Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022

Ngày này năm xưa: Chiến thắng La Ngà

Vào những ngày tháng này, cách đây 74 năm, ngày 01/03/1948, tại Biên Hòa đã diễn ra trận đánh nổi tiếng: trận phục kích giao thông tiêu diệt gọn đoàn xe Pháp trên quốc lộ 20 (Sài Gòn đi Đà Lạt)do Ban chỉ huy cùng với liên quân 17, lực lượng vũ trang địa phương tổ chức đánh đoàn xe đưa cán bộ, sĩ quan cấp cao của thực dân Pháp dự Hội nghị quân chính Đà Lạt cùng chính quyền bù nhìn Bảo Đại (đoạn từ cầu La Ngà đi Định Quán), gọi là trận phục kích La Ngà. 

Đây là một trong những trận đánh lớn của lực lượng vũ trang Miền Đông Nam bộ nói chung, lực lượng vũ trang Đồng Nai nói riêng đã làm bạt vía quân thù về nhiều mặt, đánh dấu một bước phát triển quan trọng về chất của lực lượng vũ trang Biên Hòa,đánh dấu bước tiến vượt bậc về khả năng phối hợp, tổ chức, trình độ chiến thuật, kỹ thuật.Từ đánh nhỏ lẻ, Chi đội 10 đã vững vàng về tổ chức chỉ huy, về chiến thuật sử dụng lực lượng, bố trí đánh hợp đồng quy mô lớn trên phạm vi trận địa rộng cách xa căn cứ gần trăm cây số...Đối với thực dân Pháp, đây là thất bại cay đắng, gây xôn xao dư luận trong nước Pháp, chiến thắng La Ngà càng khẳng định cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tăng sự ủng hộ đối với nhân dân ta. 

Ngay từ đầu tháng 1/1948, công tác chuẩn bị cho trận đánh giao thông trên quốc lộ 20 được triển khai thật kỹ càng từ công tác vận động lương thực, đảm bảo đạn dược, trinh sát, điều nghiên… trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ (bộ đội sống phân tán trong dân, dự vào dân tăng gia sản xuất, lương thực ở chiến khu phải tự túc, nhân dân các dân tộc bị giặc khủng bố phải phân tán ở những nơi hẻo lánh, đi lại khó khăn…). Tuy nhiên, với lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, nhân dân và bộ đội đã đoàn kết một lòng góp sứcđể chuẩn bị lương thực cho trận đánh được hoàn tất chỉ trong vòng 01tháng, đảm bảo cho đội quân khoảng 1000 quân ăn trong gần nửa tháng. 

Về công tác trinh sát, tình báo được Ban Chỉ huy Chi đội 10 tổ chức thực hiện liên tục, tỉ mỉ suốt 3 tháng liền (từ đầu tháng 10/1947). Phải chống chọi với cảnh rừng thiêng nước độc, trinh sát Chi đội 10 đã nắm chắc quy luật các đoàn xe địch thường di chuyển trên quốc lộ 20. Cùng lúc với trinh sát địa hình,Ban chỉ huy Chi đội 10 đã cử người vào Sài Gòn, Đà Lạt tìm cách liên lạc, móc nối với anh em công nhân, lái xe… nhờ vậy mà ta nắm được quy luật của địch (cuối tháng 2/1948 kết hợp tin tình báo của ta ở Sài Gòn với tin tức tình báo của cấp trên đã xác định chính xác Pháp sẽ tổ chức một cuộc Hội nghị bàn việc thành lập Chính phủ Bảo Đại tại Đà Lạt vào đầu tháng 3/1948) và chọn địa điểm phục kích được chọn từ cầu La Ngà đến Định Quán (cây số 104 đến 113) để đón đánh vào thời điểm có lợi nhất. 

Dựa vào tình hình, Đảng ủy Ban chỉ huy chi đội 10 mở cuộc họp hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch tác chiến như sau: Tiêu diệt gọn đoàn xe chở cán bộ quân sự đi dự hội nghị vào đấu tháng 3/1948 trên quốc lộ 20; Phải thắng cả quân sự, chính trị, dân vận và địch vận; phải bố trí lực lượng tốt ở căn cứ để chống càn vì sau trận thu, địch sẽ trả đũa càn quét vào căn cứ kháng chiến, có kế hoạch bám sát địch, ngay từ đầu và đánh mạnh thị xã Biên Hòa, thị trấn Xuân Lộc… buộc địch phải bị động ứng phó; Tập trung lực lượng gồm 9 trung đội…; 

Kế hoạch tác chiến phải đề ra yêu cầu đảm bảo 2 yếu tố: Cách đánh là bí mật, bất ngờ, xung phong mãnh liệt; Chủ động thời gian tác chiến, giải quyết nhanh trận địa, tích cực truy kích địch kết hợp kêu gọi đầu hàng. 

Trong quá trình chuẩn bị trận đánh, Huỳnh Văn Nghệ được đề bạt làm Khu bộ phó Khu 7, kiêm Chi đội trưởng Chi đội 10 Biên Hòa. Đồng chí Nguyễn Văn Lung – Chi đội phó trực tiếp chỉ huy tổ chức trận đánh này. 

Theo kế hoạch, ngày 26/2/1948, đơn vị hành quân bí mật từ Chiến khu Đ về trận địa tây quốc lộ 20 cách căn cứ 80 km. Ngày 29/2/1948, toàn lực lượng chiếm lĩnh trận địa chiến đấu, Binh công xưởng chi đội bố trí địa lôi ở 3 trận địa A, B, C bên trên ngụy trang bằng những đống phân voi. Tại sở chỉ huy, Ban chỉ huy nhận được điện của Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ: Trận phục kích giao thông được mang tên Dương Văn Dương để kỷ niệm 2 năm ngày mất của ông – nguyên là Khu bộ phó Khu 7. 

          Trận đánh diễn ra đúng như kế hoạch của Ban chỉ huy chi đội. Lúc 15 giờ 2 phút, quả địa lôi ở mặt trận A nổ, chiếc xe bọc thép đi đầu bị phá hủy. Từ phía Tây lộ 20, lực lượng ta xung phong ra đường tấn công địch quyết liệt. 15 giờ 27 phút, địa lôi trận địa C nổ, cả đoàn xe địch bị giam vào trong trận địa, chỉ còn lại hơn 10 chiếc hoảng sợ rút chạy ngược về hướng cầu La Ngà. Trên cả ba mặt trận, Chi đội 10, liên quân 17 dũng mãnh xung phong. Địch hoàn toàn bất ngờ, chống trả yếu ớt. 

Sau hơn 40 phút chiến đấu, ta đã diệt 59 xe địch trong tổng số 69 xe, diệt 2 đại đội Pháp gồm 150 tên, 25 tên sĩ quan chỉ huy, bắt sống 1 trung úy. Trong số sĩ quan bị diệt có đại tá Desarigne, chỉ huy Lữ đoàn Lê dương thứ 13, đại tá Paruist, Phó Tham mưu trưởng thứ nhất quân đội Pháp ở Nam Đông Dương, thiếu tá chỉ huy phân tiêu khu quân sự Hóc Môn, đại úy Jean Couvreur trưởng phòng xe hơi… 

Lúc 17 giờ, 3 máy bay địch đến chi viện, bắn dữ dội vào trận địa giả ở phía Đông đường 20. Toàn bộ lực lượng ta cấp tốc hành quân trở về chiến khu Đ, kịp thời phối hợp cùng các đơn vị tại chỗ tổ chức đánh địch bẻ gãy trận càn của 4.000 quân Pháp vào căn cứ. Cùng lúc, lực lượng ta và hơn 200 tù binh địch và hành khách đi theo đoàn xe đã rút về phía Đông sông Đồng Nai an toàn. Trong số 270 tù hàng binh và hành khách, có nhiều người, binh lính bị thương và người già, sức yếu, trẻ em sau khi được chăm sóc, giải thích rõ chủ trương chính sách của Mặt trận Việt Minh, ta phóng thích tại chỗ. Số còn lại được đưa về căn cứ tập kết ở Suối Cát, gồm nhiều thành phần: trí thức, nữ tu, người buôn bán, hầu hết đều ở Sài Gòn. Tất cả được chia sẻ khẩu phần ăn đạm bạc của bộ đội. Trời mờ sáng, tất cả hành khách được hướng dẫn ra quốc lộ 20 để về Sài Gòn. Riêng Trung úy Joeffrey được điều trị vết thương gãy chân và trao trả sau này. 

Chiến thắng Là Ngà đã đi vào lịch sử không chỉ thắng lợi về mặt quân sự mà còn là thắng lợi lớn về mặt chính trị trong và ngoài nước. Chiến thắng đã đánh dấu một bước trưởng thành nhanh chóng về chất của lực lượng vũ trang Biên Hòa - Đồng Nai. Chiến thắng La Ngà đã làm thay đổi “cái nhìn” của thực dân Pháp về thế và lực của đôi bên ở chiến trường Việt Nam, đồng thời cũng làm nức lòng quân dân ta, từ đó mở ra hàng loạt chiến công vang dội khác, chiến thắng La Ngà đã trở thành biểu tượng sáng ngời tô thắm thêm hào khí “miền Đông gian lao mà anh dũng”.Với chiến thắng trên,  Bộ Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam gửi điện khen cán bộ, chiến sĩ Chi đội 10, tặng thưởng đơn vị làm nên chiến thắng La Ngà Huân chương Quân công hạng II. 

Theo thuviendongnai.gov.vn 

Việt Nam sẽ tiếp nhận công nghệ sản xuất vaccine mRNA theo sáng kiến của WHO

 Việt Nam cùng với Bangladesh, Indonesia, Pakistan, Serbia đủ điều kiện và năng lực tiếp nhận công nghệ mRNA từ trung tâm chuyển giao công nghệ mRNA của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). 

Công bố này được WHO đưa ra trong họp báo ngày 23/2 tại Geneva (Thụy Sĩ). 5 nước được lựa chọn tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine mRNA theo sáng kiến Trung tâm chuyển giao công nghệ mRNA được WHO thành lập tại Nam Phi gồm: Việt Nam, Bangladesh, Indonesia, Pakistan và Serbia. Trước đó, WHO đã công bố 6 nước tiếp nhận tại Châu Phi là Ai Cập, Kenya, Nigeria, Senegal, Nam Phi, Tunisia; hai nước tiếp nhận tại Mỹ La-tinh là Argentina và Brazil. 

Tại họp báo, WHO và Hàn Quốc cũng thông báo việc thành lập Trung tâm đào tạo sản xuất sinh phẩm tại Hàn Quốc với sự hỗ trợ của Chính phủ Hàn Quốc và sự phối hợp của Học viện WHO (trụ sở tại Lyon, Pháp) nhằm tổ chức đào tạo chuyên môn cho các nước thu nhập thấp và trung bình muốn sản xuất sinh phẩm, chẳng hạn như vaccine, insulin, kháng thể đơn dòng và các phương pháp điều trị ung thư. 

Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus cho biết: “Một trong những rào cản chủ yếu đối với chuyển giao công nghệ ở các nước có thu nhập thấp và trung bình là thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao và hệ thống quản lý yếu kém. Xây dựng những kỹ năng đó sẽ đảm bảo rằng họ có thể sản xuất các sản phẩm y tế mà họ cần với tiêu chuẩn chất lượng tốt". 

Về phía Việt Nam, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thành Long tham dự và phát biểu trực tuyến, nhấn mạnh rằng: “Việt Nam là một nước đang phát triển nhưng đã có nhiều kinh nghiệm trong phát triển vaccine trong nhiều thập kỷ qua. Hệ thống quản lý chất lượng vaccine quốc gia của Việt Nam cũng đã được WHO công nhận. Chúng tôi tin tưởng rằng khi tham gia sáng kiến này Việt Nam có thể sản xuất vaccine mRNA trên quy mô lớn không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cung cấp cho các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận vắc xin”. 

Công nghệ vaccine mRNA là công nghệ tiên tiến để sản xuất vaccine an toàn và hiệu quả cao như vaccine của Moderna, Pfizer ngừa COVID-19; cho phép cập nhật với các biến chủng mới và sản xuất với số lượng lớn, do đó không chỉ có ý nghĩa trong phòng chống COVID-19 mà còn giúp chủ động ứng phó tốt hơn với các dịch bệnh khác trong tương lai. Việc được lựa chọn nằm trong danh sách các nước nhận chuyển giao công nghệ mRNA cho thấy WHO đánh giá cao năng lực của Việt Nam trong việc làm chủ công nghệ và sản xuất vaccine quy mô lớn với chất lượng cao, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam được tiếp nhận các hỗ trợ của WHO và các đối tác quốc tế để phát triển và sản xuất thành công vaccine mRNA phòng COVID-19 và các bệnh khác trong tương lai. 

Các nước tiếp nhận sẽ được WHO hỗ trợ xây dựng kế hoạch, cung cấp đào tạo, tập huấn chuyên môn dự kiến từ tháng 3. 

Được biết, Trung tâm chuyển giao công nghệ mRNA được WHO thành lập tại thành phố Cape Town, Nam Phi vào tháng 6/2021 theo sáng kiến WHO, trên cơ sở quan hệ đối tác giữa WHO với công ty Afrigen của Nam Phi, các đối tác Nam Phi và các đối tác quốc tế, trong đó có Tổ hợp Bằng sáng chế Thuốc (MPP - tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc thúc đẩy chuyển giao công nghệ y tế miễn phí). Liên minh châu Âu (EU), nhất là các nước Bỉ, Đức, Pháp ủng hộ nỗ lực của WHO và đã hỗ trợ, đầu tư lớn cho trung tâm này. 

Theo WHO, đầu tháng 2/2022, Trung tâm chuyển giao công nghệ  vaccine  mRNA do WHO và các đối tác thành lập tại Nam Phi đã phát triển thành công vaccine COVID-19 công nghệ mRNA trên cơ sở giải trình tự công khai của vaccine Moderna và sẵn sàng cho việc chuyển giao công nghệ này cho các nước. Mặc dù mục tiêu ban đầu là ứng phó với đại dịch COVID-19, Trung tâm cũng hướng tới việc mở rộng năng lực sản xuất các sản phẩm khác, tạo điều kiện cho các nước tự chủ được việc sản xuất vaccine và các sản phẩm cần thiết phục vụ các ưu tiên y tế của mình. 

Theo CAND.  

NIỀM TIN CỦA DÂN - GIÁ TRỊ CỐT LỖI ĐẺ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

     Niềm tin là một giá trị tinh thần được hình thành trong suy nghĩ của mỗi con người. Trái ngược với niềm tin tôn giáo - con người tin vào sức mạnh siêu nhiên để mang lại sự bình an về tinh thần cho con người, niềm tin khoa học được gắn liền với những điều tích cực, như khát vọng và ước mơ về tương lai. Triết học Mác - Lênin đề cao lý tính, coi trọng thực tiễn, tri thức của con người - nhân tố cơ bản của niềm tin khoa học. Niềm tin mác-xít mang tính khách quan, là niềm tin gắn liền với quy luật phát triển của lịch sử nhân loại, lý tưởng cao đẹp và mang tính hiện thực, khác với thái độ cuông tín, bất chấp thực tiễn của niềm tin tôn giáo. Bản chất của niềm tin là dù gặp bất cứ khó khăn, nguy hiểm nào, luôn kiên định phấn đấu, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng; đồng thời, niềm tin luôn gắn với lý tưởng, trở thành niềm tin lý tưởng. Lý tưởng được nhắn tới ở đây là lý tưởng cách mạng, có lý luận dẫn đường, gắn liền với đấu tranh vì hạnh phúc của con người. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, niềm tin lý tưởng có thể chuyển hóa thành niềm tin đối với người lãnh đạo, tổ chức lãnh đạo và học thuyết cách mạng. Tuy nhiên, đó phải là học thuyết cách mạng nhất và nhân văn nhất.

    “Niềm tin” có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhìn chung đều toát lên giá trị sau: có niềm tin sẽ có tất cả, mất niềm tin là mất tất cả. Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh cho điều này và để lại cho chúng ta bài học xương máu. Hậu quả của việc đánh mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là: chỉ trong thời gian ngắn, thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bị xóa sạch ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các đảng cộng sản bị giải tán, đất nước rơi vào khủng hoảng mất phương hướng.

    Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảngdân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng... phải làm cho Đảng thật sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

    Muốn phát huy, khơi dậy niềm tin của dân, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và để Đảng luôn có sức hấp dẫn, dân luôn yêu mến, đi theo và bảo vệ Đảng cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Đảng phải luôn trung thành với lợi ích của nhân dân và dân tộc

    Đảng lãnh đạo chính là vạch ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, để nhân dân có thể tin tưởng và đi theo đường lối mà Đảng đã vạch ra thì đường lối đó phải được xác định là khoa học, đúng đắn. V.I.Lênin khẳng định: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”, đồng thời coi chủ nghĩa Mác là lý luận của giai cấp vô sản. Tiếp thu tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng đảng cầm quyền ở Việt Nam, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin lên một giai đoạn mới (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam).

    Trên nền tảng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930), trải qua nhiều thời kỳ cách mạng khác nhau, trong đó có cả sự bất hòa trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Đảng vẫn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng nước ta. Đường lối cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ lại được bổ sung, phát triển, nhưng luôn thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đã khắng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,tiếp tục được xác định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tiễn đã chứng minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hoàn toàn đúng quy luật, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và quy luật phát triển chung của xã hội loài người. Điều này được khẳng định không chỉ bằng ý chí chính trị, mà bàng thực tiễn sống động của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng và toàn dân ta. Công cuộc đổi mới được coi như cuộc “vượt cạn” trong thời bình của Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua mọi gian khó, ngày càng phát triển, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế như ngày nay. Điều đó càng thêm khẳng định niềm tin về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, niềm tin của người dân vào sự phát triển của đất nước, thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới.

    Thành công trong công cuộc phòng, chống đại dịch COVID-19 gần đây của Việt Nam đã được thế giới ca ngợi, chính là xuất phát từ chính sách cốt lõi: tất cả vì con người, vì hạnh phúc nhân dân. Điều này đã tạo ra sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, vượt qua những thách thức, khó khăn khi đại dịch đang diễn ra phức tạp như hiện nay. Trên hết vẫn là niềm tin sắt son, tinh thần đoàn kết, đồng lòng ủng hộ của nhân dân, là sự hòa quyện của “ý Đảng - lòng dân” từ việc xác định Đảng là đảng chính trị đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, cơ sở chính trị của Đảng là nhân dân, sức mạnh của Đảng là niềm tin của nhân dân, quyền lực chính trị của Đảng là do nhân dân trao cho. Vì vậy, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của quốc gia - dân tộc, lợi ích của nhân dân

Thứ hai, Đảng phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân

    Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chính vì vậy, mọi lập trường, quan điêm, giá trị, phương pháp và động lực của Đảng phải thông nhât hữu cơ với chủ thể quần chúng nhân dân; ngược lại, nếu xa rời quần chúng thì bất cứ cá nhân, tập thể hay chính đảng nào cũng đều sẽ thất bại. Có thể khẳng định, thu phục được niềm tin của nhân dân là điều kiện quan trọng, bảo toàn và nhân lên sức mạnh của Đảng, đồng thời muốn được dân tin thì mọi tư tưởng và hành động của Đảng đều phải hướng tới phục vụ nhân dân. Quan điểm này phải được đi vào thực tiễn. Tức là, Đảng thuyết phục dân bằng chính thực tiễn hoạt động của mình, là tinh thần hành động tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân, lấy sự hài lòng, tin tưởng của dân làm thước đo hiệu quả công tác lãnh đạo toàn diện sự nghiệp xây dựng và phát triên đât nước. Khi Đảng hành động vì dân thì dân sẽ luôn là lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho Đảng.

    Để hết lòng phụng sự nhân dân Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình. Đây không chỉ là nguyên tắc, mà còn là quy luật phát triển của Đảng, để củng cố niềm tin của dân đối với Đảng và chế độ.


Sự ra đời, phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình” (3)

( Tiếp)

Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ sau chính biến ở Liên Xô và Đông Âu

Ở thời kỳ này, Mỹ tiếp tục theo đuổi chiến lược "can dự” nhưng có sự điều chỉnh nhất định, tăng cường "dính líu" vào các nước nhưng bằng các biện pháp "cứng rắn” hơn, trong đó coi trọng "đòn phủ đầu” để thực hiện cái gọi là "chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ”. Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell trong một cuộc điều trần ngày 17-1-2001, tuyên bố: "Chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ sẽ không có bất kể sự nhún nhường nào khiến cho Mỹ phải rút lui khỏi thế giới, co về pháo đài của chủ nghĩa bảo hộ hoặc về một hòn đảo biệt lập”.

Sau sự kiện ngày 11-9, Mỹ ra sức lợi dụng cuộc chiến "chống khủng bố”, lấy cớ "kiểm soát việc sản xuất, tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt" để tính toán, điều chỉnh chiến lược. Đặc biệt, sau khi lôi kéo đồng minh vào cuộc chiến “chống khủng bố” và một số nước lớn ngả theo mình, Mỹ đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước cấm tên lửa đạn đạo (ABM), đẩy nhanh việc thử nghiệm Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD), thành lập Bộ tư lệnh Bắc Mỹ, tăng chi phí quân sự nhằm châm ngòi một cuộc chạy đua vũ trang mới, tăng cường khả năng răn đe để thực hiện ý đồ "xây dựng thế giới một siêu cường” do Mỹ đứng đầu. Mỹ trực tiếp can thiệp (cả bằng quân sự) vào nhiều nước để mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Đông và châu Á - Thái Bình Dương, thông qua chiêu bài "dân chủ, nhân quyền” để can dự sâu hơn, nhằm "diễn biến hòa bình” đối với các nước, hoặc gây áp lực nhằm hướng lái các nước theo “quỹ đạo” của Mỹ.

 


Sự ra đời, phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình” (2)

(Tiếp) 

… đến “chiến lược hòa bình” toàn diện

Bước vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, “diễn biến hòa bình” bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa đế quốc với tên gọi “chiến lược hòa bình”.

Kennedy sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ, đã tuyên bố: “Nước Mỹ giống như con đại bàng trên Quốc huy hình lá chắn của tổng thống, chân phải của nó cắp cành ô liu còn chân kia cắp mũi tên, phải coi trọng cả hai chân như nhau”. Theo đó, Kennedy một mặt tiếp tục thực hiện chính sách cứng rắn (bao vây, cấm vận, chống đối), mặt khác vạch kế hoạch "hòa bình" với Liên Xô (6-1961), đề xướng "liên minh vì tiến bộ”, chi 20 tỷ USD viện trợ nhằm khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Mỹ La-tinh, thành lập "đội hòa bình" ở châu Phi, điều chỉnh chiến lược quân sự "trả đũa ồ ạt" của Eisenhower trước đó thành chiến lược "phản ứng linh hoạt”, tiến hành “chiến tranh đặc biệt" ở Việt Nam.

