Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022

Sự ra đời, phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình” (1)

 

Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ cần phải “đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”. Trước đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng đặc biệt nhấn mạnh nguy cơ "diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

 Từ những biện pháp của “chiến lược ngăn chặn”…

Chiến lược "diễn biến hòa bình” ra đời vào thời kỳ chiến tranh lạnh trong bối cảnh quốc tế đang biến động phức tạp. Từ đó đến nay, chiến lược này liên tục được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng. Trước tình hình so sánh lực lượng bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết tìm kiếm giải pháp chiến lược nhằm ngăn chặn "làn sóng cộng sản” từ Đông Âu và Liên Xô. Ở giai đoạn này, với “chiến lược ngăn chặn”, Mỹ chủ trương sử dụng thủ đoạn cứng rắn, đặc biệt là thủ đoạn quân sự với con chủ bài là bom nguyên tử để “ngăn chặn” sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Tổng thống Mỹ Truman từng nói: “Mỹ phải dùng quả đấm sắt và ngôn ngữ cứng rắn để đối phó với Liên Xô”.   

Tuy nhiên, sau một thời gian, “chiến lực ngăn chặn” này không mang lại hiệu quả đáng kể. Đầu năm 1946, khi còn là đại diện lâm thời của Mỹ ở Liên Xô, G. Kennan đã kiến nghị với Nhà Trắng, phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong lòng chế độ Xô viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm "mềm hóa từng bước" để cuối cùng tan rã.

Trên cơ sở lý luận của Kennan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman công bố chính thức thực hiện chiến lược “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản; phát động cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý, chạy đua vũ trang, cấm vận kinh tế, lập vành đai bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trực tiếp can thiệp vào nội bộ nhiều nước (cả can thiệp vụ trang). Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Truman đề nghị Quốc hội Mỹ viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu USD và cử nhân viên quân sự, dân sự đến giúp duy trì nên thống trị để các nước này không “ngả vào lòng cộng sản". Tháng 11 năm 1947, Mỹ đưa ra Kế hoạch Marshall, viện trợ 14 tỷ USD, giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, ép các nước này loại bỏ những bộ trưởng là cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng dân chủ" để gây chia rẽ, phá hoại tư tưởng từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất của các kế hoạch này nhằm “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản và buộc các nước Tây Âu ngả theo và chịu sự chi phối của Mỹ.

Đối với Trung Quốc, trong một bức thư gửi Tổng thống Truman, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson khuyến cáo, "những người theo chủ nghĩa cá nhân ở Trung Quốc (phần tử theo chủ nghĩa dân chủ cũ, thân Mỹ) có thể tạo ra sự biến đổi từ bên trong, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm sụp đổ chính quyền nhân dân...". Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Ngoại trưởng F.Dulles (1953-1959) xác định, cần phải "giải phóng” họ khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải bằng một cuộc chiến tranh mà bằng "biện pháp hòa bình", phi chiến tranh. Đồng thời, Mỹ cấu kết với 14 quốc gia phương Tây, bí mật thành lập “Ủy ban thống nhất quản lý thị trường xuất khẩu” (Feria, 1949) với mục đích cuối cùng là bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét