Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

SẮT SON NIỀM TIN VỚI ĐẢNG

     Xuân Quý Mão 2023, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục sắt son niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

    Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn sử dụng chiêu trò kích động, phá hoại hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chia cắt mối quan hệ giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Chúng còn trắng trợn kêu gọi, kích động người dân “đứng lên tìm con đường mới”, vì cho rằng con đường cách mạng của Đảng đề ra đã “sai lầm”, “không còn phù hợp với dân tộc và nguyện vọng của nhân dân”…
    Nhưng sự thật 93 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam trưởng thành, phát triển là sự thật đanh thép đập tan sự chống phá của các thế lực xấu.
    Ngày 3 – 2 – 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đến ngày 18 – 12 – 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi, trong đó nêu rõ: “Hỡi công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên, học sinh! Anh chị em bị áp bức, bóc lột!
    Đảng Cộng sản ở Đông Dương đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay, anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng…”.
    Từ lời kêu gọi ấy, Đảng đã cùng cả dân tộc vững bước đi lên thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
    Đảng đã cùng toàn dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, đập tan chế độ thực dân phong kiến, đã đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào, giành và giữ vững độc lập, tự do của đất nước. Đảng đã cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng như lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất độc lập, là hòa bình ấm no…”.
    Tư tưởng, lời dạy quý báu của Hồ Chủ tịch với tinh thần trọn đời vì nhân dân, tất cả vì nhân dân phục vụ được Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì, thực hiện xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến, trong hòa bình, nhân dân đoàn kết thống nhất, một lòng một dạ tin theo Đảng, đi theo Đảng, Đảng vững vàng lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong mọi công việc, Đảng đã thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, ngày 5 – 1 – 1960: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”.
    Trong tình hình thực tiễn hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang tăng cường đoàn kết thống nhất, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trong đó có nội dung: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”… thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.
    Với một Đảng luôn đặt mục tiêu cao nhất là vì đất nước, vì nhân dân, tất cả vì nhân dân phụng sự thì thật dễ hiểu khi nhân dân một lòng một dạ, đoàn kết thống nhất, tự nguyện, tự giác, kiên quyết, kiên trì, tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, đi theo Đảng. Trước lúc đi xa, Hồ Chủ tịch đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta Bản di chúc lịch sử, trong đó Người khẳng định và căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
    Có thực tế hết sức tốt đẹp, rất trân trọng, tự hào là càng trong gian nan, thử thách, dẫu khó khăn trở ngại, cho dù các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ thì mối quan hệ Đảng với dân, dân với Đảng vẫn thủy chung vẹn toàn, vẫn keo sơn gắn bó tạo ra sức mạnh của ý Đảng, lòng dân để cách mạng Việt Nam vẫn vững vàng tiến bước đi lên. Hiện nay, Đảng ta đang kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực, lãng phí với những kết quả thiết thực, qua đó củng cố và tăng cường niềm tin yêu của nhân dân với Đảng, để Đảng vững vàng hơn, đất nước giàu mạnh hơn, nhân dân hạnh phúc hơn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam chính là: “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”.
    Thành công của Đảng và của đất nước 93 năm qua là cơ sở quan trọng, là nguồn động lực to lớn để dân thêm tin Đảng, Đảng thêm tin dân, vững bước đi lên trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn: con đường chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
ST





NHỚ ĐÊM MỪNG CHIẾN THẮNG

     Đó là một đêm tuyệt vời, Hà Nội rền vang tiếng pháo, bầu trời đêm rực sáng. Hòa cùng tiếng pháo nổ vang trời là tiếng cười, tiếng hò reo tưởng như không dứt và cả những giọt nước mắt hân hoan.

