Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là kết quả của việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản cũng như phong trào công nhân quốc tế của toàn Đảng. Điều đó, được thể hiện rất rõ trong tất cả các bài viết của cuốn sách, thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Một là, tổng kết thực
tiễn đổi mới cùng với nghiên cứu lý luận giúp chúng ta khắc phục những quan
niệm giản đơn về CNXH, làm cho nhận thức về CNXH đúng đắn hơn, sâu sắc hơn.
Trong cuốn sách, Tổng Bí thư khẳng định “Trong những năm tiến hành công cuộc
đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam
từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm
đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với
nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ
phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế;
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp
quyền với nhà nước tư sản...”.
Hai là, tổng kết thực
tiễn đổi mới cùng với nghiên cứu lý luận giúp chúng ta hình thành được mô hình
CNXH Việt Nam. Chính nhờ tổng kết thực tiễn, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần
tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhưng Đảng ta đã hình thành nhận thức tổng quát về
mô hình CNXH Việt Nam với tám đặc trưng phù hợp thực tiễn Việt Nam. Để thực
hiện được tám đặc trưng đó, chúng ta cần triển khai tám phương hướng lớn.
Ba là, tổng kết thực
tiễn đổi mới cùng với nghiên cứu lý luận giúp chúng ta nhận thức rõ hơn, đúng
hơn về thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Từ tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt
Nam, nhất là hơn 35 năm đổi mới mà Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng “Việt Nam
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh,
hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho
nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”. Vì vậy “quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì
nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội”. Do đó, không thể chủ quan, nóng vội được.
Bốn là, tổng kết thực
tiễn đổi mới cùng với nghiên cứu lý luận giúp chúng ta xác định rõ và đúng nội
hàm của “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Trước đây nhận thức về “bỏ qua” chế
độ TBCN cũng giản đơn, thiếu thống nhất. Hiện nay, qua tổng kết thực tiễn xây
dựng CNXH ở nước ta cho thấy “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế
độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt
được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những
thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
Năm là, tổng kết thực
tiễn đổi mới cùng với nghiên cứu lý luận giúp chúng ta bổ sung, phát triển một
số vấn đề lý luận về CNXH Việt Nam. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
1) Đưa ra quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư đã khẳng định rất rõ “Đưa ra quan niệm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là
thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Đây là
kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam vừa có những
đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường lại vừa có những đặc trưng
rất Việt Nam. Đó là có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đúng như Tổng Bí thư khẳng định “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử
phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”. Đặc
biệt chính từ thực tiễn Việt Nam, tổng kết thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã nhận
thức sâu sắc rằng “đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của
định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”.
2) Đưa ra mô hình nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư chỉ ra rất
rõ “Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là
ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ
và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà
nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực
hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
3) Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chính tổng kết thực
tiễn đổi mới, nghiên cứu lý luận đã giúp Đảng ta phát triển lý luận về vai trò,
vị trí của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư
chỉ rõ “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định
phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng,
dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại,
phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối
sống và thẩm mỹ ngày càng cao”.
4) Nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Từ tổng kết thực tiễn đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, khi thực hiện các định hướng lớn xây dựng CNXH chúng ta phải nhận
thức và xử lý tốt các quan hệ lớn. Đại hội XI xác định 8 quan hệ lớn, tổng kết
thực hiện nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII bổ sung thêm 1 quan hệ lớn và tổng
kết thực hiện nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung thêm “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm
kỷ cương xã hội”. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư nêu rất rõ
“chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn
định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ;”. Đối với Việt Nam đi lên CNXH từ xuất phát điểm thấp
lại bị ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc thì
đúng như Tổng Bí thư nhấn mạnh “Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy
luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới
của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với
thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán
triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực
đoan, phiến diện”.
Qua những đánh giá trên chúng ta thấy tổng kết thực tiễn có vai
trò to lớn trong bổ sung, phát triển lý luận về CNXH. Tuy nhiên, đúng như Tổng
Bí thư cũng khẳng định trong cuốn sách “Đất nước ta đã qua 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, Đảng ta đã qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, song
hiện vẫn còn không ít vấn đề lý luận, thực tiễn chưa được luận giải thấu đáo và
làm sáng tỏ; vẫn còn những vấn đề mới mà thực tiễn phát triển của thế giới,
nhất là của Việt Nam đặt ra cần được nghiên cứu, tổng kết để góp phần phát
triển, hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, làm cơ sở tăng
cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các
thế lực thù địch, phản động”. Do vậy chúng ta phải không ngừng đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn nâng tầm lý luận của Đảng.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét