảm truyền thống giữa hai nước, Việt Nam còn muốn thế giới thấy chúng tôi không bao giờ bỏ bạn. Các ông có thể không thích, nhưng chắc các ông cũng mong có được những người bạn thủy chung như thế".

Bạn biết đấy, đừng tưởng lờ Cuba đi mà người Mỹ sẽ tốt với chúng ta. Đừng tưởng căng với Trung Quốc sẽ lấy được lòng người Mỹ. Cũng đừng tưởng đóng cửa với Mỹ thì Trung Quốc sẽ nhẹ giọng với mình".

Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và quân phục


Góc khuất của gia đình quân nhân

 Thời chiến tranh, nhiều bộ đội đã từng “nuôi con bằng kẹo, nuôi vợ bằng thư”. Đến thời bình, dù đời sống của nhân dân nói chung đã được cải thiện rõ rệt, nhưng nhiều gia đình quân nhân vẫn còn khó khăn. Đặc biệt, còn có những góc khuất ít người biết đến.

Vụ việc quân nhân tại Gia Lai tử vong được xác định là do đột quỵ.

Đồng chí Nguyễn Văn Thiên sinh ngày 10/10/1998; nhập ngũ: tháng 02/2020; cấp bậc: Binh nhất; chức vụ: Chiến sỹ; đơn vị: Trung đội Thông tin, Tiểu đoàn BB50, Trung đoàn BB991; quê quán: Xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; trú quán: Thôn 2, xã Nghĩa An, huyện KBang, tỉnh Gia Lai.

Diễn biến vụ việc như sau:

"VIỆT TÂN" LOAY HOAY HAY DÂN TỘC LOAY HOAY?

       Mấy ngày qua, nhân sự kiện Hoa hậu Việt Nam 2020 Đỗ Thị Hà tham dự cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2021 (Miss World 2021) tại Mỹ, tổ chức ph.ản động Việt Tân ra sức chỉ trích với kiểu "bới lông tìm vết" soi mói tấn công một cô gái từ tiết mục thi tài năng đến ăn mặc.

Có lẽ chúng ta không còn xa lạ gì với hoạt động của Việt Tân nữa. Trong suốt thời gian dài, mang danh là "canh tân đất nước" nhưng ngoài chỉ trích, xuyên tạc chống phá đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực đặc biệt là lợi dụng những lúc đất nước đứng trước những thách thức, khó khăn như thiên tai, dịch bệnh mức độ chống phá lại càng gia tăng. Ngoài những thứ đó ra Việt Tân đã làm được gì cho đất nước cho dân tộc Việt Nam?

Trở lại câu chuyện Việt Tân săm soi hoa hậu Đỗ Thị Hà ở trang phục, cho rằng dân tộc không có bản sắc loay hoay chắp vá? Vậy sự thật có đúng thế không?

Xin khẳng định rằng đây chỉ là trò đê tiện, bỉ ổi của Việt Tân mà thôi. Săm soi, chỉ trích đủ thứ đến cái váy của đàn bà cũng lôi ra bàn tán thì chúng ta đã quá rõ tầm và bản chất của Việt Tân như thế nào rồi?

Xin thưa dân tộc Việt Nam là một dân tộc vô cùng bản sắc, chiếc áo dài truyền thống đã được cả thế giới biết đến và luôn luôn được phụ nữ Việt Nam mặc trong các dịp lễ trang trọng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thế giới, sự sáng tạo để hội nhập là tất yếu. Đặc biệt là trong những cuộc thi lớn luôn đòi hỏi sự sáng tạo thì có gì phải bàn. Đúng là điên cuồng chống phá đến cả váy đàn bà cũng không qua nổi thì canh tân gì Việt Tân? Ai mới là người loay hoay đây./.


Yêu nước ST.

ÔNG CHA TA GIỮ NƯỚC: CÓ MỘT VỊ TƯỚNG NHƯ THẾ!

      Hồi ấy, đất nước đã thống nhất nhưng nghĩa vụ quân sự vẫn như những năm chiến tranh. Có người ở Trường Sa cả chục năm liền, thiếu thốn, gian khổ lắm chứ không như bây giờ. Ở đảo hầu như không có khái niệm thời gian, chỉ biết mặt trời mọc là thêm một ngày, mặt trời lặn là đã qua một ngày. Nhưng ngày ấy là ngày nào? Chịu!

Đảo hồi ấy đã được đất liền chăm chút chu đáo. Hầu như tiểu đội nào cũng có lịch, mỗi người lính còn có thêm một cuốn lịch con trong túi nhưng chỉ quên xé hay đánh dấu là chịu rồi. Mở đài, thi thoảng bắt được làn sóng chập chờn, gặp buổi tường thuật bóng đá thì biết chắc là chiều chủ nhật. Nhưng một tháng có đến 4 chủ nhật, vậy chủ nhật nào? Chịu! Chính trị viên đành chọn một ngày để thống nhất toàn đảo. Ngày ấy lại biệt lập hoàn toàn với đất liền.

Tướng Cương bảo: “Tớ đâu có muốn đày đọa các cậu. Giá trị gì mấy cái hòn đá cằn cỗi này mà phải gìn giữ? Nhưng đây là Tổ quốc của mình, là máu thịt của mình. Có phải chúng ta giữ mấy hòn đá hoang dại này đâu mà là giữ biển đấy! Mất đảo là mất biển, mà biển lại bao bọc suốt từ Bắc đến Nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi từ đường biển vào. Thế nên chúng ta phải giữ đảo, giữ biển. Khổ mấy cũng phải giữ, có chết cũng phải giữ! Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh này”.

“Tớ già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra được ở nhà an thú tuổi già, vậy mà vẫn phải lọ mọ lặn lội sóng gió ra đây với chúng mày, vẫn phải làm tư lệnh. Tất nhiên tớ biết, các cậu vất vả hơn tư lệnh nhiều, khổ hơn tư lệnh nhiều vì tư lệnh còn được ở đất liền. Hay là các cậu vào đất liền, làm tư lệnh thay tớ, để tớ giữ đảo cho? Ở đây có cậu nào làm được tư lệnh không, xung phong nào! Cậu nào làm được tư lệnh, tớ sẽ báo cáo quân chủng, báo cáo Bộ Chính trị cho thay ngay Giáp Văn Cương”.

Ông tâm tình: “Còn việc về phép của các cậu, chúng tớ có tiếc gì đâu. Nhưng Bộ Tư lệnh nghèo quá, đất nước nghèo quá. Chúng ta vừa qua chiến tranh, còn hàng triệu bà mẹ liệt sĩ thiếu ăn, hàng triệu trẻ con không có trường học. Đưa một cậu về phép, Bộ Tư lệnh phải xuất 20 tấn dầu cả tàu ra, tàu về, rồi tàu lại ra. Mà dầu thì ta không có, phải mua của nước ngoài, rất đắt. Mỗi đứa bớt một lần về phép thì một trăm bà mẹ liệt sĩ có được đến mấy tháng ăn...”.

Thế rồi ông khóc. Lính cũng khóc: “Thôi, chúng con hiểu rồi. Bố đừng nói nữa, chúng con thương bố lắm”. Tướng Cương bảo: “Chẳng ai nỡ làm cái việc táng tận lương tâm là cắt phép của các cậu. Nhưng hôm nay tớ phải làm cái việc táng tận lương tâm ấy đấy. Cắt phép. Còn nếu cậu nào có thể tự túc về được thì tớ cho đi ngay, bất cứ lúc nào. Có ai bơi được về đất liền không? Không à? Trai trẻ gì mà kém thế! Tớ mà trẻ trai như các cậu là tớ trốn đấy”. Thế là tướng với lính cười bò. Cười mà nước mắt giàn giụa.

Vậy đấy, và Tổ quốc sẽ không bao giờ bị ''trôi dạt'' bởi chúng ta đã có những vị tướng như thế, những người lính như thế./.

Môi Trường ST.

ÔNG CHA TA ĐÁNH GIẶC:ĐIỆP VIÊN X92 GIỎI NHẤT CỦA CIA Ở VIỆT NAM!

      Đó là Võ Văn Ba kẻ đã làm cho ta thiệt hại nhiều, mà cục tình báo CIA Mỹ so sánh ngang với thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn của ta, hắn tham gia cách mạng từ thời kỳ chống Pháp là Đảng viên, sau 1954 rời bỏ quê hương lên Tây Ninh và bỏ tổ chức, sau đó hắn bị mua chuộc và phản bội cách mạng. 