Thời kỳ chính quyền Richard Nixon, bằng chính sách “cây gậy và củ cà rốt”, đàm phán trên thế mạnh, Mỹ tuy vẫn coi trọng răn đe hạt nhân, nhưng đã điều chỉnh cục diện ôm đồm, giảm bớt lực lượng quân sự ở nước ngoài; tạo thế cân bằng giữa các nước lớn; tăng cường tiếp xúc hòa bình với các nước xã hội chủ nghĩa, lấy hòa hoãn thay dần cho “chiến tranh lạnh”, qua đó để thẩm thấu tư tưởng và văn hóa, tác động vào kinh tế, phá hoại quốc phòng, an ninh, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong…  

Sang thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Mỹ khôi phục kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế, tăng cường sức mạnh trên một số mặt. Các nước tư bản khác cũng vượt qua khủng hoảng, sản xuất bắt đầu phát triển. Lợi dụng các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ, cải cách, mở cửa Mỹ đề ra dự án "dân chủ toàn cầu” nhằm ủng hộ sự xuất hiện của lực lượng "dân chủ” ở các nước cộng sản, tìm cách đả kích hệ tư tưởng Mác-xít, đề cao "dân chủ", "tự do” phương Tây, thúc đẩy sự hòa nhập kinh tế thế giới để lái cải cách đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Mỹ ngầm đánh vào bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời nghi binh chiến lược, tích cực tuyên truyền chạy đua vũ trang, thu hút Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa cái gọi là "chương trình SDI", kéo quân đội Liên Xô ra ngoài, chạy theo đối phó với "nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu,” loại được công cụ sắc bén của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là loại được lực lượng KGB ra khỏi cuộc chiến tranh ngầm” đang diễn ra gay gắt ngay trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ (1-1989), G.Bush đưa ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn", trong đó linh hồn là “diễn biến hòa bình”, nhằm đưa cuộc đấu tranh vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa (bằng lực lượng phản động), làm cho các nước xã hội chủ nghĩa bị xô đẩy tới chỗ sụp đổ.  

Đến đây, "diễn biến hòa bình" từ vị trí là thủ đoạn của chiến lược "ngăn chặn", "vượt trên ngăn chặn" đã trở thành một chiến lược chống cộng toàn diện. Sử dụng chiến lược này, Mỹ và các thế lực phản động đã thu được kết quả, thúc đẩy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu.

LỐI SỐNG CẦN KIỆM TRONG TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA TIẾT KIỆM HIỆN NAY

     Đức tính cần kiệm là nét nổi bật trong nếp nghĩ, việc làm của bao thê hệ người Việt Nam từ xưa đến nay. Thành tựu của quá khứ để lại cho đến hôm nay là kết tinh sức lao động bền bỉ và sáng tạo của dân tộc ta. Tuy nhiên, do trình độ kinh tế - xã hội còn thấp và người lao động dưới chế độ phong kiến bị áp bức, bóc lột bởi nhiều tầng nấc nên hiệu quả hoạt động của con người bị hạn chế rất nhiều. Song, chính trong hoàn cảnh đó, đức tính cần cù, chịu khó, bền bỉ, tiết kiệm của con người Việt Nam được tôi luyện và phát huy đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta.

    Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ý thức cần kiệm, chống lãng phí để góp phần “Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công”, xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đến nay, việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tinh thần của Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 và các quy định pháp luật liên quan đến thực hành tiết kiệm; Chỉ thị số 05;CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính tri về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chỉ Minh,... đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và nhân dân hưởng ứng nên đà có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình trạng lãng phí vẫn còn xảy ra ở nhiều noi, trên nhiều lĩnh vực, gây bức xúc trong xã hội, nhất là trong bối cảnh kinh tế đất nước và đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra yêu cầu “... kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức”

    Phát huy lối sống tiết kiệm trong truyền thống của dân tộc để xây dựng văn hóa tiết kiệm hiện nay cần lưu ý đến một số vấn đề chủ yếu sau:

    Một là, nhận rõ những mặt tích cực cơ bản cần được kế thừa và phát huy, một số hạn chế cần khắc phục và những thiếu hụt cần bổ sung trong xây dựng văn hóa tiết kiệm phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước hiện nay. Văn hóa tiết kiệm phải định hướng ý thức và hành động của con người đến việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, thời gian lao động và tài nguyên (đất đai, nguồn nước, khoáng sản, các nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên khác) một cách họp lý, hiệu quả.

    Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nhanh, bền vững, phục vụ nhân dân để tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng văn hóa tiết kiệm. Gắn tiết kiệm với phát huy tính chủ động, tích cực, đổi mới sáng tạo của các chủ thể trong sản xuất, đời sống theo quan điểmcủa Hồ Chí Minh “Cần với Kiệm, phải đi đồi với nhau, như hai chân của con người... Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, khồng phát triển được”.

    Ba là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội, của mỗi người về vai trò, ý nghĩa tích cực to lớn, lâu dài của việc thực hành tiết kiệm, chống làng phí đối với sự phát triển đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao ý thức tiết kiệm, phòng, chống lãng phí bằng nhiều hình thức phù hợp. Chú ý kết họp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục ý thức tiết kiệm, chống lãng phí đối với thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.

Sự ra đời, phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình” (1)

 

Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ cần phải “đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”. Trước đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng đặc biệt nhấn mạnh nguy cơ "diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

 Từ những biện pháp của “chiến lược ngăn chặn”…

Chiến lược "diễn biến hòa bình” ra đời vào thời kỳ chiến tranh lạnh trong bối cảnh quốc tế đang biến động phức tạp. Từ đó đến nay, chiến lược này liên tục được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng. Trước tình hình so sánh lực lượng bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết tìm kiếm giải pháp chiến lược nhằm ngăn chặn "làn sóng cộng sản” từ Đông Âu và Liên Xô. Ở giai đoạn này, với “chiến lược ngăn chặn”, Mỹ chủ trương sử dụng thủ đoạn cứng rắn, đặc biệt là thủ đoạn quân sự với con chủ bài là bom nguyên tử để “ngăn chặn” sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Tổng thống Mỹ Truman từng nói: “Mỹ phải dùng quả đấm sắt và ngôn ngữ cứng rắn để đối phó với Liên Xô”.   

Tuy nhiên, sau một thời gian, “chiến lực ngăn chặn” này không mang lại hiệu quả đáng kể. Đầu năm 1946, khi còn là đại diện lâm thời của Mỹ ở Liên Xô, G. Kennan đã kiến nghị với Nhà Trắng, phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong lòng chế độ Xô viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm "mềm hóa từng bước" để cuối cùng tan rã.

Trên cơ sở lý luận của Kennan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman công bố chính thức thực hiện chiến lược “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản; phát động cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý, chạy đua vũ trang, cấm vận kinh tế, lập vành đai bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trực tiếp can thiệp vào nội bộ nhiều nước (cả can thiệp vụ trang). Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Truman đề nghị Quốc hội Mỹ viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu USD và cử nhân viên quân sự, dân sự đến giúp duy trì nên thống trị để các nước này không “ngả vào lòng cộng sản". Tháng 11 năm 1947, Mỹ đưa ra Kế hoạch Marshall, viện trợ 14 tỷ USD, giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, ép các nước này loại bỏ những bộ trưởng là cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng dân chủ" để gây chia rẽ, phá hoại tư tưởng từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất của các kế hoạch này nhằm “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản và buộc các nước Tây Âu ngả theo và chịu sự chi phối của Mỹ.

