Thứ Ba, 1 tháng 11, 2022

NÓI THẬT: LOẠN NGÔN, LỘNG NGÔN

 

 

Trong xã hội ta, từ xưa đến nay có một căn bệnh mãn tính khó chữa và xem ra càng nặng hơn trong thời hiện đại, khi mạng xã hội trở nên thông dụng như cuốn sách để ngỏ của mỗi cá nhân. Đó là bệnh loạn ngôn. Bệnh này còn có những người anh em “sinh ba, sinh tư” là lộng ngôn, ngoa ngôn, xảo ngôn.

Loạn ngôn thường thấy ở những người bạ đâu nói đấy, bất chấp phép tắc, nói “như đúng rồi” mà không nghĩ tới hậu quả. Lộng ngôn thể hiện qua những lời đay nghiến, phỉ báng, một tấc đến trời. Ngoa ngôn thì gặp từ vỉa hè đến nơi công sở, chả hiếm những lời quá quắt, thị phi, phải trái bất phân. Còn xảo ngôn thì lắm khi nghe có vẻ lọt lỗ tai, nhưng thường là lời bịa đặt, giả dối. Đáng chú ý, trong rất nhiều thứ loạn ngôn ngoài đường phố, trong công sở thì biểu hiện này trên các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Twitter, TikTok, Instagram… là phổ biến nhất. Các nhân vật “chém” mạnh nhất lại thường là một số người trong giới nghệ sĩ, trí thức, làng văn, làng báo… Họ là những người có sức ảnh hưởng lớn tới công chúng. Chính vì thế, sức công phá của những quả tù mù có khói độc nguy hại khôn lường. Loạn ngôn, lộng ngôn nhảy dựng lên trên những sân khấu nào? Thôi thì đủ cả, chuyện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là chuyện nhân sự. Họ thông tin, bình luận, phán xét với cách nhìn phiến diện, chủ quan và cả những ác ý nhằm giải tỏa những ấm ức cá nhân, hoặc nhằm trả thù một ai đó. Họ bàn chuyện trong nước, ngoài nước, chuyện chính sử, chuyện ngoài chính sử, từ chuyện vô lối như “đưa lược cho sư” đến chuyện hoang đường “gà mái gáy”. Họ nhất quyết tin “cỏ bên kia đồi luôn xanh”, cái gì của tây cũng nhất, còn của ta thì chỉ đáng nải chuối cuối buồng. Có cán bộ cấp cao gương mẫu không đi máy bay vé VIP, đáng hoan nghênh chứ, vậy mà cũng có người dè bỉu “diễn ấy mà” (!). Thậm chí, công việc đại sự chống tham nhũng cũng có những “anh hùng bàn phím” nhảy vào xiên xẹo lung tung, cho rằng, chẳng qua đây là cuộc thanh trừng nội bộ, là nhằm phang “chết tươi” hoặc “có sống cũng thành tật” những người thuộc phe này, nhóm kia. Hơn hai năm cả nước gồng mình chống đại dịch Covid-19, cùng với những điều tốt đẹp cũng không ít chuyện đáng buồn, trong đó có chuyện ngồi lê đôi mách, một tấc đến trời. Đến mức có những đối tượng đã bị xử lý trước pháp luật. Điển hình là trường hợp một cá nhân ở quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội đã đăng tải gần 300 bài viết, đưa các thông tin bịa đặt trên Facebook, ám chỉ một số cá nhân đại diện các công ty đang niêm yết trên sàn chứng khoán sắp bị bắt, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán, làm thiệt hại về kinh tế, uy tín của tổ chức, cá nhân và nhà đầu tư. Trường hợp khác là một nữ doanh nhân ở phía Nam đã tổ chức nhiều buổi phát trực tiếp những thông tin từ “trên trời rơi xuống”, tùy tiện sử dụng những từ “lộng ngôn, loạn ngôn, xảo ngôn” mang tính chất nhục mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.

Đấy là trường hợp vi phạm pháp luật. Còn có những trường hợp tuy không vi phạm nhưng lại gây nhức nhối, tê buốt, như vướng cái dằm lim trong kẽ móng tay. Lời nói gió không bay mà nó luẩn quẩn, găm vào óc, vào tim bao người, nhất là với các bạn trẻ, gây lệch chuẩn, rối loạn giá trị. Có cả những anh nói năng lưu loát, luôn tỏ vẻ ta đây đọc thiên kinh vạn quyển, thật ra thì chữ nghĩa cũng vừa một vốc. Chuyện mới đây ở lễ khai giảng của một trường quốc tế tại Việt Nam là một thí dụ. Có anh được gọi là “diễn giả” nói về “trọc phú kiến thức”, ý nói cần phải có kiến thức thật từ mình (tri thức nguyên bản), chứ không chỉ có mớ kiến thức hổ lốn đọc được qua sách vở. Ý kiến này gây một làn sóng tranh luận, rằng chính “diễn giả” kia đã làm rối tung rối mù một câu chuyện muôn thuở: Học trong sách và học trong cuộc sống, đọc sách và ngấm sách. Cha ông ta chẳng đã phê phán, đã kể bao câu chuyện thâm thúy về những người học vẹt là gì?

 

PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC DIỄN BIẾN HÒA BÌNH

 


Nhìn lại và suy ngẫm, chúng ta hiểu rõ vì sao Bác Hồ lại ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiếnmong muốn toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên đánh giặc cứu nước, bởi chúng ta muốn hòa bình nên chúng ta đã nhân nhượng nhưng càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Đúng vậy! Chỉ sau 21 ngày Bác Hồ đọc Tuyên Ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thể nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới về việc khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Thế nhưng, quân xâm lược Pháp đã phá hỏng tất cả. Chúng đã tước đoạt quyền sống, quyền được độc lập, tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc của nhân dân ta. Ngày 23-9-1945, chúng đã trở lại hành trình cướp bóc nước ta một lần nữa. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng và Bác Hồ đã có nhiều đối sách sáng suốt để tránh cuộc chiến tranh đẫm máu do thực dân Pháp gây nên.

Sự thật này đã được nhiều nhà báo quốc tế thừa nhận, đánh giá cao tính nhân văn của Chính phủ Hồ Chí Minh. Thế nhưng, kẻ xấu lại giở trò vu cáo Việt Nam là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa ấy. Thật hèn hạ và vô liêm sỉ! Có lẽ thời ấy, từng em bé Việt Nam cũng hiểu chiến tranh sẽ cướp đi tuổi thơ và mái trường thân yêu. Hơn thế, người dân Việt Nam hiểu rõ nỗi nhục gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ và sự đắng cay của người dân mất nước. Không ai muốn chiến tranh, không ai muốn đổ máu, hy sinh. Bởi vậy, họ đã theo Đảng, Bác Hồ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “nhất định không chịu làm nô lệ” dám đương đầu với cuộc kháng chiến trường kỳ dẫu biết “máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”, họ đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bằng xương máu, mồ hôi, nước mắt, đã buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đám phán và ký Hiệp định Giơnevơ thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, cay đắng rút quân về nước.

Nhưng quân xâm lược “vẫn ngựa quen đường cũ”, chống Việt Nam đến cùng. Chúng đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược nước ta. Và đế quốc Mỹ đã buộc chúng ta phải “cầm súng chiến đấu”. Tổ quốc kêu gọi, nhân dân trả lời. Họ đã đứng lên, cầm súng tự cứu lấy mình, giành lại độc lập dân tộc. Đó là việc làm đúng, nhưng tại sao kẻ xấu lại xuyên tạc, cho rằng đấy là cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam – Bắc, là “cuộc chiến tranh ý thức hệ” ? Để chống lại đội quân xâm lược, những kẻ đến Việt Nam đốt nhà, giết người, gieo đau thương tang tóc, nhân dân ta đã phải chiến đấu liên tục suốt 21 năm dòng; đã phải trải qua 5 đời tổng thống Mỹ, 222 tháng với 4 lần thay đổi chiến lược. Đó là “Chiến tranh đơn phương” (1953-1961) của Tổng thống D. Eisenhower; “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) của Tổng thống J. Kennedy; “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968) của Tổng thống L. Johnson; “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1974) của Tổng thống R. Nicxon. Cùng với đó là 8 lần thay đổi Đại sứ toàn quyền Mỹ và 4 lần thay đổi Tổng tư lệnh quân viễn chinh ở Việt Nam, song vẫn không cứu vãn thất bại. Nhân dân Việt Nam đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu dù phải “đổ máu, hy sinh” nhưng quyết giành lại độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ai đó cho rằng cuộc chiến ở Việt Nam chỉ là “chiến tranh ủy nhiệm”, họ đã mắc sai lầm, bởi nó hoàn toàn không phải như thế. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên quyết, kiên trì chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà với tinh thần tự lực cánh sinh là chính. Chúng ta chiến đấu vì chính chúng ta, chứ chẳng phải vì ai, do ai ủy nhiệm, phó thác việc đánh Mỹ hoặc mặc cả với nhân dân ta về điều này điều nọ, cho dù trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính nghĩa của nhân dân ta, các nước xã hội chủ nghĩa có giúp đỡ nhưng không có bất cứ lời giao kèo, lời đính kèm nào. Luận điệu cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là “không nhất thiết vì nó gây nên cảnh nồi da nấu thịt”, “nội chiến, huynh đệ tương tàn” là hoàn toàn sai trái, nó đã vùi dập tính nhân văn, thiện chí và tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tàn ác. Đó là sự chà đạp thô bạo lên nhân phẩm, lẽ phải, đạo lý; là sự xúc phạm danh dự của một dân tộc anh hùng, lương tri của thời đại và bào chữa cho tội ác của quân xâm lược. Thử hỏi nếu không có sự đổ máu, hy sinh, không trải qua hơn 30 năm chiến đấu gian khổ, ác liệt, liệu nhân dân Việt Nam có giành được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc? Thử hỏi ai đã gây ra hai cuộc chiến tranh tàn ác, giết chết hơn 2 triệu đồng bào vô tội ? Ai đã để lại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn và Nghĩa trang Liệt sĩ Đường 9 và nhiều nghĩa trang liệt sĩ khác trên khắp mọi miền đất nước với nhiều ngôi mộ vô danh? Chẳng nhẽ người dân Việt Nam tự tạo ra? Chẳng nhẽ người dân Việt Nam đến nước Pháp, nước Mỹ để gây ra hai cuộc chiến tranh đẫm máu, chẳng nhẽ nhân dân Việt Nam muốn sử dụng quân đội và vũ khí tấn công nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, dải chất độc hóa học và bom, đạn lên đất đai, sông nước của họ; phủ nhận, bôi đen lịch sử, văn hóa của họ? Thật nực cười bởi sự phi lý của kẻ “vừa ăn cắp, vừa la làng” là những kẻ xâm lược, tàn phá Việt Nam, thế mà dám tự thừa nhận mình có sứ mệnh đi khai hóa, truyền bá văn minh cho Việt Nam. Lịch sử đã ghi nhận sự thật ấy. Ai đã phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam đồng nghĩa với phủ nhận lịch sử truyền thống hào hùng, vẻ vang của một dân tộc. Phủ nhận sự hy sinh xương máu của các thế hệ người Việt Nam chống lại quân xâm lược là hoàn toàn vô lý, là tội ác, không thể chấp nhận. Ở đất nước này, kẻ mưu toan phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đòi vớt vát tia hy vọng mỏng manh: áp đặt chế độ áp bức, bóc lột lên đất nước của Hồ Chí Minh có độc lập, chủ quyền chỉ là sự hoài vọng vô nghĩa, hoàn toàn ảo tưởng. Xâm lược Việt Nam là một việc làm sai trái cả về đạo lý và pháp lý; “đạo trời không dung, đạo đất không tha” bởi nó trái với công lý và lẽ phải. Phủ nhận thành quả cách mạng và cuộc chiến tranh chính nghĩa là quan điểm hư vô lịch sử, bôi đen hiện thực, xúc phạm quá khứ hào hùng, thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Là người có trái tim và khối óc, có học thức và lương tri, hiểu rõ đạo lý, pháp lý và lẽ sống làm người, nhất thiết chúng ta phải đấu tranh vạch trần sự giả dối và kiên quyết đấu tranh phê phán, bác bỏ mọi mưu toan chống phá nền hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta.Đằng sau thái độ “hư vô lịch sử”, xúc phạm quá khứ hào hùng, thiêng liêng của dân tộc làsự chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chúng ta không cho phép bất cứ ai, thế lực nào làm điều sai trái ấy. Không cho phép bọn “mượn gió bẻ măng”, xuyên tạc lịch sử để chống phá Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII sắp diễn ra ở Hà Nội./.  

 

PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG VÀ CUỘC CHIẾN TRANH CHÍNH NGHĨA CỦA NHÂN DÂN TA. SỰ VÔ LÝ CẦN PHẢN BÁC

 


Phủ nhận thành quả cách mạng, xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi đen bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước là âm mưu, thủ đoạn chống phá nham hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch. Vì vậy, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, lệch lạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh, tình hình hiện nay; đặc biệt trước ngày Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII sắp được tổ chức. Đây là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam yêu nước.

Với luận điệu xuyên tạc thàng công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức chống phá Đảng, Nhà nước ta từ sự phủ nhận lịch sử đến bôi đen thành tựu hiện thực đổi mới đất nước hơn 35 năm qua. Chúng cho rằng mọi sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam đều bắt nguồn từ sự ra đời của Đảng (1930), nhất là việc Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đánh đuổi thực dân Pháp. Chúng coi đấy là nguyên nhân chính dẫn đến “hai cuộc chiến tranh dẫm máu, làm cho hơn hai triệu người dân Việt Nam mất mạng”. Hơn thế, chúng vu cáo Đảng ta “đánh mất cơ hội được người Pháp khai hóa, truyền bá văn minh”, nếu “Đảng không mắc sai lầm ấy thì Việt Nam đã giầu mạnh từ lâu”, “không hèn mọn và mất dân chủ” bởi “chế độ độc đảng toàn trị như bây giờ”. Hùa theo giọng điệu vu cáo trên, một số người lại cho rằng “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là ăn may vì Nhật thua quân Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai”, “để lại khoảng trống quyền lực ở Hà Nội nên “Đảng Cộng sản Việt Nam “biến thành Thạch Xanh”, cướp thời cơ giành được thắng lợi nhanh chóng”. Cho nên “thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là tình cờ, sự ăn may”, “Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh không có tài cán, công trạng gì”. Chúng còn cho rằng “chế độ độc đảng toàn trị của Chính phủ Hồ Chí Minh” chỉ khác “chế độ vua quan bù nhìn” bởi cái tên gọi “lãnh đạo tập thể”, “dân chủ giả hiệu”, v.v..Những giọng điệu lạc lõng “sặc mùi” vu cáo, xuyên tạc, khiêu khích, kích động nêu trên đã “tiêm nhiễm nọc độc” vào một số người dân mà trình độ hiểu biết, nhận thức có hạn, lại thiếu thông tin nên đã “nhẹ dạ cả tin, nghe theo đài địch”. Nhưng nhìn chung, ở Việt Nam, bằng sự thật của “sự đổi đời” do Cách mạng Tháng Tám đem lại, tuyệt đại đa số người dân đã bác bỏ sự bịa đặt, vu khống hòng hạ thấp uy tín của Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Hơn ai hết, nhân dân ta hiểu rõ giá trị của cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, có được cơm no, áo ấm; thấm thía lời dạy của Bác Hồ, công ơn trời biển của các anh hùng, liệt sĩ; sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Họ ý thức sâu sắc rằng, nếu không có Đảng, Bác Hồ dẫn đường, chỉ lối, chắc chắn Cách mạng Tháng Tám không thể thành công; nhân dân ta không thể thoát khỏi ách áp bức, bóc lột; sự đô hộ của thực dân Pháp. Nếu không có Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam vẫn chỉ là “một nước thuộc địa, nửa phong kiến”, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, người dân vẫn phải đi làm thuê kiếm sống, bị đánh đập dã man, tàn ác; cả dân tộc bị đầy đọa bởi nạn đói rét, thất học; người dân bị khinh rẻ, miệt thị bởi cái tên gọi “An nam mít”.

Là người dân Việt Nam sống trên dải đất hình chữ S, cùng dòng giống “Lạc Hồng”, không ai quên sự kiện “kinh thiên động địa” xảy ra năm 1945: Nạn đói đã cướp đi sinh mệnh của hơn hai triệu người dân Việt Nam vô tội, bằng 10% dân số nước ta thời đó. Nỗi đau vẫn còn mang, sự nhục nhã không thể xóa sạch. Nhờ có Đảng, Bác Hồ soi đường, chỉ lối, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, hiểu rõ điều phải trái, đúng sai; ý thức rõ rằng muốn cứu nước, cứu nhà, thoát khỏi thân phận nô lệ, lầm than; giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là làm cuộc cách mạng vô sản, thực hiện “cuộc đổi đời”, tự cứu lấy mình. Họ đã tin tưởng cách mạng, một lòng một dạ đi theo Đảng, tham gia phong trào Xô viết – Nghệ Tĩnh 1930-1931, phong trào dân chủ 1936-1939, phong trào phản đế Đông Dương 1939-1945; coi đó là những cuộc “tổng diễn tập” chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Sử sách còn ghi, lòng người còn nhớ, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không thể “lấy oán báo ân”, phủ nhận sạch trơn sự thật lịch sử. Ai cũng biết, nhờ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã xóa bỏ sự thống trị dã man, tàn bạo của quân xâm lược, giành lại quyền sống làm người, nhân dân tự tin bước lên vũ đài chính trị, tự xác lập “ngôi vị làm chủ đất nước”; kiến tạo và xây dựng chế độ xã hội mới bắt đầu từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên Ngôn độc lập, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là sự thật, không thể chối cãi, cớ sao bọn người xấu lại cố tình bịa đặt, phủ nhận, xuyên tạc, bôi đen sự thật ấy. Mọi người đã hiểu rằng Cách mạng Tháng Tám không phải là sự chuyển giao chế độ “vua trị” sang “đảng trị” như một số người “dựng chuyện”, “rêu rao”. Về thực chất, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một “cuộc đổi đời” do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, đã thay đổi chế độ quân chủ phong kiến sang chế độ Dân Chủ Nhân dân, Dân Chủ Cộng Hòa. Kể từ đó, nhân dân ta ra sức xây dựng cuộc sống mới, kiến tạo và xây dựng chế độ xã hội mới trên nền tảng Dân Chủ Cộng Hòa và độc lập, thống nhất. Vì vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu” như kẻ xấu đã vu cáo, quy kết, buộc tội Đảng ta.

TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT, CHỐNG CHIA RẼ ĐỒNG BÀO TÔN GIÁO VÀ ĐỒNG BÀO KHÔNG TÔN GIÁO

 

 

Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào theo tôn giáo, đồng bào không theo tôn giáo, đồng bào theo các tôn giáo khác nhau đều là dân tộc Việt Nam mà thiếu gắn bó thì sẽ làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc suy yếu. Vì vậy, việc xây dựng, củng cố, tăng cường đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải được quan tâm thường xuyên và phải dựa trên những yêu cầu, nguyên tắc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc và vì mục tiêu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Trong thực tiễn lịch sử Việt Nam điều này đã được khẳng định rất rõ. Chính sự đoàn kết ấy đã tạo nên sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng mọi thù trong, giặc ngoài, xóa bỏ mọi áp bức, bất công xây dựng một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Trong giai đoạn mới, Đảng ta xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và sự đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau nói riêng là động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng bào theo tôn giáo, đồng bào không theo tôn giáo và cả hệ thống chính trị đều phải có trách nhiệm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau, tin cậy ở nhau để chung sức, chung lòng củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở các địa phương nhất là vùng đồng bào tôn giáo, theo chức năng nhiệm vụ của mình phải ra sức củng cố, tăng cường mối đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo cùng nhau phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc, an ninh xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Một quan điểm, lập trường rõ ràng nữa của Đảng và Nhà nước ta là, đi đôi với thực hiện đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với những hành động lợi dụng vấn đề “tôn giáo” gây chia rẽ mất đoàn kết, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo nói riêng. Trong mọi trường hợp cần phân biệt rõ ràng đâu là vấn đề thuộc về tín ngưỡng, tôn giáo, đâu là vấn đề các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ, chống phá để có thái độ, hành động đúng đắn. Có thể khẳng định đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực trong thời gian qua là hết sức to lớn, không những chỉ trong nước mà bạn bè quốc tế cũng thừa nhận. Đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, cũng như đồng bào theo các tôn giáo khác nhau luôn gắn bó trên nền tảng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta. Những năm gần đây, đồng bào theo các tôn giáo, đồng bào không theo tôn giáo đã đoàn kết tích cực tham gia có hiệu quả vào nhiều hoạt động, nhiều cuộc vận động như xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư… Đặc biệt là cùng với Mặt trận Tổ quốc tham gia hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, nhiều chương trình góp phần xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống tệ nạn xã hội…Các tổ chức tôn giáo đã có nhiều cách làm sáng tạo tuyên truyền, vận động các tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”. Đạo Công giáo có đường hướng hành đạo “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc”,“Kính Chúa yêu nước”; đạo Tin lành có phương châm hành đạo như “Sống phúc âm phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”; Phật giáo có “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”; “Nước vinh đạo sáng” của đạo Cao Đài;… Tuy nhiên trên thực tế cũng có không ít nơi này, nơi kia, người này, người khác chưa hiểu rõ và thực hiện chưa tốt chính sách tôn giáo trước hết là chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết người có tôn giáo với nhau, đoàn kết người khác tôn giáo với nhau, đoàn kết người có tôn giáo với người không tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Không ít người, trong đó có cả chức sắc tôn giáo không gương mẫu trong thực hiện chính sách. Đặc biệt một số đối tượng đã lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị. Các thế lực thù địch âm mưu sử dụng tôn giáo để kích động, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ đồng bào tôn giáo, không tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau hòng chống lại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo mà Đảng ta đã xác định, có nhiều nội dung cần bàn. Nhưng vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính chiến lược lâu dài và phải tiến hành thường xuyên, đồng bộ là phải làm cho toàn Đảng, toàn dân nói chung, các tín đồ, chức sắc tôn giáo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính sách tôn giáo của Đảng ta. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho mọi người dân, các chức sắc và tín đồ tôn giáo nhận thức rõ về âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Giải quyết được hai việc ấy, trước mắt sẽ tăng sức đề kháng cho quần chúng nhân dân nói chung và đồng bào giáo dân nói riêng. Khi quần chúng nhận thức đúng vấn đề họ sẽ nâng cao cảnh giác, xác định rõ trách nhiệm trong phòng ngừa và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch.

 

TÔN GIÁO KHÔNG THỂ NÀO ĐỨNG TRÊN PHÁP LUẬT

 


Gần đây trên một vài trang mạng có địa chỉ ở nước ngoài, thường viện dẫn một số trường hợp công dân Việt Nam theo các tôn giáo vi phạm pháp luật bị các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện pháp xử lý, để từ đó quy chụp nói rằng: “Việt Nam đàn áp tôn giáo”. Đây là một sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam là luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam được quy định rõ trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế, được tất cả những người có lương tri trong nước và trên thế giới thừa nhận. Điều 24 Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, cụ thể như sau: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với việc khẳng định trong Hiến pháp, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các luật, nghị định, đặc biệt là Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo khuôn khổ pháp luật. Ở Việt Nam có hầu hết các tôn giáo lớn với đông đảo tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng sự phát triển của đất nước Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, cấp đăng ký hoạt động, với hơn 26 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số Việt Nam… Cùng với việc công nhận tư cách pháp nhân, mở mang cơ sở thờ tự, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều xây dựng đường hướng hoạt động tiến bộ theo tinh thần: Gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, hoạt động tôn giáo tuân thủ pháp luật, ủng hộ và tích cực tham gia góp phần vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những đối tượng mà một số trang mạng thiếu thiện chí với Việt Nam nhắc đến họ không phải bị bắt, bị đưa ra xét xử vì lý do tôn giáo mà là họ đã lợi dụng tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân. Một thực tế cần nhắc lại rằng, không chỉ ở Việt Nam mà với mọi quốc gia trên thế giới, giáo dân trước hết là công dân. Trước khi thực hiện lời răn dạy của chúa, đức phật và các đấng tối cao họ phải có bổn phận thực hiện và chấp hành đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Không ai được phép lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị chống pháp Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tôn giáo không thể đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật. Giáo dân trước hết là công dân, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Khi phạm vào các tội được quy định trong pháp luật, thì dù công dân đó có theo tôn giáo hay không theo tôn giáo, theo tôn giáo nào đều chịu sự trừng phạt của pháp luật một cách bình đẳng. Tự do tôn giáo không thể bị đánh lận với những đối tượng lợi dụng tôn giáo để thực hiện hành vi phạm pháp. Ở Việt Nam không có chuyện đàn áp vì lý do tôn giáo, mà chỉ có những kẻ vi phạm pháp luật Việt Nam bị xử lý mà thôi.

 

TÔN TRỌNG, BẢO VỆ NHÂN QUYỀN LÀ CHỦ TRƯƠNG NHẤT QUÁN CỦA VIỆT NAM

 


Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 tại New York (Mỹ), ngày 11/10/2022 (theo giờ New York, đêm 11/10 theo giờ Hà Nội). Kết quả bầu cử cho thấy sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, những cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao. Tôn trọng và bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam và điều này được thể hiện rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập và trong Hiến pháp. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định quyền con người là giá trị chung của nhân loại; bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người (Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế-xã hội và văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về quyền của người khuyết tật; Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người); phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Việt Nam cũng tham gia tích cực tại các khóa họp thường niên và các phiên họp đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc về tình hình tại Myanmar, Palestine, Afghanistan, Sudan, Ethiopia, một mặt giới thiệu về các nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phản bác các thông tin sai lệch, sai sự thật, mặt khác tham gia tích cực vào các thảo luận của Hội đồng Nhân quyền về các vấn đề toàn cầu, tình hình bảo vệ quyền con người tại các khu vực trên thế giới cần sự quan tâm đặc biệt, góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo các quyền con người cơ bản cho người dân tại tất cả các quốc gia trên thế giới.