Năm 1960 hắn quay về núi Bà Đen Tây Ninh xin tiếp quay lại công tác, do chủ quan và kiểm tra không kỹ ta đã để một tên phản bội tiếp tục quay lại mà không nắm rõ từ 1954-1960 hắn làm gì chỉ biết làm ăn bình thường, hắn về chỉ huy du kích địa phương có nhiều thành tích và làm đến bí thư chi bộ nơi hắn công tác, hắn trúng cử huyện ủy viên vì thế tình báo Mỹ Ngụy nắm hết tên tuổi của lãnh đạo địa phương và Đảng viên do hắn lãnh đạo.


Hắn báo cho tình báo Mỹ Ngụy các kế hoạch quân sự và chủ trương chính sách của Quân Giải phóng Miền Nam , kế hoạch tổng tấn công Mậu thân 1968 của ta hắn báo cho Đại sứ quán Mỹ và phủ tổng thống Ngụy trước một tuần nhưng tất cả không tin, tổng thống Thiệu còn xuống quê Vợ ở Miền tây ăn Tết chỉ có Cảnh sát do Nguyễn Ngọc Loan tin vào báo cáo của hắn vì thế trước Tết, cảnh sát Ngụy tăng cường kiểm tra những người ra vào Sài Gòn, còn quân đội Ngụy cho lính nghỉ Tết bình thường như mọi năm, vì thế khi ta nổi dậy chỉ có cảnh sát Ngụy tham chiến từ đầu và chúng không bị bất ngờ.


Năm 1972 hắn báo cho Ngụy biết Mỹ và Miền bắc sẽ ký tắt với nhau và cho phép Bộ đội Miền bắc vẫn ở lại Miền Nam vì thế 1972 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra sức gây khó dễ ở hội nghị Pa ri, năm 1975 hắn còn nắm được cả kế hoạch giải phóng Sài Gòn của ta.


Khôn ngoan không lại với Trời, do nắm được kế hoạch của Ta, vì quá lo sợ, Nguyễn Văn Thiệu đã vội vàng cho rút quân bỏ cao nguyên về phòng thủ ven biển Miền trung nhưng không có kế hoạch rút quân tử tế vì thế thất bại, sau đó Thiệu cho rút tiếp các sư đoàn trù bị thiện chiến về để bảo vệ Sài Gòn lại mất tiếp Quân khu 1 do Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh, đến 18/4/1975 đột nhiên mất tin tức của hắn từ đó. 


Chỉ có Trời mới biết hắn ở đâu và đang làm gì, hắn đã bị bắt giữ và chịu trách nhiệm với những gì hắn gây ra cho Cách Mạng.


Còn việc nguyên nhân lý do tại sao hắn bị phát hiện và bị bắt ở đâu thì bây giờ chưa được giải mã, chỉ biết rằng vì thói quen và sở thích của hắn đã làm hại mình đó là thích hút thuốc lá Sa lem và uống bia Mỹ.


Nếu hắn mà không bị bắt sớm thì còn nguy hại cho mình nhiều


Có nhiều nguồn tin cho biết 1/5/1975 hắn mới bị bắt , nhưng trưởng CIA ở Sài Gòn công bố là từ 18/4/1975 không còn liên lạc được với tên điệp viên tình báo được đánh giá giỏi nhất, người Mỹ được báo 8/6/1975 hắn tự sát trong tù của Bộ Công An


Trước 1970 thiếu tướng Đặng Trần Đức (Ba Quốc) nhận nhiệm vụ tìm tên nội gián này nhưng không thấy hồ sơ của hắn ở cơ quan tình báo Ngụy, sau đó ông bị lộ phải trốn ra chiến khu./.

Ảnh minh họa.

Yêu nước ST.

Học sinh Việt ám ảnh phải giỏi toàn diện

Bị mù màu, tôi lớn lên trong nỗi đau khổ, vật lộn giữa những lời chê bai, trách móc của giáo viên chỉ vì không phân biệt nổi màu sắc. Đọc bài viết "Tuổi thơ ám ảnh vì phải học âm nhạc", tôi rất đồng cảm với tác giả. Thực tế, tuổi thơ nhiều thế hệ ở Việt Nam luôn bị ám ảnh về một môn học nào đó. Lẽ thường, các giáo viên sẽ không chấp nhận một học sinh có thể "dốt" môn học mình dạy. Họ sẽ liên tục gọi học sinh đó lên bảng nhằm rèn sự ám ảnh tột độ, buộc em đó phải căng mình cải thiện thành tích. Bản thân tôi cũng có khiếm khuyết. Tôi vốn bị mắc chứng mù màu và môn học tôi ghét nhất những năm phổ thông chính là các môn học liên quan đến phân biệt màu sắc như mỹ thuật. Từ nhỏ, tôi đã luôn cảm thấy mình thật kém cỏi khi không thể phân biệt nổi các dải màu na ná nhau. Thời đó, tôi đã rất đau khổ khi phải vật lộn giữa sự chê bai, trách móc của người xung quanh, kể cả giáo viên của mình. Mãi sau này, tôi mới biết đến chứng bệnh mù màu này cũng rất phổ biến trên thế giới, chứ không phải cá biệt. Bằng chứng rõ ràng nhất là hiện tại, các thiết lập màu sắc trên máy tính đều có ô lựa chọn dành cho người mù màu. Ở Việt Nam, nhiều người vẫn hay có thói quen đánh giá học sinh theo một mức điểm sàn, trung bình 5 điểm. Tuy nhiên, con người không phải ai cũng giống nhau, mỗi người sẽ có một thế mạnh và khuyết điểm riêng. Ví dụ như để hát tốt, đòi hỏi bạn phải có chất giọng và khả năng cảm thụ âm nhạc... Những thứ này liên quan đến cấu tạo cơ thể bẩm sinh, không thể thay đổi được. Vậy nên mới có người hát hay, người hát dở, không phải cứ tập nhiều là hát hay như nhau. Chúng ta không thể đòi hỏi mọi học sinh phải hát hay, điều đó chẳng khác nào yêu cầu người điếc phải nghe, hay người mù phải thấy được... Việc bắt bắt một người rèn khuyết điểm của mình để lên được mức trung bình, không khác gì dạy heo mẹ leo cây. Mục tiêu lớn nhất của giáo dục là để phát triển thế mạnh của mỗi người. Trong khi đó, chúng ta lại luôn dạy học theo kiểu phơi bày, chỉ trích điểm yếu... khiến học sinh bị ám ảnh làm lu mờ, quên mất rằng mình giỏi hơn ở những mặt khác. Chính vì thế, chúng ta tạo ra những thế hệ học sinh giỏi toàn diện, nhưng lại chẳng có mấy thiên tài, nhân tài thực sự. Nói cách khác, học sinh Việt cái gì cũng biết, nhưng chẳng cái gì hiểu biết thật chuyên sâu. Thực tế đã chứng mình, rất nhiều danh nhân, thiên tài thế giới bị đánh giá học kém, chậm phát triển cũng chỉ vì kiểu dạy học đem điểm yếu của người học ra đánh giá cho tổng thể chung. Đó là một sai lầm rất lớn. Theo tôi, chúng ta cần thay đổi cái nhìn lệch lạc về giáo dục: Bậc tiểu học là tuổi ăn chơi, nên hãy để các em học sinh tìm hiểu thế giới xung quanh hơn là học những kiến thức hàn lâm hay định hướng nghề nghiệp. Học sinh tiểu học và trung học chỉ cần học kiến thức cơ bản về ngôn ngữ, khám phá cuộc sống xung quanh, tìm hiểu sơ lược về nghệ thuật, thể thao, cách ứng xử... Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giáo dục trẻ biết sáng tạo và phải chấp nhận điểm thấp. Không thể cứ gò ép học sinh vào những bài văn mẫu, theo kiểu phải tả "Bà em tóc bạc, da đồi mồi, hiền lành..." mới được điểm cao, còn khác đi sẽ bị điểm thấp, phê bình hoặc có giáo viên còn đọc công khai cho cả lớp nghe rồi cười cợt, chế nhạo. Sáng tạo luôn đi cùng với thất bại, chứ thành công hết thì trên đời này làm gì còn danh nhân, vĩ nhân?

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2021

Nghịch lý ‘nghề cao quý’

Tốt nghiệp đại học đã 15 năm, thu nhập của tôi hiện nay, một giáo viên trường công xoay quanh mức bảy triệu đồng mỗi tháng. Mức thu nhập này khá thấp so với bạn bè tôi làm ở ngành khác. Sống tại thành phố lớn, khoản lương chỉ đủ cho chi phí ăn uống, di chuyển và sinh hoạt tối thiểu, khó có thể chăm lo nhiều cho gia đình. Đồng nghiệp tôi, những giáo viên chỉ có thu nhập thuần lương, cũng khá chật vật. Nhà nào có con nhỏ, cha mẹ già hay người thân bị bệnh, nhiều lần phải vay mượn. Vì thế, không ít người khắc phục kế sinh nhai bằng bán hàng online, làm thêm, dạy thêm. Sau giờ đứng lớp, họ lại tất bật với những đơn hàng, ca dạy. Tôi còn may mắn hơn những đồng nghiệp trẻ. Lương giáo viên mới ra trường hiện nay chỉ dao động trong ba đến bốn triệu đồng. Với thu nhập đó, giáo viên khó có thể toàn tâm toàn ý trên bục giảng. Một đồng nghiệp kể với tôi, mỗi tối cậu đăng ký chạy xe máy giao hàng để kiếm thêm,"sợ mọi người nhận ra mình nên em trùm kín từ trên xuống dưới, nhiều khi cũng tủi thân". Mỗi tối cậu giao hàng ba đến bốn tiếng, được khoảng 200 ngàn. Cộng tiền làm thêm buổi tối có khi còn hơn cả lương chính. Nhà giáo, nhiều năm nay, nếu thuần thu nhập từ lương, chắc chắn cực kỳ khó khăn, nhất là sống ở đô thị. Đây là một lý do tế nhị mà ít có nhà giáo nào dám nói công khai. Tôi kể chuyện thu nhập của giáo viên ở đây vì hai lẽ. Thứ nhất, nỗi lo áo cơm của số đông thầy cô hiện nay là rất thật, chúng ta không thể bàn đến giáo dục mà bỏ qua thực tế này. Thứ hai, tôi không lấy thu nhập thấp ra để biện minh cho việc dạy thêm của giáo viên mà xã hội đang bàn luận, nhưng quyết định việc cấm hay quản dạy thêm mà lờ đi đời sống của giáo viên là vô cảm. Có phải giáo viên nào cũng muốn dạy thêm ngoài giờ? Nhiều lần trong các cuộc họp của trường tôi, chủ đề này được đưa bàn luận, những biểu hiện tiêu cực của đồng nghiệp trong vấn đề dạy thêm bị lên án gay gắt. Là một người tham gia dạy thêm do nhà trường tổ chức, nhiều lần tôi cảm thấy bị tổn thương. Thật sự sau giờ dạy chính khoá tôi chỉ muốn được về nhà nghỉ ngơi, tập thể dục để có sức khoẻ tốt. Có lần, tôi nhận hơn 10 cuộc gọi nhỡ từ số máy lạ. Khi tôi gọi lại, một em vui mừng xin được học thêm để luyện thi vào đại học. Vì lúc đó đã hết học kỳ một nên tôi từ chối, phần vì gấp quá, phần vì tôi cũng bận. Em nài nỉ "nếu thầy không dạy em sợ mình không thể đậu đại học, chỉ còn vài tháng là thi mà kiến thức của em hiện nay vẫn còn nhiều chỗ hổng". Trước quyết tâm của em, cuối cùng tôi đồng ý. Em đã đậu vào đại học mơ ước. Đó không chỉ là niềm vui của em mà cả tôi đến tận bây giờ, dù tôi không bao giờ có nhu cầu dạy em để có thêm chút thu nhập. Nhưng tôi biết, dạy thêm, học thêm không phải khi nào cũng tích cực. Tôi nhớ mãi hình ảnh của Thành, học sinh cũ của tôi khi còn công tác ở một trường THPT tại quận 3, TP HCM. Thành thường ngủ gục trong tiết học. Tôi hỏi lý do, em giải thích, do ngày nào em cũng đi học từ sáng đến chiều tối, rồi phải làm bài cho buổi học hôm sau nên luôn rất mệt mỏi. Điều đáng nói, có môn Thành phải học thêm tới hai giáo viên. Trước phản ứng bất ngờ của tôi, em thiệt thà: "Dạ, một giáo viên em học để không bị ‘đì’ trong giờ học và cô luôn cho biết trước đề kiểm tra ở lớp học thêm. Còn thầy kia, em học để nắm bài cho rõ hơn và giải quyết các bài tập khó cho kỳ thi cuối cấp". Nếu một giáo viên khi bước vào lớp, dạy hết mình, công bằng với học sinh thì dạy chính hay dạy thêm đều sẽ giúp những em có lực học yếu có thể nắm rõ hơn bài. Ngược lại, tiêu cực là khi dạy thêm trở thành "công cụ" kiếm tiền của giáo viên. Hệ quả là học sinh đi học chỉ vì nỗi sợ "đì đè" hoặc vì muốn biết trước đề kiểm tra. Theo tôi, đó là những hành vi phản giáo dục. Nhưng rõ ràng nhu cầu dạy thêm, học thêm từ học sinh, phụ huynh và giáo viên là có. Giá trị của việc học thêm mang lại cho các em cũng là điều không thể phủ nhận. Do vậy, vấn đề là tổ chức, quản lý việc dạy và học thêm như thế nào để triệt tiêu tiêu cực của nó. Ở ngôi trường tôi đang công tác, thầy hiệu trưởng đã nhìn thấy khó khăn vì thu nhập trung bình của giáo viên trong trường chỉ trên dưới năm triệu đồng mỗi tháng. Cộng thêm nhiều đề nghị của phụ huynh, học sinh về nhu cầu bổ túc kiến thức, thầy đã xin phép mở một trung tâm văn hóa ngoài giờ tại trường. Trung tâm hoạt động với quy định, giáo viên nào muốn tham gia dạy thêm thì đăng ký lịch dạy và học sinh được đăng ký học với bất cứ giáo viên nào các em thích thông qua ban quản lý trung tâm. Để hạn chế tiêu cực, trường có quy chế, tất cả bài kiểm tra một tiết tổ chức thành bài kiểm tra tập trung. Khi đó, mỗi giáo viên dạy đều phải nộp đề và ban giám hiệu sẽ phụ trách chọn từ mỗi giáo viên một câu để xây dựng đề kiểm tra chung. Cách làm này đã hạn chế tối đa việc giáo viên lộ đề kiểm tra hoặc dùng điểm số để ép học sinh học thêm. Bên cạnh đó, trường tôi còn tạo kênh tiếp nhận thông tin mở để ghi nhận ý kiến của học sinh, phụ huynh. Niềm vui trong suốt hơn tám năm làm việc tại đây của tôi là trường gần như không ghi nhận phản ánh tiêu cực liên quan tới dạy và học thêm. Nếu dạy thêm bị cấm triệt để trong bối cảnh hiện nay, sẽ có giáo viên tổ chức dạy lén lút, mất đi hình ảnh nhà giáo. Nền giáo dục sẽ thế nào khi thỉnh thoảng lại có những người thầy và trò bị nêu tên, bắt quả tang vì dạy chui, học chui. Nhưng nếu để dạy thêm tiếp tục ngoài vòng kiểm soát, ta vẫn sẽ thấy các trung tâm mọc lên như nấm, thu tiền vô tội vạ. Nhiều giáo viên luyện thi giàu hơn nhiều so với số đông đồng nghiệp mà chưa chắc đã vì năng lực và đạo đức. Theo tôi, việc có đưa dạy thêm thành một nghề kinh doanh có điều kiện hay không không quan trọng bằng việc nó được nhìn nhận thế nào. Nhiều nhà giáo, chuyên gia đã hiến không ít kế sách để quản lý dạy thêm mà tôi không cần lặp lại ở đây. Là một giáo viên, tôi chỉ cho rằng, thứ nhất, các quy tắc quản lý hãy cho chúng tôi cảm thấy được tôn trọng, được muốn cống hiến nhiều hơn, cho học sinh được hạnh phúc và các phụ huynh không cảm thấy khoản chi cho học thêm, nếu có, là một áp lực. Thứ hai, việc quản lý dạy thêm cần được nhìn nhận trong bức tranh rộng lớn, gồm các giải pháp và nhu cầu cải tổ toàn diện nền giáo dục. Nếu coi dạy thêm là "ngành kinh doanh có điều kiện", tôi mong các quy định sẽ không thuần túy coi đó là một món hàng như xăng dầu hay điện, nước mà được soi chiếu trên những câu hỏi lâu nay chưa có lời đáp rõ ràng: Khối lượng kiến thức bao nhiêu là vừa đủ với người dạy và học, nhà quản lý giáo dục có thể tạo ra thay đổi gì để đời sống của những người làm nghề tốt hơn, đích đến cuối cùng của giáo dục chúng ta đang đặt ra là gì? Từ thâm tâm mình, tôi mong một ngày giáo viên chúng tôi không còn phải dạy thêm mà vẫn yên tâm về công việc, cuộc sống và việc học của các trò. Tôi tâm đắc quan điểm cho rằng thầy cô hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới. Nhưng để được hạnh phúc, đầu tiên tâm trí của nhà giáo phải không bị nhiều cuộc tranh luận gay gắt của xã hội về nghề dạy học lấn át khi bước lên bục giảng. Sau đó, nhà giáo cần được tôn trọng bằng cả thái độ và chế độ chính sách để không còn nghịch lý của "nghề cao quý".

Tự do sáng tạo không phải là sự tùy tiện

           Như rất nhiều quốc gia văn minh khác, ở Việt Nam, tự do sáng tạo nghệ thuật luôn gắn liền với ý thức, trách nhiệm của nghệ sĩ đối với xã hội, và là sự tự ý thức. Chính vì thế, tình trạng một số sản phẩm phản văn hóa, phi nghệ thuật bị cơ quan chức năng xử phạt, thậm chí thu hồi, cấm phát hành, khiến dư luận đang đặt ra câu hỏi về trách nhiệm xã hội của những nghệ sĩ này.

            Từ khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời và tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nghệ thuật luôn được quan tâm, chú trọng tạo điều kiện phát triển và trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa mới. Tuy nhiên, dù luôn được quan tâm, chú trọng, đề cao, dành nhiều công sức để phát triển nghệ thuật, thì vẫn phải thừa nhận công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa nói chung, nghệ thuật nói riêng vẫn còn có lúc có khi chưa đáp ứng kịp nhu cầu thực tiễn, còn tồn tại một số bất cập. Vì thế, Nghị quyết số 05-NQ/TW (1987) về "Ðổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới" đã được ban hành.

             Và không thể phủ nhận, sau 34 năm, Nghị quyết số 05-NQ/TW và nhiều văn bản, chính sách kế thừa, đã phát huy tinh thần đổi mới để thúc đẩy tự do sáng tạo của nghệ sĩ, với sự ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị tư tưởng-nghệ thuật cao, có tiếng vang trong nước và quốc tế. Tuy nhiên gần đây, thực tế hoạt động nghệ thuật cho thấy, trong khi tác phẩm chất lượng cao có xu hướng chững lại, thì xuất hiện một số sản phẩm nghệ thuật dường như bị tầm thường hóa, "thiên chức" của nghệ thuật có chiều hướng bị thay thế bằng việc đề cao chức năng giải trí. Thậm chí, có hiện tượng nhân danh đổi mới, sáng tạo để che đậy động cơ thiếu trong sáng, thậm chí vi phạm pháp luật.

              Những hành vi đó thật đáng bị lên án, và chúng ta là những người thưởng thức nghệ thuật cũng cần phải có cái nhìn “nghiêm khắc” hơn và thẳng tay loại bỏ những sản phẩm “rác” để bảo đảm môi trường nghệ thuật lành mạnh, đem đến cho công chúng tác phẩm có giá trị.

Những tấm gương đảng viên chống dịch

          Theo báo Nhân dân ngày 30/11/2021, trong hơn 160 ngày căng thẳng chống dịch Covid-19, quận 6 (TP Hồ Chí Minh) đã đột phá kéo giảm tỷ lệ tử vong qua việc cấp ủy các cấp trên địa bàn chỉ đạo triển khai đưa các gói thuốc tới những người là F0 sử dụng kịp thời, góp phần kiểm soát tốt diễn biến dịch bệnh. Cũng trong tâm dịch, rất nhiều cán bộ, đảng viên từng là F0 vẫn gắng sức cống hiến trên “mặt trận” an sinh xã hội. Họ thật sự là những cán bộ năng động, dám nghĩ, dám  làm vì dân.

           Bí thư Quận ủy quận 6 Lê Thị Hờ Rin đã chia sẻ với phóng viên: “Chúng tôi làm những gì lương tâm mách bảo cần phải làm. Đây không chỉ là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng nhằm tạo sự thống nhất cao trong toàn hệ thống chính trị và đồng thuận trong xã hội, mà còn là biểu hiện phẩm chất cao quý của người đảng viên, dù trải qua sinh tử khi là F0 vẫn dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Họ đã sống, “chiến đấu” đầy ý thức trách nhiệm với khát vọng cống hiến hết lòng, hết sức vì dân mà phục vụ và cùng nhân dân vượt qua đại dịch, vững vàng xây dựng cuộc sống trong trạng thái bình thường mới”.

            Những đảng viên như  thế là những tấm gương sáng rất cần được học tập và noi theo. Để qua đó, chúng ta có thể góp một phần công sức của mình vào công tác chống dịch của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CỦA MỖI ĐẢNG VIÊN GẮN LIỀN VỚI “6 DÁM”!

       Vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực gồm có “6 DÁM”.

      Một là, “Dám nghĩ”: Thể hiện tư duy đổi mới, bứt phá nhằm khai thông, mở lối phát triển để đạt hiệu quả tối ưu trước một vấn đề, một công việc nào đó, nhất là cái mới, việc mới. Những ý tưởng và phương pháp tư duy độc đáo đó sẽ tạo ra cách làm mới, hiệu quả góp phần thay đổi chất lượng phát triển, chất lượng sống của mỗi người, nhiều người. 

    Đối với cán bộ, đảng viên trong bối cảnh, điều kiện hiện nay, dám nghĩ khiến người ta toàn tâm, toàn ý hướng vào tháo gỡ những vấn đề đang đặt ra, những vấn đề chưa có tiền lệ, chưa thành cơ chế, đang là rào cản đối với sự phát triển. Nếu cán bộ, đảng viên không dám nghĩ thì không có cơ sở cho sự bứt phá để phát triển nhanh, bền vững theo mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

         Hai là, “Dám nói”: Là thể hiện dũng khí, tính cương trực, thẳng thắn, công tâm khi nhận định, xem xét, phán quyết một vấn đề, một sự việc nào đó. Trước những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay, cán bộ, công chức mới “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là chưa đủ, mà hơn thế, còn phải “dám nói”. 

Thực tế hiện nay, ở nhiều cấp, ngành có một số cán bộ không thể hiện quan điểm, lập trường, thái độ rõ ràng, thiếu chính kiến dứt khoát trước những sự việc đúng, sai, tốt, xấu... Và, họ ứng xử theo lối “dĩ hòa vi quý”, “gió chiều nào theo chiều ấy”, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, làm cho cái tốt không có điều kiện nảy nở, phát huy, cái sai không được phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, đấu tranh loại bỏ, làm cho cái mới không được khai phá.

         Ba là, “Dám làm”: Là thái độ và hành động quyết liệt, khẩn trương, chủ động xông pha, tiên phong dấn thân vào những công việc khó, nhiệm vụ phức tạp, những việc chưa có tiền lệ, chưa có trong quy cách, quy định... nhằm làm chuyển biến tình hình theo chiều hướng tích cực, phát triển, vì lợi ích chung; là dám biến ước mơ, dự định thành hiện thực. “Dám làm” không có nghĩa là làm liều, càng không phải là vi phạm pháp luật. Cán bộ, đảng viên phải là con người của hành động, “miệng nói, tay làm”. Đảng và nhân dân ta đồng thuận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (chưa có tiền lệ), càng đòi hỏi những người cầm lái, vận hành khi đối mặt với mọi khó khăn, thách thức, mới mẻ phải dám làm, dũng cảm đi đầu gương mẫu làm trước và định hướng, tổ chức để nhân dân cùng làm. 

 Bốn là,“Dám chịu trách nhiệm”: Dám chịu trách nhiệm thể hiện bản lĩnh, tinh thần vững vàng của người “đứng mũi chịu sào” trước mọi “sóng to, gió cả”, không lùi bước và luôn sẵn sàng đón nhận cả thành công và chưa thành công, thậm chí đối mặt với những rủi ro ngoài ý muốn. 