Đối với Trung Quốc, trong một bức thư gửi Tổng thống Truman, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson khuyến cáo, "những người theo chủ nghĩa cá nhân ở Trung Quốc (phần tử theo chủ nghĩa dân chủ cũ, thân Mỹ) có thể tạo ra sự biến đổi từ bên trong, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm sụp đổ chính quyền nhân dân...". Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Ngoại trưởng F.Dulles (1953-1959) xác định, cần phải "giải phóng” họ khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải bằng một cuộc chiến tranh mà bằng "biện pháp hòa bình", phi chiến tranh. Đồng thời, Mỹ cấu kết với 14 quốc gia phương Tây, bí mật thành lập “Ủy ban thống nhất quản lý thị trường xuất khẩu” (Feria, 1949) với mục đích cuối cùng là bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa.

GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN TÁC ĐỘNG CỦA THÔNG TIN SAI TRÁI TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG ĐẾN QUÂN NHÂN Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ HIỆN NAY

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để tiến hành “diễn biến hòa Vinh”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa' trong nội bộ ta. Chúng thường xuyên các thông tin sai trái, những luận điệu vu , xuyên tạc trên không gian mạng nhằm xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hô Chí Minh, chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bịa đặt, vu cáo, nói xấu lãnh tụ, chia rẽ đoàn kêt nội bộ, tạo sự phân tâm trong xã hội, gieo rắc tâm lý hoài nghi, bi quan, dao động, mơ hồ, mất phương hướng chính trị của quân nhân. Thông tin sai trái của các thế lực thù địch trên không gian mạng đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm, lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân và Quân đội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đối với quân nhân trong quân đội, nó tác động nguy hiểm đến tư tưởng chính trị dẫn đến giảm sút niềm tin, ý chí quyết tâm, tu dưỡng, rèn luyện, làm ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống, làm cno một bọ phặn quân nhân bị “lây nhiễm”, có thể tha hóa, biến chất do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vượt qua khó khăn, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến quân nhân ở đơn vị cơ sở, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, các cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các câp trong Quân đội và các đơn vị đã có nhiều chủ trương, giải pháp ngăn chặn tác động của thông tin sai trái của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Nhờ đó đã nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhận diện được thông tin sai trái trên các trang mạng xã hội, nêu cao tinh thần cảnh giác, nhạy bén chính trị, có ý thức phòng, chống, ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng đơn vị vững mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến quân nhân ở đơn vị cơ sở vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập: Một số cấp ủy, cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ đạo ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ; nội dung, hình thức, biện pháp ngăn chặn chưa khoa học, thiếu sáng tạo; cồng tác quản lý tư tưởng, con người, các hoạt động xã hội của quân nhân còn nhiều mặt chưa chặt chẽ; một số quân nhân bị tác động đã có biểu hiện nhận thức, hành động không đúng đắn, dao động tư tưởng, dẫn đến giảm sút ý chí quyết tâm, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, tự tử, tự sát, tự thương, lộ bí mật quân sự...Thực tế đó đặt ra những đòi hỏi cấp bách phải kịp thời ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến quân nhân ở đơn vị cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

Trong tình hình mới, quán triệt, thực hiện phương châm xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại đặt ra những yêu cầu rất cao về chính trị, tư tưởng. Đê giữ vững ôn định chính trị, củng cô vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, đặc biệt là ở đơn vị cơ sở, càng đòi hỏi cấp thiết phải đẩy mạnh ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến cán bộ, chiến sĩ. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, đội ngủ cán bộ chính trị và các lực lượng đối với ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt hình thức, biện pháp ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng sát vói thực tiên tình hình đơn vị

Ba là, chủ động xây dựng các phương án tác chiến mạng và bồi dưỡng lực lượng chuyên trách đấu tranh ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng

Bốn là, tổ chức tốt các hoạt động thi đua, khen thưởng trong đấu tranh ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng hiện nay

Nhận diện mưu đồ chống phá đằng sau “bản phúc trình”

 


Mới đây, ngày 17-2-2022, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW - Human Rights Watch) đã công bố cái gọi là bản phúc trình với tiêu đề “Nhốt chúng tôi ở trong nhà: Hạn chế tự do đi lại của các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam”. Đây là luận điểm vô căn cứ, đổi trắng thay đen về tình hình tại Việt Nam.

Thực tế, lâu nay, các thế lực thù địch “khoác áo” nhân quyền để chống phá đất nước ta bằng nhiều hình thức khác nhau như: Kêu gọi trả tự do cho các “tù nhân lương tâm”; phản đối việc bắt các tay sai mà chúng gọi là “nhà hoạt động”; phản đối, kêu gọi tẩy chay các bản án xét xử các đối tượng mà chúng đã lôi kéo thành công...

Các hình thức chống phá này được “nhai đi nhai lại” với mưu đồ là nói mãi điều sai sẽ thành điều đúng. Tuy nhiên, những năm gần đây, quần chúng nhân dân đã nâng cao cảnh giác, không nghe theo các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, các tay sai phản động lần lượt bị cơ quan chức năng kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa nên các “chân rết" của chúng bị chặt đứt dần dần.

Vì vậy, bản phúc trình nói trên thể hiện sự bế tắc của các thế lực thù địch khi mà không còn nhiều người trong nước bị lôi kéo, mua chuộc. Cực chẳng đã, chúng đành phải “chuyển hướng” xuyên tạc, bôi nhọ về quyền tự do đi lại của những kẻ phản bội. Bản phúc trình cũng thể hiện một “hướng” chống phá mới của các thế lực thù địch.

Đó là, khi chưa có những “quân tốt thế mạng” (như Phạm Chí Thành, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Văn Điệp, Nguyễn Tường Thụy) thì triệt để tìm những chuyện “bên lề” để hạ thấp hình ảnh Việt Nam.

Cách thức này như một chiếc áo được chúng “khoác” lên các tổ chức nhân quyền mà HRW là điển hình. Từ đó, chúng hướng các tổ chức nhân quyền khác làm theo và lập nên cái gọi là “hồ sơ nhân về quyền thông thường” ở Việt Nam và nhiều nước khác.

Công bố cái gọi là bản phúc trình, HRW đã “lòi đuôi cáo” khi Phil Robertson nói: “Các nhà tài trợ và đối tác thương mại của Việt Nam cần nhận thức được sự cản trở đối với quyền tự do đi lại đang diễn ra hằng ngày và gây sức ép để chính quyền Việt Nam chấm dứt cách hành xử gây tê liệt người dân như thế.”

Rõ ràng, mục đích chính của chúng là làm méo mó hình ảnh của đất nước ta trên trường quốc tế. Từ đó, kêu gọi các tổ chức, cá nhân, các đối tác thương mại tẩy chay Việt Nam. Về lâu dài, sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội; từ đó, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thực chất, HRW không vì nhân quyền ở Việt Nam.

Tất nhiên, với các tổ chức nhân quyền như HRW, ngoài việc tài trợ của các thế lực thù địch thì việc tuyên bố các bản phúc trình như trên cũng không ngoài mục đích kêu gọi tài trợ.

Vì thế mà trên website của tổ chức này luôn hiện từ “donate now” (ủng hộ ngay bây giờ); và, sau mỗi bài viết đều có một biểu mẫu kêu gọi: “Món quà được khấu trừ thuế của bạn có thể giúp ngăn chặn vi phạm nhân quyền và cứu sống khắp nơi trên thế giới. Ủng hộ ngay: 50$, 100$, 250$...”.

Và tất nhiên, số tiền tài trợ, ủng hộ cho tổ chức này sẽ không được sử dụng để bảo vệ nhân quyền mà chỉ nhằm chống phá những đất nước không cùng “phe” với chúng. (trích Báo QĐND)

Những luận điệu sai lệch về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng

 

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá, đưa ra những luận điệu xuyên tạc hòng làm lung lạc về nhận thức, niềm tin đối vai trò, vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Từ đó, chúng tích cực vận động, tập trung lực lượng, đẩy mạnh hoạt động chống phá hòng làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là âm mưu, luận điệu nguy hiểm, cần được nhận diện, đấu tranh, phản bác trong công tác tư tưởng hiện nay. Những luận điệu này tập trung ở những điểm sau đây:

Một là, các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ  nhận cơ sở lý luận về vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong điều kiện khủng hoảng về đường lối cứu nước, đã xuất hiện nhiều khuynh hướng đấu tranh, nhiều lực lượng cách mạng, tuy nhiên đều không thể giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra chân lý con đường cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời, lãnh đạo, đoàn kết, tập hợp lực lượng của Đảng đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đem lại vị thế, cơ đồ đất nước như ngày hôm nay. Thực tiễn khách quan là minh chứng khẳng định rõ, không thể nói chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm ý thức hệ, sai lầm lịch sử như các luận điệu chống phá.

Hai là, các đối tượng cố gắng lập luận, quy kết thể chế chính trị ở Việt Nam tạo lập vị trí của Đảng đứng trên Hiến pháp, cho rằng Đảng đã và đang tham nhũng quyền lãnh đạo, cai trị đất nước, chuyên quyền, độc đoán.

Chúng ta đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua bao giông tố, thác ghềnh, đưa dân tộc Việt Nam tới những thắng lợi hiển hách, thống nhất non sông đất nước, mang lại độc lập cho dân tộc. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Với cơ sở như vậy thì luận điệu rêu rao “trong thể chế chính trị ở Việt Nam, Đảng đứng trên Hiến pháp, tham nhũng quyền lãnh đạo, và bám giữ quyền cai trị đất nước; một thể chế độc đảng là chuyên quyền, độc đoán” là hoàn toàn sai trái. Rõ ràng, luận điệu này nhằm mục đích phá hoại, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ba là, dưới chiêu bài góp ý về đổi mới thể chế chính trị Việt Nam, các đối tượng đưa ra những luận điệu chống phá núp dưới dạng kiến nghị, đòi hỏi phải “đổi mới chính trị” bằng cách phải thực hiện thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Trước hết, cần thấy rằng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nằm trong âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” mà mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, chúng đòi hỏi phải thực hiện xóa bỏ ngay Điều 4 của Hiến pháp. Thực chất luận điệu này là tạo điều kiện, tiền đề cho việc ra đời và công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối lập, từ đó cạnh tranh vai trò lãnh đạo, tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng rêu rao nước ta vẫn còn tình trạng khủng hoảng, đói nghèo là hậu quả của chính sách cai trị độc tài dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị là chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng Cộng sản áp đặt trên đất nước Việt Nam. Chúng tập trung xuyên tạc vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, vu cáo rằng đó là chiếm quyền để cai trị nhân dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, "độc đoán, đảng trị"… Luận điệu này xuyên tạc bản chất chính trị, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, đẩy quần chúng, nhân dân xa rời, đối lập với Đảng, thúc đẩy thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Bốn là, các đối tượng lợi dụng những vấn đề mang tính tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội như thiếu sót, bất cập trong cơ chế, chính sách, tình trạng tham nhũng... để hướng lái, xuyên tạc bản chất của chế độ, quy tiêu cực do hệ quả sự lãnh đạo của Đảng.

Trong quá trình đổi mới, các lĩnh vực của đời sống xã hội vừa được xây dựng, tổng kết, rút kinh nghiệm và từng bước hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn. Những vấn đề như kinh tế thị trường định hướng XHCN còn những hạn chế, hoàn thiện còn chậm; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ; nhiều cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đạt mục tiêu. Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hoạt động chưa cao; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí mặc dù đạt được những kết quả tích cực song còn nhiều tồn tại, hạn chế; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn những bất cập… Dựa vào những hạn chế, tồn tại nói trên, các thế lực thù địch lợi dụng để suy diễn, xuyên tạc, thổi phồng dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng lập luận, quy chụp bằng những luận điệu chính trị hóa, cho rằng đó là bản chất của chế độ XHCN và là hậu quả của Đảng. Những luận điệu này làm cho những người không có tư tưởng chính trị vững vàng dễ bị lầm tưởng, hồ nghi, thậm chí xét lại, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị.

Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đánh giá:“Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN”. Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tin tưởng, kiên định, đấu tranh, hy sinh, thực hiện con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình” mà Đảng lựa chọn.

Bộ mặt thật của đạo “Bà Cô Dợ”

 

Đạo “Bà Cô Dợ” còn gọi là Hội Thánh Đức Chúa trời yêu thương chúng ta do Vừ Thị Dợ (SN 1978, người Mông, sinh sống ở thành phố Milvvaukee, bang Wilcosin nước Mỹ) thành lập và làm Hội trưởng cuối năm 2016.

Sau đó, đạo đã được truyền sang các nước khác, trong đó có Việt Nam. Từ tháng 11/2016, đạo “Bà Cô Dợ” xuất hiện ở hai huyện Mường Tè và Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu. Sau đó, ảnh hưởng đến một số huyện của tỉnh Điên Biên với tốc độ phát triển nhanh và thu hút nhiều người dân tham gia, đặc biệt trong đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).

Đạo “Bà Cô Dợ” không có hiến chương, điều lệ rõ ràng. Đối tượng Vừ Thị Dợ chỉ lợi dụng xuyên tạc một số câu, điều trong Kinh thánh Cựu ước, Tân ước để giảng dạy, tuyên truyền đạo. Vừ Thị Dợ tuyên truyền con trai út Cứ Nu Si Lông chính là Chúa Giê Su tái thế, sẽ cai trị người Mông trong 1.000 năm. Vừ Thị Dợ còn tự nhận mình là người được Chúa Trời chọn để tái lâm lần thứ 2; không phải đóng 10 % thu nhập, ai tin theo đạo “Bà Cô Dợ” sẽ được chia tiền.

Tìm hiểm về Vừ Thị Dợ được biết, trước đây Dợ từng theo Công giáo và hệ phái Tin lành CMA nhưng thường xuyên tạc Kinh thánh nên đã bị trục xuất khỏi giáo hội. Sau khi tách ra, Vừ Thị Dợ tích cực đi tuyên truyền lôi kéo người tham gia. Về mặt tổ chức, Vừ Thị Dợ đóng vai trò làm Hội trưởng, Vù Thị Mỹ - Phó Hội trưởng 1, Sùng Thị Mỷ - Phó Hội trưởng 2, Thào Chứ Lầu - Phó Hội trưởng 3 và Vàng A Páo - Thư ký.

Lễ nghi sinh hoạt của “Bà Cô Dợ” cơ bản giống với các điểm nhóm theo đạo Tin lành.

Bản chất của đạo “Bà Cô Dợ” chính là hoạt động lợi dụng đạo Tin lành tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”. Đạo “Bà Cô Dợ” ảnh hưởng trực tiếp hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, lôi kéo người tin theo. Thành phần chủ yếu là đồng bào người Mông và đã là tín đồ của Hội thánh Tin lành. Thời điểm cao nhất vào năm 2017-2019, tổ chức “Bà Cô Dợ” đã có 19 điểm, nhóm với 773 người. Thời gian sau này, do nhận ra bản chất nên một số trường hợp đã từ bỏ, tính đến tháng 4/2021, tổ chức “Bà Cô Dợ” đã giảm số người. 

Các đối tượng cầm đầu đồng thời tiếp tục tuyên truyền các nội dung thiếu khoa học như “trái đất sẽ bị huỷ diệt” “ngày tận thế” có liên quan đến dịch COVID 19,... Nội dung tuyên truyền là “Chúa sẽ làm cho trái đất nổ tung hết, sẽ làm cho con người bị diệt vong hết; làm cho trái đất khô cằn, làm cho con người chết dần. Lý do Chúa hủy diệt trái đất là vì con người không làm theo lời của Chúa, không theo ý Chúa, khi Trái đất bị hủy diệt là lúc mà Chúa quay về, cây cối sẽ bị khô héo hết, giống như dịch bệnh COVID-19. Và hiện nay, như mọi người đã biết các quán karaoke, chợ lớn... đều đóng cửa hết, con người không đi lại được, niềm vui của con người sẽ không còn, bây giờ mới là bắt đầu thôi”.

Những luận điệu tuyên truyền phản khoa học trên thay lời muốn nói thêm một lần nữa khẳng định, hiện tượng mang màu sắc tôn giáo có tên gọi “Bà Cô Dợ” đã lợi dụng niềm tin tín ngưỡng của chính đồng bào Mông, đi ngược lại mong muốn phát triển, xâm hại trực tiếp truyền thống văn hóa lâu đời, bản sắc tốt đẹp của dân tộc Mông. Đó là hành vi của những kẻ mưu đồ chống phá Nhà nước, lật đổ chính quyền nhân dân, gây chia rẽ

Đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước

 

Trên cơ sở nhận diện hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước nói trên, thời gian tới để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, các ban ngành chức năng và cấp ủy, chính quyền các địa phương cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tăng cường công tác tuyền truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo và âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Đảng, Nhà nước để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác, tuân thủ nghiêm pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo cũng như quy định khác liên quan. Công tác tuyên truyền cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và với nhiều hình thức đa dạng, đi vào đời sống của người dân.

Hai là, tiếp tục quan tâm củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về tôn giáo để chủ động phát hiện những sơ hở, thiếu sót và kịp thời có biện pháp khắc phục. Tổ chức tốt việc nắm bắt tâm tư, giải quyết những nguyện vọng chính đáng của đồng bào chức sắc, tín đồ các tôn giáo.

Ba là, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc, nhất là địa bàn trọng điểm, phức tạp về tôn giáo. Phải coi đây là một công tác trọng tâm, cơ bản đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy Đảng, sự điều hành quản lý của chính quyền và huy động được các ngành, các cấp cùng tham gia.

Bốn là, thực hiện tốt công tác tranh thủ chức sắc, người có uy tín trong các tôn giáo nhằm thúc đẩy xu hướng hoạt động tôn giáo thuần túy, tuân thủ pháp luật và đồng hành cùng dân tộc. Chú trọng phát huy vai trò của chức sắc, người có uy tín trong tôn giáo trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước và góp phần giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong tôn giáo.

Năm là, kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kiên quyết xử lý các hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính thượng tôn pháp luật.

Nhận diện hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng và nhà nước Việt Nam

 

Các thế lực thù địch luôn ráo riết tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, những năm gần đây, lợi dụng chính sách đối ngoại và chính sách tôn giáo của ta ngày càng cởi mở hơn, các đối tượng gia tăng lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo sức ép từ bên ngoài, tìm cách gây mất ổn định an ninh chính trị ở bên trong, nhằm tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Nổi lên hiện nay là một số hoạt động sau:

Một là, tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm quyền tự do tôn giáo. Lợi dụng tính chất nhạy cảm của tôn giáo và một số hạn chế, thiếu sót của chính quyền các địa phương trong công tác tôn giáo, thời gian qua, các thế lực thù địch cùng với bọn phản động trong và ngoài nước đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng cho rằng, hệ thống chính sách pháp luật về tôn giáo của Việt Nam không tương đồng với luật pháp quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; thậm chí, chúng còn trắng trợn xuyên tạc việc xây dựng, ban hành quy định pháp luật về tôn giáo là "thòng lọng" đối với hoạt động của các tôn giáo; xuyên tạc việc xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, hành chính, dân sự… liên quan chức sắc, tín đồ tôn giáo là "đàn áp tôn giáo"; kêu gọi các nước lấy vấn đề tự do tôn giáo để làm điều kiện trong việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác song phương cũng như đa phương, qua đó tìm cách can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam. Đặc biệt, có chức sắc còn công khai đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại Việt Nam,

Hai là, lợi dụng các vấn đề tiêu cực trong xã hội, các vụ việc phức tạp liên quan tôn giáo để kích động chức sắc, tín đồ gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 

 Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước đã và đang ráo riết triển khai nhiều chiến dịch tuyên truyền nhằm thổi phồng các tiêu cực trong xã hội, quy chụp mọi tồn tại, hạn chế hiện nay là do sai lầm trong công tác lãnh đạo của Đảng, yếu kém trong công tác điều hành, quản lý của Chính phủ; từ đó, chúng móc nối, lôi kéo, kích động chức sắc, tín đồ các tôn giáo tổ chức các cuộc tập trung đông người tuần hành, biểu tình với danh nghĩa bảo vệ cuộc sống của người dân, bảo vệ người yếu thế để chống chính quyền; tăng cường phát triển lực lượng chống đối trong các tôn giáo, tạo thế liên tôn, liên kết trong - ngoài nhằm âm mưu tiến hành các cuộc tập dượt cho "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" tại Việt Nam.

Ba là, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, tự trị. Lợi dụng một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu…, thời gian qua các thế lực thù địch và bọn phản động lập ra nhiều tổ chức núp bóng dưới danh nghĩa tôn giáo để tập hợp, lôi kéo đồng bào dân tộc; để từ đó, dùng thần quyền, giáo lý chi phối họ tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước.

Chiêu trò “Xếp hạng dân chủ”

     Mới đây, tổ chức có tên là Bộ phận Tình báo Kinh tế (EUI) đã đưa ra Báo cáo chỉ số Dân chủ năm 2021. Theo đó, Việt Nam bị xếp vào nhóm nước phi dân chủ, độc tài. (?). Mừng như bắt được vàng, các tổ chức phản động, thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam ở hải ngoại lập tức đăng tải trên các trang mạng xã hội những lời bình luận sống sượng, hả hê, bất chấp sự thật khách quan hoàn toàn trái ngược. Trong bài viết “Việt Nam trong top 10 nước đứng cuối bảng xếp hạng dân chủ” đăng trên trang facebook, tổ chức khủng bố Việt Tân rêu rao: “...Cuối cùng phải nói đến Việt Nam, nơi mà trong thời gian hai năm qua bắt giam và xử án tù thật nặng hàng loạt nhà văn, ký giả độc lập và các nhà bất đồng chính kiến ôn hòa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới một thể chế tam quyền phân lập giả mạo, trở thành kẻ thù lâu dài của xã hội dân sự và của Internet, đã biến đất nước thành một nhà tù lớn mà mọi công dân đều có thể vi phạm tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước…” quy định trong điều 331 mơ hồ của Bộ Luật Hình Sự. Vì vậy Việt Nam bị xếp trong Top 10 quốc gia cuối bảng, đứng hạng bảy từ dưới lên, chỉ trên Cambodia, Trung Quốc, Lào, Bắc Hàn, Miến Điện và Afghanistan là những quốc gia có bộ máy cai trị phi dân chủ nhất thế giới...”.

    Trước hết, cần khẳng định cái gọi là “Báo cáo chỉ số Dân chủ” hoàn toàn vô giá trị về mặt pháp lý. Tổ chức Bộ phận Tình báo Kinh tế (EUI) thuộc tập đoàn Economist tại Anh khai sinh từ năm 2006 và từ năm 2010 tự cho mình cái quyền ra mắt đều đặn các báo cáo chỉ số dân chủ của các quốc gia một cách phiến diện, thiếu khách quan, áp đặt phi lý. Trong số 167 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng “dân chủ”, thì chỉ có 74 quốc gia “dân chủ” hoặc “dân chủ thiếu sót” bao gồm Mỹ và toàn bộ các quốc gia châu Âu. Thế ra tổ chức này cho rằng chỉ có các mô hình chính trị của châu Âu hay nước nào giống châu Âu nhất mới có “dân chủ”. Thật nực cười khi một nhóm thiểu số các quốc gia lại ngông cuồng áp đặt khái niệm “dân chủ” theo ý mình cho phần còn lại của thế giới. Hữu xạ tự nhiên hương, nếu đúng nghĩa nhân văn, tốt đẹp, mang lại giá trị tích cực cho người dân thì “dân chủ kiểu Mỹ”, “dân chủ kiểu tư bản Châu Âu” sẽ tự lan tỏa, phổ quát, chiếm đại đa số trong bảng xếp hạng chứ đâu đến nỗi chưa được một nửa như bản báo cáo xếp hạng?.

    Trên thực tế, thực hiện dân chủ nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày thành lập tới nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ có nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm chủ”, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trải qua cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và sau đó là cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

    Chủ trương đúng đắn, hành động quyết liệt, gần tám thập niên từ khi thành lập nhà nước dân chủ nhân dân, đặc biệt là hơn 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong việc thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Hai năm qua, đại dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế-xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, chính trong thời điểm gian lao nhất, tính ưu việt, nhân văn của thể chế dân chủ XHCN ở Việt Nam càng được thể hiện rõ. Hàng loạt các giải pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần cho người dân đã được Đảng, Nhà nước nỗ lực triển khai thực hiện. Niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước ngày càng được củng cố và trở thành quan hệ hữu cơ, bền chặt. Đây cũng chính là biểu hiện cao nhất của Dân chủ.

    Tất nhiên, quốc gia nào cũng vậy, dân chủ luôn phải đi liền với trật tự, kỷ cương, thượng tôn pháp luật. Những kẻ lợi dụng tự do, dân chủ để chống phá Nhà nước, làm tổn hại lợi ích của nhân dân sẽ bị nghiêm trị theo quy định pháp luật hiện hành. Việc “xếp hạng dân chủ” áp đặt, sai lệch sự thật khách quan cũng như các hành vi “kêu gọi tự do”, “trao giải” nhân quyền, tự do truyền thông... cho các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam đang thụ án cải tạo lao động càng cho thấy bản chất, âm mưu thâm hiểm của một số tổ chức, cá nhân vẫn thường rêu rao các mỹ từ cao đẹp...



Vấn đề tôn giáo bị lợi dụng

 

Trong quá trình thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam, các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước luôn chú ý lợi dụng vấn đề tôn giáo, coi đây là một trong những mũi tiến công chủ đạo nhằm thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam.

Tính đến tháng 9/2021, Việt Nam có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với gần 26 triệu tín đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Ngoài ra, còn có khoảng 140 tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân với khoảng 1 triệu tín đồ, đa phần sinh hoạt tại gia hoặc thuê, mượn địa điểm sinh hoạt tôn giáo, không có cơ sở thờ tự. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước luôn nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả hết sức quan trọng, được dư luận trong nước và quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo được kịp thời bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo và phù hợp với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Các tổ chức tôn giáo được tạo thuận lợi trong hoạt động và ngày càng phát triển về mọi mặt; đồng bào các tôn giáo ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó, đồng hành với dân tộc. Một số lễ trọng của các tôn giáo lớn như: Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh… đã trở thành lễ hội chung của đông đảo nhân dân, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch không chấp nhận thực tế trên và chúng ráo riết tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, những năm gần đây, lợi dụng chính sách đối ngoại và chính sách tôn giáo của ta ngày càng cởi mở hơn, các đối tượng gia tăng lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo sức ép từ bên ngoài, tìm cách gây mất ổn định an ninh chính trị ở bên trong, nhằm tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

ĐÔI ĐIỀU VỀ SỨC MẠNH MỀM!

     Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, văn hóa chính là căn cước để các quốc gia, dân tộc hội nhập nhưng không hòa tan.

    Văn hóa là một khái niệm rộng, có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa: Văn hóa nên được đề cập như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.

    Ở nước ta, văn hóa cũng được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, từ quan điểm thông dụng chỉ học thức, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng đến quan niệm văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử, nghĩa là con người sáng tạo, tích lũy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và như vậy, văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, là biểu hiện của văn minh, vừa mang dấu ấn chung của nhân loại, vừa in đậm dấu ấn của mỗi dân tộc, mỗi đất nước. Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, văn hóa chính là căn cước để các quốc gia, dân tộc hội nhập nhưng không hòa tan.

    Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt nguyên tắc và mục tiêu “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Để có nền văn hóa tiên tiến, chúng ta phải tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các quốc gia khác trên thế giới, những thành tựu mới trong lĩnh vực văn hóa của quốc tế; bên cạnh đó, chúng ta phải gìn giữ và phát huy tinh hoa văn hóa của dân tộc được bồi đắp qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới để đóng góp vào văn hóa chung của cả loài người.

    Kinh tế phát triển dẫn đến sự thay đổi về nhiều mặt, trong đó có vấn đề văn hóa. Bên cạnh những yếu tố tích cực thì xuất hiện những hiện tượng phản văn hóa. Đó là thái độ phủ nhận những chuẩn mực, giá trị của nền văn hóa chung. Nó xung đột, đối lập với các chuẩn mực, giá trị chung của toàn xã hội. Coi thường chuẩn mực chung trong giáo dục gây ra những tiêu cực, những chuyện đau lòng; chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá nên dẫn đến những dự án gây ô nhiễm môi trường, lừa đảo trong kinh doanh, sản xuất và buôn bán hàng giả... đến vấn nạn tín dụng đen; coi thường chuẩn mực trong giao thông gây ra những vụ tai nạn, khiến thiệt hại về người và tài sản rất nghiêm trọng...

    Hay một hiện tượng dễ thấy nhất là khủng hoảng hệ giá trị, dẫn đến những biểu hiện bất thường từ những chuyện như: Dâng cúng bánh chưng lớn nhất, chai rượu lớn nhất đến những biệt phủ thật hoành tráng, những đám cưới thật to… trong lúc thu nhập chính đáng còn thấp, đời sống của nhân dân nhiều nơi rất khó khăn. Sự khủng hoảng giá trị đó còn dẫn đến hiện tượng học giả, bằng thật rồi bằng giả, bổ nhiệm thật, đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí gây ra những hệ lụy rất tệ hại.

    Chính vì vậy mà vấn đề nêu gương của cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân cũng đang được đặt ra một cách bức thiết. Dù nghị quyết rất hay, chủ trương rất đúng nhưng chính cán bộ, đảng viên không gương mẫu thực hiện, thậm chí làm ngược lại thì không thể thuyết phục được quần chúng nhân dân, chưa kể nó làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Do đó, nhìn một cách phổ quát, văn hóa đúng là ngọn đuốc soi đường, sức mạnh mềm!