Tháng 2/2021, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị cấp cao trong khuôn khổ Khóa 46 Hội đồng Nhân quyền, trong đó nêu bật các chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong bối cảnh đại dịch. Việt Nam hỗ trợ khẩu trang, vật tư y tế cho hơn 50 nước và đối tác quốc tế, đề xuất và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết chọn ngày 27/12 là Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh với mục đích nâng cao nhận thức về việc phòng ngừa và ứng phó các dịch bệnh. Để bảo đảm cho mọi người Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ quyền con người, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 2/6/2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” cho thấy, đến nay, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thì quyền con người, quyền công dân đã có luật điều chỉnh và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 được xem là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến về bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người, quyền công dân trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; đồng thời, bổ sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Bên cạnh việc chế định quyền con người trong Hiến pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người. Từ năm 2019 đến tháng 1/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua 39 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như: Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Thanh niên năm 2020, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Cư trú năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020… Thực hiện một số khuyến nghị, các đơn vị đầu mối của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc nghiên cứu sửa đổi Luật Trẻ em, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, nghiên cứu sửa đổi Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, nghiên cứu xây dựng Luật Chuyển đổi giới tính. Cùng với việc thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật về quyền con người, Việt Nam đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm quyền con người. Ngoài thiết chế nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và truyền thông, báo chí cũng tham gia tích cực bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về quyền con người được Nhà nước thành lập, như Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện báo cáo tình hình thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; xây dựng và hoàn thiện báo cáo nhân quyền trong khuôn khổ cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, cũng như các hoạt động hợp tác quốc tế khác trên lĩnh vực quyền con người. Việt Nam không chỉ là một trong sáu quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn năm 2015 mà còn được xem là tấm gương điển hình của cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau của Liên hợp quốc. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và tình hình thiên tai, bão lụt tại các địa phương gây thiệt hại nặng nề về kinh tế-xã hội, nhưng với sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, Việt Nam đạt được những thành tựu ấn tượng. Tạp chí The Economist tháng 8/2020 xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Trang liberationnews.org (Mỹ) kết luận: Thành công của Việt Nam trong phòng, chống dịch COVID-19 “không đơn giản là một phép màu”, mà đó là “kết quả của một chính phủ xã hội chủ nghĩa đặt người dân lên trên lợi ích kinh tế”. Đó là mô hình “để không ai bị bỏ lại phía sau”. Với những kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật về quyền con người, cùng với môi trường thiên nhiên tươi đẹp, chế độ chính trị văn minh, văn hóa đặc sắc, xã hội ổn định, con người thân thiện, cởi mở, năm 2019, Việt Nam đã lọt vào top 10 danh sách những quốc gia đáng sống và làm việc nhất thế giới.

 

TUỔI TRẺ KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ KHÔNG ĐỂ BỊ KẺ XẤU LỢI DỤNG, LÔI KÉO

 

 

Trong âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, bất mãn, cơ hội chính trị luôn tập trung vào thế hệ trẻ. Chúng lợi dụng những đặc tính của tuổi trẻ, những hạn chế, khuyết điểm của đất nước, của thanh niên để bôi nhọ, vu cáo, cho rằng Đảng và Nhà nước không quan tâm đến thanh niên, lôi kéo tuổi trẻ vào tình trạng “nhạt Đảng”, “khô Đoàn”, “xa rời chính trị”, thậm chí đi vào con đường hư hỏng, vi phạm pháp luật, đi ngược lại lý tưởng, mục tiêu cách mạng của Đảng và đất nước. Mới đây, trên N10Tv, phản động Việt Tân Trương Quốc Huy đã vu khống, kích động rằng: Ở Việt Nam, người trẻ có tài không bao giờ được Đảng và Nhà nước trọng dụng, vì vậy “Làm công dân tốt để làm gì ?”. Từ đó y kích động, kêu gọi thanh niên Việt Nam chớ có tin theo Đảng, đi theo Đảng mà phải đứng lên chống lại, thay đổi chế độ Đảng trị ở Việt Nam.

Những âm mưu, thủ đoạn thâm độc xấu xa trên thường xuyên được các thế lực chống đối đưa lên mạng xã hội, trong bối cảnh thanh niên ngày càng quan tâm sử dụng mạng xã hội. Khảo sát mới đây cho thấy: trong tổng số gần 70 triệu người Việt Nam đang dùng internet thì có 94% người dùng internet hàng ngày là sinh viên, trí thức trẻ, thanh niên. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại trên một cách kiên trì, quyết liệt. Cùng với việc quyết liệt trực tiếp đấu tranh phòng, chống, nói không với các hành vi chống phá cụ thể trên mạng xã hội, cần tiến hành đồng thời các giải pháp tổng hợp toàn diện, khả thi, hiệu quả. Trước hết, cần thấy rõ và khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm chăm lo bồi dưỡng, phát triển thế hệ trẻ. Bác Hồ dạy thanh niên cần phải làm những gì, phải tránh những gì. Theo Người: “Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng. Cần phải trung thành, thật thà, chính trực”. Đồng thời, Người cũng chỉ ra thanh niên cần chống: “… phải chống tâm lý tư lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu thanh niên: “Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc và nhân dân”. Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lãnh đạo trực tiếp và toàn diện công tác thanh niên. Đảng chủ động đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị quan tâm, chăm sóc, rèn luyện thế hệ trẻ nước nhà. Đồng thời, với tinh thần “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên”, Đảng đã huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân cùng thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Ví dụ như Luật Thanh niên ra đời chính là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề thanh niên và công tác thanh niên ở nước ta. Luật Thanh niên có quy định tháng 3 hằng năm là Tháng Thanh niên, trong đó ghi rõ tại Điều 9: Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện về cơ chế chính sách, nguồn lực để hỗ trợ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp tổ chức hoạt động Tháng Thanh niên. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ cho thanh niên tham gia hoạt động Tháng Thanh niên”. Đảng và cả hệ thống chính trị đã có nhiều cách làm hay, phù hợp để huy động được sự tham gia tích cực của tuổi trẻ cả nước, qua đó rèn luyện phấn đấu trưởng thành, nhiều đoàn viên ưu tú đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ tính kết quả của Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X ( nhiệm kỳ 2012 – 2017) cả nước đã có hơn 5 triệu đoàn viên được kết nạp, có 1.102.789 đoàn viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp, 654.714 đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng.