          Dám chịu trách nhiệm bao gồm hai yếu tố: Một là, nhận nhiệm vụ và nhận trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, đồng thời nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, không tránh né, đùn đẩy. Hai là, dám chịu trách nhiệm nhận lỗi và sẵn sàng gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi không hoàn thành nhiệm vụ.

         Năm là, “Dám đổi mới sáng tạo”: Đổi mới là thay cái cũ (hay làm cho cái cũ) thành cái mới tốt hơn. Sáng tạo là đưa ra những ý tưởng, sáng kiến ứng dụng vào thực tế mang lại lợi ích cho con người và xã hội. Phẩm chất đổi mới sáng tạo là một chỉnh thể có quan hệ chặt chẽ giữa 2 thành tố: Đổi mới và sáng tạo. Đổi mới phải sáng tạo và sáng tạo hàm chứa đổi mới.

         Đặc trưng giai đoạn tới của công cuộc đổi mới càng đòi hỏi sự đổi mới và sáng tạo. Hơn lúc nào hết, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cán bộ, đảng viên là dám đổi mới, sáng tạo những mô hình, cách làm đột phá, thậm chí khác biệt nhưng mang lại hiệu quả tốt hơn. Đổi mới, sáng tạo mạnh mẽ hơn là chìa khóa để thực hiện các chủ trương mới của Đảng về chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực khoa học - công nghệ... mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

         Sáu là, “Dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung” là phẩm chất cấu thành bởi bản lĩnh, nghị lực, quyết tâm chính trị và đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. 

       Bản lĩnh là khả năng đương đầu với khó khăn, giải quyết những vấn đề mới, khó của cuộc sống một cách bình tĩnh, sáng suốt và tỉnh táo. Bản lĩnh còn là lòng dũng cảm, kiên trì, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; là sự tự khẳng định mình, bày tỏ những quan điểm cá nhân, có chính kiến riêng và dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn. Nghị lực là sức mạnh tinh thần tạo cho con người sự kiên quyết trong hành động, không lùi bước trước khó khăn, thử thách. 

      Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ là những người lo trước thiên hạ, mà còn phải khổ trước thiên hạ, còn phải dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng. Đã tự nguyện làm công bộc của dân, thề suốt đời hy sinh, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân thì lợi ích của cán bộ, đảng viên phải đặt trong lợi ích chung của dân, của nước. Dám hy sinh lợi ích cá nhân là đòi hỏi cán bộ phải tự giác gác lại những nhu cầu, ham muốn cá nhân ảnh hưởng đến sự nghiệp chung, lợi ích chung; nghiêm khắc với bản thân, không bị mê hoặc bởi tiền tài danh vọng và những cám dỗ tầm thường. 

Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động và dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng là những phẩm chất cần và đủ, có quan hệ chặt chẽ với nhau và là một chỉnh thể trong nhân cách của người cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay./.

Yêu nước ST.

WHO cảnh báo rủi ro toàn cầu do Omicron

 “Omicron có số lượng đột biến cao chưa từng thấy. Trong đó có một số đột biến đáng lo ngại vì chúng có khả năng tác động đến quỹ đạo của đại dịch. Rủi ro toàn cầu liên quan đến biến thể mới được đánh giá là rất cao”, WHO cảnh báo ngày 29/11. WHO nhận định: “Việc gia tăng số ca mắc, bất kể mức độ nghiêm trọng của bệnh, có thể khiến hệ thống y tế quá tải, dẫn đến gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Tác động đối với nhóm dân số dễ bị tổn thương là rất lớn, đặc biệt là ở các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng thấp”. WHO kêu gọi 194 quốc gia thành viên đẩy nhanh việc tiêm chủng cho các nhóm ưu tiên.

Đến nay, chưa có ca tử vong nào liên quan Omicron được ghi nhận. Tuy nhiên, giới chuyên gia cần nghiên cứu thêm để đánh giá khả năng thoát miễn dịch của biến thể mới. Trước đó, trong báo cáo ngày 28/11, WHO nhận định Omicron có thể tăng nguy cơ tái nhiễm, tức là những người từng mắc COVID-19 có thể nhiễm lại dễ dàng hơn với Omicron.

Cơ quan y tế của Liên Hợp Quốc cho biết hiện chưa rõ Omicron có dễ lây truyền hơn, hoặc gây ra bệnh nặng hơn so với các biến thể khác (bao gồm cả Delta) hay không. Số ca mắc COVID-19 đã tăng lên ở những khu vực chịu ảnh hưởng bởi biến thể mới, nhưng các chuyên gia dịch tễ học đang tìm hiểu xem nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng này là do Omicron hay do các yếu tố khác.

Ngoài ra, những ca nhiễm Omicron đầu tiên chủ yếu là người trẻ - vốn thường có biểu hiện nhẹ khi mắc COVID-19, nên sẽ phải mất thêm từ vài ngày đến vài tuần để các chuyên gia hiểu được mức độ nghiêm trọng của bệnh gây ra bởi Omicron. WHO đang phối hợp các chuyên gia để tìm hiểu tác động tiềm tàng của biến thể mới đối với các biện pháp đối phó hiện có, bao gồm vắc xin. “Dù vậy, vắc xin vẫn rất quan trọng trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong”, WHO khẳng định.

WHO khuyến nghị các quốc gia tăng cường giám sát, giải trình tự gien các ca bệnh; chia sẻ trình tự bộ gien trên cơ sở dữ liệu có sẵn công khai, báo cáo các ca bệnh hoặc ổ bệnh ban đầu cho WHO; điều tra thực tế và đánh giá trong phòng thí nghiệm để hiểu rõ hơn về Omicron. WHO khuyến cáo người dân nên giữ khoảng cách 1m với người khác; đeo khẩu trang; mở cửa sổ để thông gió, tránh không gian kém thông gió hoặc đông đúc; giữ tay sạch sẽ; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; tiêm phòng khi đến lượt.

 

Cách đây 70 năm, đứng trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, các tổ chức tiền thân của hoạt động tiếp tế hậu cần đã ra đời và ngày càng phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò đặc biệt quan trọng của công tác hậu cần: Là khâu nối liền hậu phương với tiền tuyến và là một trong những nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của các cuộc đấu tranh. Đối với ngành Hậu cần Quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều tình cảm, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ bảo ân cần với những tư tưởng rộng lớn và sâu sắc, nhằm xây dựng nên một ngành cung cấp vững mạnh, bảo đảm những yêu cầu cần và đủ cho các lực lượng vũ trang, cho quân đội huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.

Đến giữa năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và của dân ta chuyển sang giai đoạn tiến công và phản công trên chiến trường toàn quốc, đặc biệt trên chiến trường chính Bắc bộ, nhu cầu mọi mặt của cuộc kháng chiến ngày càng nhiều. Vấn đề cung cấp cho quân đội được Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm xây dựng để sản xuất, huy động kịp thời và sử dụng tốt các nguồn lực phục vụ cuộc chiến đấu. Ngày 11/7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 121/SL về việc ấn định các cơ quan chức năng của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc gia gồm: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Với việc ban hành Sắc lệnh này, Tổng cục Cung cấp (tiền thân của ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập, có nhiệm vụ: “Quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng”. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 123/SL bổ nhiệm các đồng chí đứng đầu ba cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh, trong đó đồng chí Trần Đăng Ninh - Ủy viên Trung ương Đảng, một chiến sỹ cách mạng kiên cường, được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp.

Từ đây, ngành Hậu cần Quân đội đã trở thành một hệ thống tổ chức thống nhất trong toàn quân, bao gồm hậu cần cấp chiến lược, hậu cần cấp chiến dịch và hậu cần cấp chiến thuật luôn luôn sẵn sàng phục vụ chiến đấu trên các mặt trận. Trong những tháng năm chiến tranh ác liệt, nhận thức rõ tầm quan trọng của yếu tố cung cấp, hậu cần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian, tâm sức trực tiếp tới thăm và gửi thư động viên, khích lệ, chỉ đạo đến các đơn vị đảm nhiệm công tác hậu cần phục vụ cách mạng.

Sau chiến thắng Chiến dịch Biên giới 1950, quân đội ta đã thu được một lượng xe ô tô vận tải của địch và thành lập thành hai đại đội vận tải ô tô đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, gồm: Đại đội 200 và Đại đội 203 đóng quân tại làng Nà Roác, xã Bạch Đằng huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Ngày 28/3/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm hai Đại đội xe và ân cần nhắc nhở các cán bộ, chiến sỹ hậu cần: “Hiện nay nước ta chưa sản xuất được xe. Xăng dầu cũng vậy, có rất ít. Kháng chiến còn dài, chiến dịch ngày một mở rộng, yêu cầu vận chuyển ngày càng cao. Vì vậy, các chú phải giữ gìn xe, tiết kiệm xăng để phục vụ bộ đội. Xe, xăng là mồ hôi nước mắt, xương máu của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu"(1). Ở thời điểm đất nước ta còn nghèo, toàn dân tộc đang phải đứng trước vô vàn khó khăn, công cuộc đánh đuổi kẻ thù xâm lược còn cần nhiều cơ sở vật chất, những lời chỉ bảo ân cần sâu sắc về việc phải ra sức tiết kiệm cho sự nghiệp cách mạng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là nguồn động lực mạnh mẽ đối với cán bộ chiến sĩ hậu cần, phụ trách vận chuyển phục vụ chiến đấu.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, tháng 6/1951, tại chiến khu Việt Bắc, Tổng cục Cung cấp mở lớp huấn luyện đầu tiên, đào tạo cán bộ hậu cần. Thời kỳ này, tâm lý bộ đội nói chung rất ngại làm công việc cung cấp, cho rằng làm công tác cung cấp vất vả mà cá nhân ít có điều kiện lập được thành tích như cán bộ trên mặt trận, bởi vậy số đông đều muốn tham gia trực tiếp chiến đấu. Kịp thời nắm bắt tâm tư tình cảm của bộ đội hậu cần, ngày 02/9/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi lớp huấn luyện đào tạo cán bộ hậu cần đầu tiên. Trong thư Người chỉ rõ tầm quan trọng của công tác hậu cần quân đội: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận”(2). Đồng thời, Người cũng thẳng thắn phê phán tư tưởng không đúng của cán bộ làm nhiệm vụ cung cấp lúc bấy giờ cho rằng: Cung cấp là một công việc vất vả, tầm thường, suốt ngày chỉ lo “cơm, áo, gạo, tiền”, dễ bị mang tiếng hủ hóa và khó gây được thành tích như cán bộ chỉ huy đơn vị, nên chỉ muốn tham gia trực tiếp chiến đấu mà không muốn làm công tác cung cấp. Vì vậy, Người đặt câu hỏi: “Nếu mọi người đều ra mặt trận, thì bộ đội lấy gì mà ăn, lấy gì mà đánh?”(3). Đây không chỉ là vấn đề tâm lý mà là quan điểm cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích cho cán bộ, chiến sĩ hậu cần theo cách riêng của mình. Người chỉ rõ tầm quan trọng của công tác hậu cần trong quân đội và căn dặn về tinh thần phục vụ của cán bộ cung cấp.

Mục tiêu cao cả của công tác hậu cần là: Tất cả vì bộ đội, hết lòng yêu thương bộ đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đây chính là nét biểu hiện đặc trưng trong ý thức đạo đức của cán bộ, chiến sỹ ngành Hậu cần. Mối quan hệ đặc biệt trong hoạt động của ngành Hậu cần Quân đội được nhận thức như là quan hệ máu thịt, sâu sắc và bền chặt, lại được đặt trên cơ sở tình cảm, tình đồng đội chiến đấu, là nền tảng của quan hệ đạo đức, vượt lên trên cả nhiệm vụ, nằm sâu trong bản chất của người quân nhân cách mạng. Theo Người, tinh thần trách nhiệm, tận tâm gắn bó với nghề nghiệp là một vấn đề trọng yếu của ngành Hậu cần, cán bộ cung cấp phải có quan điểm chính trị vững vàng, có tinh thần, thái độ phục vụ tốt, phải có tình thương yêu chiến sỹ như anh em ruột của mình.

Trong lĩnh vực Hậu cần Quân đội gồm có các ngành chức năng như: Cục Quân lương, Cục Quân trang, Cục Quân y, Cục Quân giới, Cục Vận tải, Cục Quân vụ và Phòng Quân khí, ngành nào cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm và chỉ bảo ân cần. Trong thư gửi Hội nghị Quân y, tháng 3/1948, Người viết: Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu… Khi gặp một số anh em quân nhân không được trấn tĩnh, người thầy thuốc nên “lấy lòng nhân loại và tình thân ái mà cảm động, cảm hóa họ… Người ta có câu "lương y kiêm từ mẫu", nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải là một người mẹ hiền…”(4). Những lời dạy bảo ân cần của Bác mãi mãi là ngọn đuốc soi đường chỉ lối cho ngành Quân y trong suốt chặng đường lịch sử của mình.

Đến dự và phát biểu tại Hội nghị kiểm thảo Chiến dịch Đường số 18, tháng 5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở: “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được. Bởi vậy, cần phải thương yêu đội viên. Từ Tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên… Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng”(5).

Người yêu cầu: “Cán bộ cung cấp như là người mẹ, người chị” của bộ đội, phải thật lòng thương yêu bộ đội, phải là những con người nhiệt tình, luôn luôn chủ động nâng cao ý thức trách nhiệm, trau dồi nhân cách đạo đức: “Phải thấy trước, lo trước. Phải có sáng kiến và phải tháo vát. Phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính” (6).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là phẩm chất tốt đẹp của con người, là đặc trưng của nhân cách người cách mạng, có vai trò to lớn trong xây dựng con người và phát triển xã hội. Với những chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm riêng, cán bộ chiến sỹ ngành Hậu cần càng cần rèn luyện những phẩm chất đó. Hoạt động của ngành Hậu cần gắn liền với một khối lượng lớn cơ sở vật chất: Tiền bạc, hàng hóa, thuốc men, lương thực, phục vụ bảo đảm cho các đơn vị quân đội, nên trực tiếp quan hệ đến ý thức cần - kiệm - liêm - chính trong mỗi con người làm công tác cung cấp. Hoạt động trong môi trường quân sự nhưng lại mang nội dung vật chất, đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ ngành Hậu cần phải bao quát toàn diện, sâu sát, tỷ mỉ, thận trọng và nghiêm túc. Dù là cơ chế cấp phát hiện vật nhưng vẫn phải bảo đảm cấp phát theo tiêu chuẩn, định lượng của bộ đội. Trong hoạt động thực tiễn, để thực sự đạt được phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, cán bộ, chiến sỹ ngành Hậu cần phải không ngừng nêu cao tinh thần tự lực tự cường, chủ động khắc phục khó khăn, tích cực sản xuất, thực hành tiết kiệm để nâng cao mức sống của bộ đội; sống trong sạch lành mạnh, đề cao dân chủ, trung thực mẫu mực, việc gì có lợi cho bộ đội, cho quân đội thì nhất định làm, việc gì có hại đến dân, đến đời sống bộ đội thì phải hết sức tránh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách rõ ràng rằng: Nếu bộ đội không được bảo đảm các nhu cầu về ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe thì dù có quyết tâm đến mấy, tổ chức kỷ luật thế nào cũng không thể có đủ sức lực để hoạt động, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Bởi vậy Người thường nhắc cán bộ, chiến sỹ Hậu cần: Lương thực, vũ khí là mồ hôi nước mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội. Vì vậy phải quý trọng, phải tiết kiệm, ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý”. Người căn dặn: “Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sỹ. Đó là bổn phận của các chú” (7).

Ghi nhớ lời dạy đó, các cán bộ, chiến sỹ, nhân viên ngành Hậu cần luôn thực hiện tiết kiệm, chắt chiu, bảo vệ mọi tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo đảm đúng định lượng, tiêu chuẩn, chế độ quy định; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ô lãng phí, cửa quyền, hách dịch, ăn bớt, cắt xén tiêu chuẩn của bộ đội, của đơn vị làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, sức khỏe và sức chiến đấu của bộ đội.

Khi bàn về vấn đề hủ hóa mà dư luận đánh giá về ngành Hậu cần, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ngành nào cũng có thể hủ hóa, người nào cũng có thể hủ hóa nếu tự mình không tu luyện đạo đức, không tự phê bình và phê bình, sao nhãng, bỏ bê công việc, không chịu đôn đốc, kiểm tra, giám sát, v.v.. muốn tránh tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thì phải dân chủ, làm cho mọi người tự phê bình mình và dám phê bình người. Vậy nên để cải chính dư luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc đề nghị cán bộ cung cấp: Không tham ô lãng phí một đồng tiền, một bát gạo, một ngày công của nhân dân đóng góp cho bộ đội và “cán bộ cung cấp càng phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính… để cải chính dư luận bảo rằng: Cán bộ cung cấp thường hủ hóa”.(8)

Với tấm lòng của con người hết lòng vì dân vì nước, luôn lo nghĩ đến đời sống của chiến sỹ ngoài mặt trân, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm của mình về công tác, nhiệm vụ, vai trò của ngành Hậu cần Quân đội, Người động viên, cổ vũ, kêu gọi tinh thần trách nhiệm của chiến sĩ làm công tác hậu cần. Đồng thời, Người cũng nêu rõ những yêu cầu căn bản về phẩm chất, trách nhiệm của người làm công tác hậu cần. Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lớp huấn luyện đào tạo cán bộ hậu cần đã giải tỏa mọi tâm tư, thắc mắc, suy nghĩ tiêu cực, không yên tâm của một số cán bộ, chiến sỹ ngành Hậu cần Quân đội. Biết được quan điểm và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn ngành hậu cần quân đội đã quán triệt tinh thần, một lòng tin tưởng, dốc tâm, dốc sức phụng sự kháng chiến.

Trong Hội nghị Cung cấp toàn quân lần thứ nhất ngày 25/6/1952, Chủ tịch Hồ chí Minh nhấn mạnh: “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất. Nếu có thành tích gì thì Chủ tịch và người nấu cơm phải chia nhau cái vinh dự ấy…”(9). Đồng thời, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ hậu cần phải tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa, quân sự, chuyên môn, nghiệp vụ làm tốt công tác mình đảm nhiệm. Theo Người, công tác hậu cần là công tác cách mạng, người làm công tác hậu cần cũng là chiến sĩ cách mạng của Đảng, thế nên phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng, gương mẫu và thật sự là đày tớ của nhân dân. Cán bộ chiến sĩ ngành Hậu cần Quân đội phải gạt bỏ những tính toán cá nhân, những tư tưởng vụ lợi để tự hào về nghề nghiệp của mình mà gắn bó. Đội ngũ cán bộ hậu cần trong những năm kháng chiến chống Pháp được rèn luyện, trưởng thành nhanh chóng qua thực tiễn công tác là nhờ sự quan tâm chỉ bảo ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngành Hậu cần Quân đội luôn xứng đáng với niềm tin yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng sự giúp đỡ tận tình của các cấp, các ngành và nhân dân cả nước, ngành Hậu cần quân đội đã vượt qua vô vàn khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu vươn lên để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Ngành Hậu cần Quân đội đã đảm nhận vai trò to lớn của mình, hoàn thành nhiệm vụ cung cấp trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chi viện cho tiền tuyến, góp phần quan trọng làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, lực lượng Hậu cần Quân đội đã có những đóng góp vô cùng quan trọng, vừa sản xuất cung cấp vũ khí, lương thực, quần áo cho bộ đội trên các mặt trận, vừa điều trị thương binh, vừa tham gia chiến đấu. Mùa Xuân năm 1954, tại xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngay lập tức, công tác hậu cần đã được tính toán, chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng phục vụ chiến đấu. Các đoàn xe vận tải ngày đêm vượt đèo Pha đin vận chuyển lương thực, vũ khí; hàng trăm xe đạp thô sơ được chiến sĩ cung cấp sử dụng để thồ chuyển gạo, muối, thuốc men từ dưới xuôi lên miền núi để phục vụ chiến dịch; các trạm quân y, bệnh viện dã chiến cũng được dựng lên giữa rừng xanh phục vụ thương bệnh binh, nhiều đội quân y đường hầm được hình thành, trực tiếp tham gia điều trị các chiến sỹ bị thương trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 07/5/1954, quân và dân ta đã toàn thắng ở Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng, Chính Phủ và quân đội nhân dân Việt Nam trở về Hà Nội, Người vẫn tiếp tục chú trọng, dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác hậu cần quân đội với mục tiêu phục vụ công cuộc xây dựng kiến thiết miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Người đã dành thời gian đi tham quan và đóng góp ý kiến tại các triển lãm về sáng kiến cải tiến kỹ thuật ngành Hậu cần quân đội, như cải tiến các thiết bị y tế, doanh cụ do bộ đội Hậu cần sản xuất trang bị cho bộ đội, khu trưng bày các sản phẩm tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống cho bộ đội. Ngày 04/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và để lại bút tích tại Triển lãm sáng kiến cải tiến kỹ thuật của ngành Hậu cần Quân đội: “Cuộc trưng bày này của Tổng cục Hậu cần chứng tỏ rằng quân đội ta đã có cố gắng nhiều và đã có thành tích khá trên con đường cải tiến kỹ thuật nhằm tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm” và “Bác mong chiến sỹ và cán bộ ta cố gắng mãi và tiến bộ nhiều”.

Mùa Thu năm 1969, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng và qua đời trong sự tiếc thương vô hạn của toàn quân, toàn dân Việt Nam và bạn bè tiến bộ trên toàn thế giới. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đi xa, nhưng những quan điểm, tư tưởng sâu sắc và lời căn dặn, chỉ bảo ân cần của Người về ngành Hậu cần Quân đội vẫn luôn được cán bộ, chiến sỹ ngành Hậu cần khắc ghi và quyết tâm thực hiện tốt nhất.

Khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, ở miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải rút hết quân về nước. Tuy nhiên, Mỹ vẫn duy trì lực lượng cố vấn và bảo trợ cho ngụy quyền Sài Gòn để làm tay sai. Trong bối cảnh đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo ngành Hậu cần chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ. Từ chỉ đạo của cấp trên, Tổng cục Hậu cần xây dựng kế hoạch hậu cần 3 năm (1973 - 1975), trong đó trọng tâm là chi viện lực lượng, phương tiện và vật chất cho miền Nam. Để tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, công tác hậu cần đặt ra những yêu cầu hết sức to lớn, phức tạp và vô cùng khẩn trương. Song lực lượng hậu cần đã khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm khối lượng vật chất - kỹ thuật khổng lồ, góp phần quan trọng để chiến dịch toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trải qua 68 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, ngành Hậu cần Quân đội luôn luôn thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng và tư tưởng chỉ đạo cùng những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Thấm nhuần lời dạy của Người, cán bộ, chiến sỹ toàn quân nói chung, ngành Hậu cần Quân đội nói riêng đã thực hiện hiệu quả phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, không ngừng phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Ngành Hậu cần Quân đội tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo đảm mọi nhu cầu vật chất, hậu cần kĩ thuật cho các lực lượng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, góp phần giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, từng bước xây dựng và phát triển ngành Hậu cần Quân đội cách mạng, chính quy tinh nhuệ và hiện đại, đáp ứng nhu cầu bảo đảm hậu cần trong thời kỳ mới./.

Nguyễn Thị Lệ Thủy
Phòng Tuyên truyền giáo dục
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

CHUYẾN THĂM LÀM SÂU SẮC HƠN NỮA QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT - NGA

Khoảng 16 giờ chiều 29-11 (theo giờ địa phương), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng đoàn cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Vnukovo, thủ đô Moskva, bắt đầu chuyến thăm chính thức Liên bang Nga theo lời mời của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin.

Lễ đón Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã được tổ chức trọng thể tại sân bay Vnukovo với các nghi thức cử Quốc thiều Việt Nam và Quốc thiều Liên bang Nga; duyệt Đội danh dự Liên bang Nga.

Đón Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và đoàn có Thứ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga và các quan chức Bộ Ngoại giao Liên bang Nga. Về phía Việt Nam có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi và Phu nhân cùng các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga.

Theo Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi, chuyến thăm chính thức Liên bang Nga lần này của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quan hệ hai nước. Chuyến thăm sẽ làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga trên tất cả các lĩnh vực và nâng tầm lên trong tình hình mới; đồng thời khẳng định quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga là quan hệ thủy chung, gắn bó chặt chẽ đặc biệt.

Chuyến thăm cũng khẳng định việc tăng cường hợp tác giữa hai nước trong phòng, chống dịch Covid-19, nhất là trong việc cùng nghiên cứu, sản xuất vắc xin, thuốc chữa bệnh và chia sẻ những kinh nghiệm trong phòng, chống dịch bệnh.

Bất chấp ảnh hưởng của dịch Covid-19, Việt Nam và Nga vẫn duy trì đà hợp tác tăng trưởng tích cực: Năm 2020 kim ngạch đạt 4,85 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2019; trong nửa đầu năm 2021 đạt 2,6 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ 2020. Bên cạnh việc triển khai các dự án trong các lĩnh vực hợp tác truyền thống như năng lượng, dầu khí, hai bên đang mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới mà Nga có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu như khoa học công nghệ cao và nghiên cứu khoa học, thúc đẩy các dự án trọng điểm, khuyến khích và tạo điều kiện cho các liên doanh Việt - Nga cũng như doanh nghiệp hai nước đầu tư vào mỗi nước.

Về hợp tác trong phòng, chống dịch Covid-19, kể từ thời điểm dịch bệnh bùng phát đến nay, hai nước duy trì phối hợp chặt chẽ trong ứng phó dịch bệnh, đặc biệt trong việc cung ứng và chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin phòng Covid-19.

Theo chương trình, dự kiến trong khuôn khổ chuyến thăm, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc sẽ có các cuộc hội đàm, hội kiến với Lãnh đạo Nhà nước, Duma Quốc gia Nga; Hội đồng An ninh Nga. Chủ tịch nước cũng sẽ có các cuộc tiếp xúc với các tổ chức hữu nghị Nga - Việt; dự Tọa đàm doanh nghiệp Việt - Nga và thăm một số doanh nghiệp của Nga.
--------------
PT-TG. st





TTXVN/ Báo QĐND

Thủ tướng chỉ đạo chủ động kiểm soát biến chủng Omicron

Văn phòng Chính phủ vừa có Công văn số 8706/VPCP-KGVX ngày 29/11/2021 truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về việc kiểm soát biến chủng mới Omicron của virus SARS-CoV-2.

Công văn nêu, gần đây, trên thế giới đã ghi nhận biến chủng mới Omicron của virus SARS-CoV-2 và đang lây lan nhanh ra nhiều nước trên thế giới. Để chủ động kiểm soát, phòng, chống dịch bệnh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu, Bộ Y tế chủ động bám sát diễn biến tình hình dịch do chủng mới Omicron gây ra; thường xuyên trao đổi với Tổ chức Y tế thế giới để cập nhật thông tin, kịp thời, chính xác về biến chủng này, trên cơ sở đó đề xuất các phương án, biện pháp phòng, chống dịch kịp thời, phù hợp, hiệu quả với diễn biến tình hình dịch.

Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các bộ, cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường kiểm soát người đến và đi qua các nước đã phát hiện ca bệnh nhiễm chủng mới Omicron nhập cảnh vào Việt Nam để ngăn chặn nguy cơ xâm nhập và lây lan của biến thể này vào nước ta.

Theo Báo Chính phủ

NHẬN DIỆN NHỮNG PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN HIỆN NAY

 Mục đích chống phá Đảng ta của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở các thời kỳ không thay đổi. Nhưng phương thức, thủ đoạn, biểu hiện chống phá của chúng có nhiều thay đổi, tinh vi, phức tạp hơn khiến nhiều cán bộ, đảng viên không dễ dàng nhận biết để đấu tranh ngăn chặn, bác bỏ kịp thời, có hiệu quả.
Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng và nhân dân ta xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là làm cho cán bộ, đảng viên ta từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Thực hiện mục đích đó, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức tinh vi, xảo quyệt thích ứng với mọi tình hình, mọi đối tượng, mọi thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta vì thế cũng vô cùng phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn.
Trong thực tế thật khó có thể tách bạch âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng, lý luận đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Chúng được tiến hành đan xen, ẩn hiện trong nhau rất tinh vi, khó xác định dưới nhiều màu sắc, cấp độ khác nhau, lẫn lộn thật - giả, đúng - sai... khiến người ta khó phân biệt, dễ lầm lẫn, khó đấu tranh.
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng ở những biểu hiện chính sau:
Một là, phủ nhận, chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên phương diện tư tưởng, lý luận, chúng luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tung ra những luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”...; rằng, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng. Đây là mục tiêu không mới nhưng chúng kiên trì với thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” bằng những chiêu trò mới, hòng thực hiện đến cùng việc chống phá Đảng ta.
Hai là, chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.
Âm mưu, thủ đoạn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng tiến hành từ lâu. Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tấn công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ở các nước kiên trì phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Ba là, chống phá đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.
Các thế lực thù địch luôn coi đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là mục tiêu chống phá. Thực hiện mục tiêu ấy, chúng dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bác bỏ, chống phá. Mặc dù “lý lẽ” đã cũ rích, nhưng chúng vẫn không từ bỏ, luôn rêu rao rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin “đã sai lầm”, “lỗi thời”, “lạc hậu”, thể hiện ở sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng dẫn ra các hiện tượng, hình thức, trái với bản chất để mê hoặc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết khoa học, như “lý sự” rằng: “đã kinh tế thị trường thì đâu còn là chủ nghĩa xã hội”; “chủ nghĩa xã hội không phải là cái đích của loài người đi tới”; “chủ nghĩa tư bản là trường cửu”; Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam “bảo thủ” duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới” v.v và v.v..
Bốn là, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân.
Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có tính quy luật trên đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội.
Năm là, cản trở sự phát triển của đất nước.
Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn cản trở sự phát triển của đất nước, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong từng lĩnh vực, chúng khai thác triệt để những sơ hở, yếu kém của ta để xuyên tạc, nói xấu, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài cản trở mọi hoạt động của ta.
--------------
PV-TG. st


TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG: VĂN HÓA CÒN LÀ DÂN TỘC CÒN


Bài phát biểu tâm huyết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng liên tục nhận được những tràng vỗ tay của đại biểu tham dự tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội.
Các đại biểu cảm nhận rõ tình cảm đặc biệt của Tổng bí thư dành cho văn hóa, tình yêu của Tổng bí thư đối với văn nghệ sĩ, với văn nghệ qua những bài thơ dài ông đọc như Chân quê của Nguyễn Bính, Việt Bắc của Tố Hữu…
Khẳng định ý nghĩa đặc biệt của Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng bí thư nhấn mạnh rất vui mừng, vinh dự và hào hứng được dự hội nghị này.
Ghi nhận vai trò quan trọng của văn hóa, Tổng bí thư nói lâu nay văn hóa chưa được một bộ phận cán bộ và người dân nhận thức đầy đủ vai trò “soi đường cho quốc dân đi”.
Mượn lời tiền nhân: “Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”, Tổng bí thư nhấn mạnh sự đồng tình với quan điểm “văn hóa còn thì dân tộc còn”. Văn hóa làm nên hồn cốt của dân tộc nên mất văn hóa là mất dân tộc.
Điều này được Tổng bí thư khẳng định nhiều lần trong suốt bài phát biểu.
Tổng bí thư dẫn ra nhiều khái niệm văn hóa mang tính học thuật của các nhà nghiên cứu và cũng chia sẻ quan niệm giản dị của mình về văn hóa với hội nghị. Theo đó, văn hóa rất gần gũi với đời sống, khi người dân được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ công bằng… ấy chính là văn hóa.
Ngược lại, những xấu xa, bỉ ổi chính là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa.
Tổng bí thư lược lại lịch sử để cho thấy quan điểm xuyên suốt của Đảng về văn hóa ngay từ ngày đầu thành lập tới nay chính là văn hóa phải được đặt ngang hàng chính trị, kinh tế, xã hội, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Không chỉ quan tâm phát triển văn hóa, Đảng ta đặc biệt chú trọng phát triển văn hóa quần chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tổng bí thư khẳng định đây chính là điểm ưu việt của Đảng ta.
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, SỨC MẠNH, TINH THẦN CỐNG HIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ:
1. Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
2. Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo...
3. Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.
4. Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng.
Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa.
5. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.
Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa.
6. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.
VĂN HÓA PHẢI ĐƯỢC ĐẶT NGANG HÀNG VỚI KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI
Chỉ rõ những giải pháp trong thời gian tới, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở.
Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa.
Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế", chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội".
Đối với công tác quản lý nhà nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương đến cơ sở.
Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hóa.
Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.
Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa phải được xây dựng, bồi dưỡng tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tùy tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hóa, ở cả trung ương và địa phương. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà.
Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội.
Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa.
Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII và đặc biệt là các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn, sau hội nghị này, công tác văn hóa sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
“Với một đất nước, một dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với nhân dân, với Đảng, với Tổ quốc và tương lai của dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho dân tộc, cho giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới” - Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ tin tưởng.