Với sức mạnh của tuổi trẻ dưới sự lãnh đạo của Đảng và đồng hành của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn quân, chúng ta kỳ vọng và tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm với đất nước, với xã hội, xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo điều kiện cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/11


“… Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.
Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực tiêu biểu./.
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'

CỘI NGUỒN SỨC MẠNH VÔ ĐỊCH CỦA ĐẢNG!

     Thực tiễn lịch sử dân tộc ta, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới đã chứng minh một chân lý: Có dân là có tất cả; mất dân cũng có nghĩa là mất tất cả.
Sức mạnh của Đảng nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhân dân: “Dân là gốc của nước, gốc có vững thì nước mới yên”. Ông cha ta đã để lại những tư tưởng bất hủ, như: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”; “Lật thuyền mới biết dân như nước”; “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; Cái gốc của nhạc là ở nơi “thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”... An Dương Vương chủ quan, mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không biết dựa vào sức mạnh nhân dân để chống giặc ngoại xâm nên kết cục là mất nước.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đặt vị trí của nhân dân lên một tầm cao mới, khẳng định nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, tạo ra mọi của cải, vật chất và những giá trị văn hóa, tinh thần. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm rất độc đáo, sáng tạo về nhân dân; không những khẳng định dân là gốc của nước, của cách mạng mà còn đặt nhân dân ở vị trí tối thượng. Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”; “... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Người nhấn mạnh: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân; nhân dân cần Đảng dẫn đường.

Cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng
 Tranh cổ động về Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: Báo điện tử Đảng Cộng sản.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn tỏ rõ là một Đảng cách mạng chân chính, hết lòng phấn đấu vì nhân dân, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn được củng cố, tăng cường. Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, đó chính là nền tảng, nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Lênin từng căn dặn rằng: Nguy cơ lớn nhất của một đảng cầm quyền là sai lầm về đường lối và quan liêu, xa rời quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Đảng phải gần dân, trọng dân, tin dân, học dân để lãnh đạo dân. Củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành, tồn tại và phát triển của Đảng ta.

Để xây dựng, củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, cần nắm vững và làm tốt những vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.

Chính quyền phải gần dân, sát dân, thân dân. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trước hết và chủ yếu ở mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân thông qua pháp luật, chính sách, thông qua hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. “Tất cả cán bộ chính quyền... đều phải phụ trách dân vận” như Bác Hồ đã căn dặn. Cần tránh quan niệm cho rằng, cán bộ chính quyền chỉ làm công tác hành chính, không làm công tác dân vận. Không hiểu công tác dân vận và không thực sự làm dân vận thì chưa thể là cán bộ, công chức, viên chức cách mạng, công bộc của dân. 

Hai là, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.

Không giải quyết tốt vấn đề này thì khó có thể xây dựng được mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân và xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc một cách vững chắc, lâu dài. Lợi ích là nhân tố nổi lên hàng đầu, là vấn đề mấu chốt trong việc củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền quản lý xã hội thì vấn đề quan trọng nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải đáp ứng lợi ích thiết thân của nhân dân, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong sự hài hòa giữa các lợi ích, thống nhất quyền lợi, nghĩa vụ công dân. 

Chủ trương, chính sách đúng với đường lối của Đảng, hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được tổ chức thực hiện dân chủ, mang lại lợi ích thiết thực, cơ bản cho dân sẽ có ý nghĩa cực kỳ to lớn để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân. Nếu chúng ta không chăm lo đến những lợi ích thiết thực của dân, các thế lực thù địch sẽ tập trung khai thác mặt yếu này để tranh thủ quần chúng, kích động khiếu kiện, biểu tình gây mất ổn định chính trị-xã hội.

Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng-một vấn đề mấu chốt để củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là cầu nối rất quan trọng thắt chặt mối quan hệ giữa và Đảng, Nhà nước với nhân dân. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố sự nhất trí về chính trị tinh thần trong xã hội, củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. 

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội và phải luôn được củng cố, phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Chính trong sự đoàn kết đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân được củng cố, tăng cường và phát triển. Đảng phải là hạt nhân cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phải tiêu biểu cho sự đoàn kết đó.

Bốn là, phát huy vai trò làm chủ và thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững kỷ cương phép nước.

Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền chăm lo phát huy và thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân theo pháp luật, tăng cường đồng thuận xã hội. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Đồng thời, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ có thực sự phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đồng thuận xã hội và đoàn kết thực sự, bền vững. 

Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập của Đảng, đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên của đảng cầm quyền phải luôn nêu cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính; phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Có như vậy, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân mới được củng cố, tăng cường. Khi Đảng đã gắn bó máu thịt với dân, dân tin yêu Đảng thì Đảng sẽ có sức mạnh vô địch để vượt qua mọi thác ghềnh, vững tay chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam thẳng hướng đi lên, cập bến quang vinh./.




Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 02 THÁNG 11 NĂM 1959!

         “…chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác”!
     Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.
     Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
     Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.
     Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
     Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện./.
Môi trường (Yêu nước) ST.

Vẫn là những “chiêu bài” cũ

 Dù không mới nhưng âm mưu, thủ đoạn nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là mục tiêu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Lợi dụng phản biện xã hội, xem phản biện xã hội là "chiêu bài" để chống phá Đảng, Nhà nước là một trong những thủ đoạn như thế.

Những người mang động cơ xấu, nhằm mục đích chống phá đất nước không bày tỏ quan điểm theo quy trình tổ chức và các kênh chính thống. Các đối tượng triệt để lợi dụng ưu thế của internet, nhất là mạng xã hội để tiến hành các hoạt động chống phá núp dưới danh nghĩa phản biện xã hội. Dưới sự giật dây của các thế lực thù địch, một số phần tử cơ hội trong nước và cả ở nước ngoài đã soạn ra các văn bản dưới dạng “tâm thư”, “thư ngỏ”, “thư góp ý”; thậm chí họ còn soạn hẳn một dự thảo văn kiện mới, hoàn toàn khác với dự thảo văn kiện chính thống được công bố... để thể hiện những ý kiến trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước rồi gửi đến các đồng chí lãnh đạo. Để minh họa cho những quan điểm sai trái đã nêu, núp dưới chiêu bài phản biện xã hội, họ dựng chuyện, tung ra nhiều thông tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc, nhằm gây nhiễu loạn thông tin, kích động, gây áp lực, gieo rắc tâm lý hoài nghi, gây bất ổn trong dư luận.

Ngoài sử dụng những đối tượng phản biện xã hội đã được móc nối, để chống phá Việt Nam lâu dài, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam rất quan tâm đến việc gieo mầm, nuôi dưỡng, phát triển lực lượng phản biện mới. Đối tượng phản biện xã hội trong giới trẻ và cán bộ, đảng viên, công chức... được họ đặc biệt để mắt. Cùng với tài trợ về tài chính, họ còn hướng dẫn nội dung, kế hoạch hoạt động liên kết thành mạng lưới. Khi xuất hiện những quan điểm đi ngược chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên không gian mạng, thì ngay lập tức họ huy động lực lượng "chân rết" vào bình luận, chia sẻ, tung hô... Họ thường đánh tráo khái niệm giữa ý kiến phản biện xã hội chính thống được Đảng, Nhà nước ta tiếp thu, với những giọng điệu tuyên truyền chống phá; hoặc đánh đồng giữa những người có ý kiến khác với những đối tượng cơ hội chính trị, lợi dụng phản biện xã hội để gây bất ổn trong dư luận. Vì thế, khi một số đối tượng lợi dụng phản biện xã hội để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Nhà nước bị đưa ra xử lý trước pháp luật thì họ cho rằng Việt Nam “đàn áp người bất đồng chính kiến”, “vi phạm quyền tự do ngôn luận”... rồi từ đó kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp. Nhữn chiêu trò đó đã cũ nhưng chúng ta không thể xem nhẹ hậu quả và cần tích cực đấu tranh để loại bỏ./. 

Không phủ nhận hiệu quả từ phản biện xã hội tích cực

 Phản biện xã hội là sự tương tác, giao thoa qua lại về quan điểm, tư duy của các lực lượng, thành phần trong xã hội trước những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách, thể chế... có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các thành viên trong xã hội. Thông qua việc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phản biện xác đáng, có cơ sở khoa học mà các chủ trương, chính sách, thể chế... của cộng đồng ngày càng phù hợp, đáp ứng tốt hơn với những đòi hỏi của thực tiễn.

Thực tế cho thấy, trước các sự kiện lớn, những vấn đề hệ trọng của đất nước... Đảng và Nhà nước ta đều công bố rộng rãi các văn kiện dự thảo, đưa ra quan điểm, chủ trương... để lấy ý kiến thảo luận, đóng góp của toàn dân. Đại đa số nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, luôn coi mỗi đợt đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo các văn kiện là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hưởng ứng tích cực. Các cơ quan chức năng luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân tiếp cận sớm, hướng dẫn người dân nghiên cứu, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về từng nội dung trong dự thảo các văn kiện và những vấn đề quan trọng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức hàng trăm hội nghị, hội thảo, tọa đàm... nhằm tạo điều kiện để người dân có cơ hội bày tỏ quan điểm. Hằng ngày, hằng giờ, mọi người dân đều có thể tiếp nhận thông tin và phản ánh quan điểm, ý kiến của mình qua hàng trăm xuất bản phẩm báo chí in, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình từ Trung ương đến địa phương.

Tất cả ý kiến dù đồng thuận hay không đồng thuận đều được cơ quan chức năng tổng hợp báo cáo với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ để xem xét quyết định. Chính nhờ mở rộng dân chủ, phát huy tinh thần phản biện xã hội của toàn dân mà các nghị quyết, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đều thể hiện sự kết tinh giữa ý Đảng với lòng dân, được sự đồng thuận trong xã hội và sớm đi vào cuộc sống./. 

Pháp luật Việt Nam luôn phù hợp với Công ước quốc tế

 Cứ mỗi năm khép lại, một số tổ chức phản động ở hải ngoại lại diễn trò trao “Giải thưởng nhân quyền”. Đây thực chất chỉ là màn kịch vụng về trên sân khấu chính trị hải ngoại, ngày càng phơi bày bộ mặt chống phá Nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch và những kẻ phản động lưu vong. Chúng luôn cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền, nhưng thực tế cho thấy, Việt Nam thực hiện các quyền đã được công nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác.

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam luôn giữ đúng nguyên tắc, sát với thực tế đất nước, phù hợp và không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Ở Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Hành vi tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt, kích động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam; âm mưu tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân của các đối tượng rõ ràng đã gây bất ổn cho an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm quyền tự do cơ bản của người khác và phải chịu những hình phạt nghiêm minh của pháp luật là tất yếu./. 

Âm mưu, thủ đoạn thực hiện phản biện xã hội tiêu cực

 Việc mở rộng dân chủ, tăng cường phản biện tích cực, lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết của nhân dân là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Hưởng ứng tinh thần ấy, các hoạt động phản biện xã hội thời gian qua diễn ra khá sôi động và mang lại những kết quả tích cực. Thế nhưng, một thực tế rất đáng quan tâm là cả trong và ngoài nước xuất hiện một số người lợi dụng phản biện xã hội để gây nhiễu thông tin, làm rối tình hình, kích động, hòng tạo ra những mâu thuẫn trong xã hội. Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù địch, một số tổ chức phản động đã móc nối, gieo mầm, nuôi dưỡng các đối tượng phản biện xã hội để sử dụng làm công cụ chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Để hoạt động phản biện xã hội đi đúng hướng, theo đúng ý nghĩa tích cực thì việc bày tỏ các quan điểm, nêu ý kiến đóng góp phải theo đúng quy trình, trên nền tảng khoa học, với thái độ khách quan, đặc biệt là phải đặt lợi ích của cộng đồng, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Thế nhưng, trên thực tế đã có không ít người lợi dụng hoạt động phản biện xã hội để mưu mô cơ hội, phản biện kiểu phủ nhận sạch trơn, với các quan điểm hoàn toàn không vì lợi ích của cộng đồng, lợi ích của đất nước. Những quan điểm này càng trở nên nguy hiểm khi được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá./. 

Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch

 Các tổ chức phản động luôn tìm cách kích động quần chúng nhân dân, gây sức ép đối với nhà nước đòi đa nguyên đa đảng. Hình thức này được thực hiện bằng việc bới móc khuyết điểm, sai lầm trong quá khứ; xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật… để phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó chúng kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân nổi dậy đấu tranh lật đổ Đảng, tiến tới việc cho rằng việc xóa bỏ điều 4 của Hiến pháp là “phù hợp”.

Tiếp theo, chúng sẽ thổi phồng những mặt trái hiện nay, đặc biệt là tình trạng tham nhũng để đổ lỗi cho sự lãnh đạo của Đảng. Các tổ chức phản động sẽ vu cáo rằng chính Đảng là nguyên nhân “biến Việt Nam từ một xã hội tốt đẹp thành một xã hội hỗn loạn, cờ bạc, mê tín, đầy rẫy đại dịch”… Chúng cao giọng cảnh báo đất nước đang bên bờ vực suy tàn. Đặc biệt, chúng cho rằng tình trạng tham nhũng, suy thoái của đội ngũ cán bộ đảng viên và việc đấu tranh phòng chống tham nhũng, xử lý kỷ luật, khởi tố hình sự nhiều cán bộ cấp cao vừa qua là “dấu hiệu cho sự suy thoái, sụp đổ của Đảng”.

Kế tiếp, nhóm đối tượng hoặc các tổ chức phản động lợi dụng một số vụ việc phức tạp xảy ra để vu cáo, nói xấu Đảng. Bên cạnh đó, chúng sẽ tập trung bôi nhọ, hạ uy tín của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là hoạt động phá hoại công tác cán bộ. Đồng thời, một số tổ chức phản động còn tung tin đồn thổi nhiều đồng chí lãnh đạo các cấp với những nghi án tham nhũng, sân sau,… Từ những “đại án” tham nhũng, các thế lực thù địch chớp ngay cơ hội, tăng cường thông tin trên mạng xã hội, suy luận vô căn cứ mối quan hệ giữa những đối tượng bị truy tố với các cán bộ cao cấp của Đảng, từ đó ra sức công kích hòng làm giảm sút uy tín của Đảng, lung lạc niềm tin của nhân dân đối với chế độ và hệ thống chính trị. Chúng chống phá công tác cán bộ, cho rằng công tác cán bộ của Đảng ta là không dân chủ, thiếu minh bạch, làm theo kiểu “áo gấm đi đêm”; việc quy hoạch, sắp xếp cán bộ là để “thanh trừng bè phái”, “đấu đá nội bộ”… nhằm phá hoại an ninh chính trị nội bộ, phá hoại các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng của đất nước./. 

Không thể lấy khuyết điểm cá nhân để quy kết, đánh giá tập thể

 Trước một số sai phạm của những cá nhân trong quân đội thời gian vừa qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các đơn vị đã có hình thức xử lý nghiêm khắc về Đảng và chính quyền với những cá nhân sai phạm. Nhưng các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị phớt lờ thực tế đó, cố tình xuyên tạc, vu cáo quân đội bao che, lấp liếm, đấu đá nội bộ. Đặc biệt nguy hiểm khi chúng áp đặt, xuyên tạc cho rằng các sai phạm xảy ra trong quân đội là từ bản chất, đặc điểm của quân đội, quân đội không thể sửa chữa sai phạm, không thể lấy lại được danh dự, uy tín… Phải thẳng thắn thừa nhận rằng sai phạm xảy ra là do chủ quan rèn luyện, phấn đấu chưa tốt của các cá nhân, tập thể vi phạm và có cả phần trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục, xử lý của lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan đơn vị trong quân đội. Từ đó quân đội đã luôn xử lý nghiêm minh, có biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời, nên có những hiệu quả thiết thực. Nhiều cá nhân, tập thể mắc sai phạm đã sửa chữa tiến bộ, các cơ quan, đơn vị nói riêng và toàn quân nói chung vẫn không ngừng giữ vững kỷ luật, kỷ cương và trưởng thành phát triển. Điều rất hạnh phúc của quân đội là dù trong quân đội vẫn còn một số sai phạm, dù các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị  thường xuyên dùng các âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tinh vi vu cáo, nói xấu… nhưng Đảng, Nhà nước và tuyệt đại bộ phận nhân dân vẫn dành cho quân đội sự tin tưởng, yêu thương. Đây là niềm tự hào, hạnh phúc, mà cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cần trân trọng, trăn trở suy nghĩ để sống, làm việc tốt hơn, không phụ sự bao dung, tin yêu ấy.

Chúng ta cần bình tĩnh, tỉnh táo, tin tưởng vào sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội. Những hình thức kỷ luật cũng như các bản án nghiêm khắc, nhân văn không làm quân đội yếu đi, mà ngược lại sẽ giúp quân đội trưởng thành, phát triển hơn. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải luôn đoàn kết thống nhất, chủ động rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, trở thành tấm gương mẫu mực để cả cộng đồng tin tưởng, yêu thương và học tập, để ngăn chặn hiệu quả sự lợi dụng xuyên tạc, chống phá./. 

Không thể phủ nhận đóng góp của Quân đội trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh

 Lợi dụng việc một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn đó.

Những hành động và đóng góp nổi bật của toàn lực lượng Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, xứng đáng là điểm tựa tinh thần của quần chúng nhân dân, là chỗ dựa vững chắc của đồng bào, đồng chí cả nước trong công cuộc phòng, chống thiên tai, dịch bệnh . Thế mà các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã lợi dụng việc một vài cán bộ quân đội có sai sót, mắc khuyết điểm để vu cáo, bôi nhọ danh dự quân đội, phủ nhận sự đóng góp tích cực, hiệu quả của quân đội trong thực hiện nhiệm vụ đột xuất, quan trọng này. Trên thực tế quân đội cũng đã kịp thời có biện pháp xử lý kiên quyết, nghiêm minh với vi phạm của một vài cán bộ đó, được dư luận chung đánh giá cao, thêm tin tưởng, yêu quý quân đội, đồng thời bày tỏ sự bất bình, phê phán thái độ, hành động cực đoan với dụng ý không tốt của những kẻ xấu./. 

Bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội - Không thể xuyên tạc

 Trong thời gian vừa qua một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm.

Giữ nghiêm kỷ luật quân đội là bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh để quân đội ta luôn chiến thắng, trưởng thành và phát triển. Vì vậy kỷ luật phải nghiêm minh”. Thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  gần 78 năm qua, cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân đã không ngừng rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, đồng thời giữ vững kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, được Đảng, Nhà nước và nhân dân trân trọng, tin tưởng. Trong xã hội đã từ lâu xuất hiện dư luận đánh giá: Môi trường quân đội rất mẫu mực, là nơi rèn luyện con người nghiêm túc nhất! Nhiều thanh niên, gia đình mong muốn bản thân và con em mình được vào quân đội để rèn luyện, thử thách, trưởng thành.

Trong hoạt động quân sự đầy gian nan, thử thách với biết bao khắc nghiệt đòi hỏi nhiều hy sinh, cống hiến, bên cạnh những chiến công, thành tích, ưu điểm của tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ, thì cũng có một số người mắc phải sai lầm, khuyết điểm, vi phạm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật Nhà nước. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”. “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”. Thấm nhuần tinh thần ấy, Quân đội luôn có quan điểm, thái độ đúng trong đánh giá, xử lý vấn đề này. Số ít cán bộ, chiến sĩ mắc sai phạm tuy chỉ là hiện tượng cá biệt, đơn lẻ, không làm phai nhạt, lu mờ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, không làm thay đổi bản chất tốt đẹp của quân đội./.