    Còn nhớ, sau đêm 29-12-1972, cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 của không quân Mỹ vào Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc kết thúc với thất bại thuộc về phía Mỹ. Kể từ sau đêm đó, Hà Nội trở lại không khí yên bình, trời đêm không còn dậy lên chuỗi âm thanh chết chóc của bom B-52 rải thảm.
    Hồi đó, người dân Hà Nội được thông tin, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, các bên dự đàm phán ký chính thức ngày 27-1-1973, tức ngày 24 tháng Chạp năm Nhâm Tý.
    Hồi hộp xen lẫn lo âu. Khấp khởi chờ đợi chen với khắc khoải. Người Hà Nội nói riêng và người dân miền Bắc nói chung từ gần một tháng trước âm thầm chuẩn bị cho việc đón chào chiến thắng. Từ đầu giờ chiều, phố phường Hà Nội chợt như chùng xuống. Đường phố như vắng hẳn đi, người xe cũng ít ra phố. Sau này, tôi mới được biết, sở dĩ có sự vắng vẻ khác thường ấy bởi đó là khoảng thời gian nhà nhà, người người nín thở hướng về Paris, hướng về chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa mà yên lặng ở trong nhà chờ đợi. Lặng thầm kìm nén để sẵn sàng cho sự ào lên vui sướng.
    Tôi còn nhớ, trong khoảng thời gian chờ đợi ấy, những ai chưa trở về nhà thì mau chóng thu xếp công việc để về nhà. Những ai đang ở xa Thủ đô thì lòng hướng về Hà Nội.
    Tôi đứng trước cửa nhà, ngóng mắt nhìn đường phố. Còn ở trong nhà, bố tôi rút lên tầng 2. Ông trùm chăn, phủ phục trên giường, kiểu như một người bị ốm đang phải xông vậy. Chả là, bố tôi được phân phối chiếc đài bán dẫn của Trung Quốc. Bấy giờ, ông ôm chiếc đài để nghe tin về kết quả ký kết Hiệp định Paris. Cứ thế suốt mấy giờ liền, ông không dám rời khỏi giường, tức là không dám rời chiếc đài bán dẫn, vì chỉ sợ lúc vừa rời nó thì có tin đến lại không nghe được. Ai cũng muốn là người đầu tiên, là người sớm nhất được reo lên và được báo tin chiến thắng cho mọi người.
    Tôi đứng trước cửa nhà, chẳng dám đi đâu. Mắt nhìn ra đường phố nhưng tai tôi hướng lên tầng 2. Tôi chờ đợi giọng nói của bố vọng xuống.
    Mẹ tôi, rồi chị tôi mấy lần gọi, mấy lần ra cửa nhắc tôi vào ăn cơm. Hồi đó, tôi mới 15 tuổi, cái tuổi chưa đói đã đòi ăn, vậy mà bữa ấy tôi không thấy đói. Tôi vẫn đứng trước cửa nhìn đường phố và tai hóng lên tầng 2.
    Đâu như khoảng 8 giờ tối thì phải. Ban đầu còn lẹt đẹt, sau đó mấy tràng pháo nổ ran. Hàng xóm nhà tôi chắc rất tự tin vào kết quả đàm phán nên đốt trước mấy bánh pháo để lấy không khí.
    Rồi cả thành phố rền vang tiếng pháo. Tôi chẳng đợi tiếng reo vang của bố nữa. Tôi với tay vào sau cánh cửa. Chỗ ấy tôi đã treo sẵn bánh pháo Bình Đà mà sau rất nhiều lần xin mẹ một, hai hào mới đủ tiền mua được. Định bụng để dành đến Tết mới đốt nhưng hôm ấy, với tin mừng ký kết Hiệp định Paris, tôi cùng với người dân thành phố đốt pháo để chào mừng!
    Hòa cùng tiếng pháo nối nhau nổ vang quanh khu nhà tôi, dường như cả Hà Nội cùng reo: “Chiến thắng rồi!”, “Hiệp định Paris được ký kết rồi!”.
    Người Hà Nội 50 năm trước đã có một đêm không ngủ như thế. Họ cùng thức với chiến thắng, cùng reo hò với chiến thắng và hân hoan trong tiếng pháo reo vang ngỡ không hề dứt.
ST

 

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc - Thực trạng và giải pháp

(LLCT) - Vùng Tây Bắc gồm 12 tỉnh(1) có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh. Với tiềm năng về nông, lâm nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu, Tây Bắc có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế.


Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, vùng Tây Bắc đã có sự phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các tỉnh vùng Tây Bắc cũng gặp phải không ít những khó khăn, thách thức, đó là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vùng dân tộc và miền núi Tây Bắc còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Do đó, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững vùng Tây Bắc.

1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS ở cơ sở của khu vực Tây Bắc hiện nay

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước”(2), các Tỉnh ủy khu vực Tây Bắc đã tập trung lãnh đạo xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, xác định rõ tiến độ, lộ trình thực hiện. Nhiều đề án đã được xây dựng như: Đề án Đào tạo 100 cán bộ trẻ sau đại học giai đoạn 2012-2015, định hướng đến 2020 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Yên Bái; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái về ban hành chính sách thu hút, đào tạo cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, hỗ trợ đào tạo cán bộ, học sinh, sinh viên người DTTS tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2014-2016; đề án Mô hình chi bộ cụm bản gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng bản, cụm bản phát triển toàn diện; tổ chức điều động, luân chuyển cán bộ trưởng, phó phòng các sở, ngành tỉnh và huyện tăng cường cán bộ cho cấp xã của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Sơn La; Đề án về Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn 2011-2015 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lai Châu; Đề án Quy hoạch đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ chuyên môn và kỹ thuật tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011-2015; Quyết định 718/QĐ-TTg ngày 15-5-2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án củng cố, tăng cường đội ngũ cán bộ dân tộc Mông trong hệ thống chính trị cơ sở các xã địa bàn trọng yếu vùng Tây Bắc giai đoạn 2014 - 2018… 

Nhờ đó, trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ DTTS vùng Tây Bắc đã thực sự được tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, đảm bảo sự lãnh đạo, điều hành quản lý, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội. Theo số liệu báo cáo của Ban chỉ đạo Tây Bắc, hiện nay, toàn khu vực có hơn 50% số cán bộ xã, 77% số công chức xã đạt chuẩn về trình độ theo quy định và 44% số cán bộ không chuyên trách (Phó các đoàn thể, Bí thư chi bộ, trưởng thôn, bản...) được đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài ra, các tỉnh cũng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo hướng căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh cho đội ngũ cán bộ các xã; xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng công tác theo vị trí việc làm đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã và thôn, bản; đề ra giải pháp bố trí, sắp xếp cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, bảo đảm tỷ lệ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số. Đây được coi là cơ sở để các tỉnh thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020.

Công tác phát triển đảng, nhất là ở những địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa được các tỉnh Tây Bắc đặc biệt coi trọng. Năm 2009, toàn khu vực có 3.500 thôn, bản chưa có chi bộ và 268 thôn, bản chưa có đảng viên, đến nay, chỉ còn 1.848 thôn, bản chưa có chi bộ và 86 thôn, bản chưa có đảng viên. Năm 2013, các tỉnh kết nạp được 21.514 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên của toàn khu vực lên 660.826 đảng viên. Ðó là kết quả của hàng loạt biện pháp củng cố chi bộ vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn. Theo lộ trình, đến năm 2018, các tỉnh của khu vực Tây Bắc phấn đấu 100% số thôn, bản có đảng viên; 90% số thôn, bản có chi bộ; 85% số cán bộ chuyên trách cấp xã được đào tạo chuẩn.

Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh”(3), các tỉnh mở nhiều lớp đại học, cao đẳng, trung cấp tại địa bàn, tạo điều kiện cho cán bộ vừa học, vừa làm. Việc phát triển đa dạng các loại hình đào tạo như chính quy, tại chức và thực hiện cải cách hành chính đã giúp cho đội ngũ cán bộ DTTS ở cơ sở được nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu cơ bản trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây được xem là bước đột phá trong việc chuẩn hóa trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở của các tỉnh khu vực Tây Bắc.

Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, các tỉnh đã triển khai các chính sách ưu đãi để thu hút sinh viên chính quy tốt nghiệp loại khá, giỏi các trường đại học về công tác tại các xã, phường. Điển hình như Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái đã ký hợp đồng với 26 sinh viên đã tốt nghiệp đại học là con em đồng bào DTTS về công tác tại các xã, phường. Thành phố sử dụng nguồn tăng thu để chi trả lương và đóng bảo hiểm xã hội cho những cán bộ này; hỗ trợ 30% mức lương hiện hưởng đối với cán bộ các phòng, ban ở thành phố được điều động làm cán bộ ở phường, 40% đối với cán bộ điều động đi xã; cán bộ phường được điều động sang làm cán bộ xã được hỗ trợ 30%...(4).

Hiện nay, số lượng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số đảm đương các chức vụ từ cấp huyện trở lên chiếm tỷ lệ 6,94%; 167 cán bộ người DTTS được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (chiếm 12,13%); 251 cán bộ người DTTS được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; 78 người là đại biểu Quốc hội khóa XIII (chiếm 15,6%) và 280 đại biểu Hội đồng nhân dân tại 25 tỉnh, thành phố có đông đồng bào DTTS sinh sống. Tỷ lệ cán bộ người DTTS được bầu vào cấp ủy, chính quyền, Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã ngày càng được nâng lên theo từng năm. Đây là kết quả tích cực của công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho cán bộ người DTTS.

Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ của Nhà nước đã thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS yên tâm công tác, tập trung trí lực, phát huy tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.

Tuy nhiên, so với yêu cầu, lực lượng cán bộ người DTTS hiện nay còn nhiều bất cập. Về “công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mức”(5). Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trong các tỉnh Tây Bắc thấp hơn nhiều so với các tỉnh khác trong cả nước. Đội ngũ cán bộ xã có trình độ học vấn tốt nghiệp bậc tiểu học và trung học cơ sở trung bình là 79,2%, cán bộ chưa qua đào tạo chiếm 61,9%. Ở các xã đặc biệt khó khăn, trình độ cán bộ xã là người DTTS rất thấp, nhiều nơi cán bộ chủ chốt xã chưa học xong chương trình phổ thông cơ sở. Năng lực điều hành, quản lý của lãnh đạo chính quyền cơ sở ở một số nơi còn yếu, chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Cán bộ người DTTS trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chiếm tỷ lệ thấp so với tỷ lệ đồng bào DTTS ở địa phương. Một số địa phương có tỷ lệ thành viên Uỷ ban nhân dân cấp xã là người DTTS chiếm tỷ lệ hơn 50%, đó là các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai.

 Hầu hết các tỉnh miền núi hiện nay chưa thể tự cân đối được lực lượng cán bộ tại chỗ, phải nhờ vào sự điều động, tăng cường từ Trung ương và các địa phương khác đến. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các huyện vùng cao, vùng xa vẫn chủ yếu do các cán bộ tăng cường đảm nhiệm. Đến thời điểm này, số cán bộ là người DTTS tại các địa phương có đông đồng bào DTTS sinh sống mới đạt gần 40% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức của địa phương. Số cán bộ DTTS nắm giữ các chức vụ chủ chốt ít. Tỷ lệ cán bộ DTTS trong cấp ủy, chính quyền còn thấp. Thực tế này đã tác động đến hoạt động lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đặc biệt khó khăn.

Công tác cử tuyển đi học đối với cán bộ DTTS còn nhiều bất cập. Chỉ tiêu cử tuyển được Trung ương phân bổ từ nhiều trường đại học với các chuyên ngành khác nhau, trong đó có cả những ngành mà địa phương không có nhu cầu tuyển dụng. Khi tiến hành xét tuyển, nhiều nơi, chính quyền làm theo kiểu “lấp đầy chỗ trống”. Do vậy, có những ngành địa phương chưa cần đến nhưng vẫn cử tuyển dẫn đến tình trạng sinh viên người DTTS tốt nghiệp chưa được bố trí công việc phù hợp...

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS vùng Tây Bắc

 Một là, tập trung phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao nhận thức của người dân về công tác đào tạo cán bộ người DTTS

Một trong những rào cản lớn hiện nay trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS ở Tây Bắc là trình độ dân trí thấp, đặc biệt là đối với người nghèo. Mặc dù trong những năm qua, các tỉnh Tây Bắc đã cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận giáo dục cho người nghèo nhưng chất lượng chưa cao, tình trạng bỏ học còn nhiều do gánh nặng chi phí. Giáo dục, đào tạo giúp cho người nghèo có thể tiếp nhận đầy đủ thông tin mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị xã hội nhằm giảm thiểu những hậu quả do đói nghèo, do thiếu tri thức. Để phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho người DTTS các tỉnh Tây Bắc cần:

- Tích cực thực hiện chính sách giáo dục, đào tạo cho thế hệ trẻ. Bắt đầu từ việc triển khai các dự án đầu tư trường, lớp học, nhà bán trú cho học sinh và giáo viên, có chính sách đặc biệt khuyến khích giáo viên lên giảng dạy ở vùng nghèo miền núi; tuyên truyền các chủ trương, chính sách giáo dục, đào tạo để các hộ nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo DTTS hiểu được tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo đối với con em họ và tầm quan trọng của giáo dục đào tạo với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS.

- Tập trung xây dựng trường, lớp học bảo đảm đủ trường, đủ lớp cho người học, tích cực, chủ động kêu gọi và thu hút nguồn vốn tài trợ để nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học. Tăng cường đầu tư cho hệ thống giáo dục cơ sở, đồng thời xây dựng thêm các trường dân tộc nội trú, bán trú nhằm đáp ứng đủ nguồn cán bộ tại chỗ. Đầu tư xây dựng các trường đào tạo như nghề may mặc, cơ khí, sửa chữa máy móc, thiết bị dân dụng,...

Hai là, xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, cán bộ khoa học - kỹ thuật, và đội ngũ trí thức là người DTTS

Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những hạt nhân nòng cốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể từ xã, phường, thị trấn đến các bản, làng. Họ là những người trực tiếp triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở, trực tiếp sống và làm việc với nhân dân. Do đó, họ phải có trình độ văn hóa và nghiệp vụ chuyên môn nhất định, hiểu biết pháp luật và các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với nhân dân,... Chính vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, cán bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng đội ngũ trí thức các dân tộc ít người là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của các tỉnh Tây Bắc nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa vùng đồng bào tộc người thiểu số phát triển hòa nhịp với sự phát triển chung, thực hiện thành công chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS. Để làm được điều đó, cần:

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.

Trên cơ sở thống kê và rà soát lại đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, đánh giá số lượng, chất lượng theo yêu cầu của địa phương và theo tiêu chuẩn đề ra, các tỉnh cần có kế hoạch thay thế, bổ sung và tăng cường từ cấp huyện cho những cơ sở yếu kém. Tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức cần thiết cho đội ngũ này, trong đó quan tâm đến các cán bộ là người DTTS. Cần tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS trong hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số, nhất là đối với các dân tộc có tỷ lệ cán bộ và mặt bằng dân trí thấp như: Mông, Dao, Khơ Mú, Si La... “Đối với xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã) có tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp xã tối thiểu là 10% đến 50% trên tổng biên chế được giao, tùy thuộc vào tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng dân số của xã...”(6).

Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở về các quan điểm, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội Tây Bắc trong những năm sắp tới; các kiến thức về quản lý kinh tế, về pháp luật, các chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại của Đảng và Chính phủ, các chính sách về dân số, về môi trường sinh thái, chủ quyền, an ninh quốc phòng... Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, bằng hình thức vừa làm vừa học và kết hợp với giáo viên tại chỗ ở các cấp học trên địa bàn.

Ngoài ra, các tỉnh trong vùng cần lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận dự nguồn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Đội ngũ kế cận phải được đào tạo để đảm bảo trình độ học vấn ít nhất tốt nghiệp phổ thông cơ sở và được đào tạo lý luận ở các trường chính trị - hành chính, hoặc các trường trung cấp hoặc dạy nghề theo chương trình sơ hoặc trung cấp. Các ban, ngành của huyện, tỉnh phải trực tiếp kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở thông qua việc làm thực tế của họ tại địa phương.

- Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt cán bộ là người DTTS.

Ở Tây Bắc hiện nay, phần lớn cán bộ này là người Kinh, tập trung tại các thành phố hoặc thị xã ở Tây Bắc. Do vậy, Đảng bộ và chính quyền các tỉnh Tây Bắc cần có các chủ trương, chính sách hợp lý, phù hợp với điều kiện của từng địa phương để đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật là người dân tộc ít người. Theo đó, cần có những chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ khoa học - kỹ thuật là người dân tộc ít người, như chính sách nhà ở và đất đai để họ kết hợp làm kinh tế hộ gia đình; chính sách cho con em của họ tại các trường nội trú và chế độ cử tuyển thích hợp.

Ba là, gắn việc đào tạo, bồi dưỡng với việc sử dụng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS

Đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với tuyển dụng, sử dụng cán bộ người DTTS; phải xuất phát từ quy hoạch tổng thể, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Các địa phương cần cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng về những chuyên ngành mà địa phương cần tuyển dụng. Các cơ sở đào tạo, trường dân tộc nội trú cần bảo đảm cân đối trong đào tạo, cả về số lượng và cơ cấu ngành nghề. Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS. Cán bộ người DTTS có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý các cấp. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế, điều kiện, yêu cầu cụ thể của địa phương để tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị bảo đảm tỷ lệ hợp lý, tương ứng với tỷ lệ người DTTS tại địa phương.  

Đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng cán bộ người DTTS phải được quán triệt trong việc thực hiện chính sách cử tuyển cán bộ người DTTS. Để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực người DTTS được đào tạo theo chế độ cử tuyển, cần thực hiện chỉ cử tuyển những ngành địa phương thiếu cán bộ. Sau khi cán bộ người DTTS được đào tạo, cần bố trí công việc sao cho sát với tình hình thực tế. Chính quyền các địa phương có người đi học cử tuyển nên cử người hướng dẫn, giúp đỡ và sắp xếp cho các đối tượng này làm quen với công việc trong một thời gian nhất định, sau đó mới tiến hành thi tuyển công chức.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2016

(1) Tây Bắc gồm 12 tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang và 21 huyện phía tây của hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.252.

(3) ĐCSVN:Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.34.

(4) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2003, tr.80.

(5) Lê Thanh Bình, Phạm Thị Kim Cương:Bài tham luận Hội thảo: “Một số vấn đề về công tác cán bộ DTTS vùng Tây Bắc”.

(6) Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14-3-2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trong giai đoạn mới.

 

 

Nguồn : ThS Nguyễn Thị Tố Uyên

Viện Nhà nước và Pháp luật,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Đúc kết giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và vận dụng trong tình hình hiện nay

(LLCT) - Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khẳng định nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẹn nguyên giá trị, vạch đường đổi mới, soi sáng tương lai. Bài viết đúc kết, khẳng định những giá trị trường tồn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, để tiếp tục học tập và làm theo.


1. Đúc kết giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng hiện nay

Thứ nhất, giá trị “cốt”, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng

Cần phải khẳng định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là nhờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, phải nhận thức khoa học rằng, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tế Việt Nam nên chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn.

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất; là vũ khí không gì thay thế được. Công cuộc đổi mới phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “làm cốt”, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.

Cần phải thấu triệt phương pháp học tập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học tập tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân. Tuân thủ nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phải biết vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề cụ thể trong sự nghiệp đổi mới. Lời dạy của Hồ Chí Minh “chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam chứ không phải là kinh thánh”(1) là định hướng quan trọng trong học tập, nghiên cứu lý luận trong tình hình hiện nay.

Thứ hai, giá trị về mục tiêu và con đường cách mạng

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc đi tới và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, nước mất độc lập thì dân nô lệ, nên phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Không có độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải theo con đường cách mạng vô sản thì mới thành công, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Có được độc lập rồi thì phải đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Tuy nhiên, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hạnh phúc là hạt ngọc lung linh của CNXH. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, CNXH là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Đây chính là mối quan hệ, sự gắn quyện vào nhau giữa dân tộc và giai cấp theo bản chất và lập trường của giai cấp công nhân.

Cống hiến vĩ đại nhất, cũng là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH. Điều này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua minh chứng hoàn toàn đúng đắn. Trong tình hình hiện nay, phải tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Phải “phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”(2).

 Di sản Hồ Chí Minh cho thấy độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để đi tới chủ nghĩa xã hội. CNXH là mục tiêu, con đường bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Tinh thần, lập trường, quan điểm Hồ Chí Minh cho thấy không bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước thì không thể tiến hành sự nghiệp đổi mới thành công. Trong đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phải tích cực xây dựng đất nước theo con đường XHCN, tạo động lực tinh thần và vật chất bảo vệ đất nước. Phải phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, gắn kết chặt chẽ hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thì mới có điều kiện thực hiện khát vọng Việt Nam, xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Người.

Thứ ba, giá trị về dân và đại đoàn kết toàn dân tộc

Hệ giá trị về dân. Một là, dân rất tốt. Họ anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, khôn khéo, trí tuệ, thông minh, sáng kiến, luôn luôn trung thành với Đảng; Hai là, dân là chủ, là gốc, địa vị cao nhất là dân, “tiếng dân chính là truyền lại ý trời”(3); Ba là, dân chúng nhiều tai mắt, cái gì họ cũng nghe, cũng thấy. Họ so sánh đúng, giải quyết đúng, gọn gàng, hợp lý, công minh. Họ biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Bốn là, dân chúng chứa đựng một xung lực mạnh mẽ vô cùng tận, cả tài, sức, lực lượng, quyền, trí, lòng dân; Năm là, nhân dân được hưởng tất cả lợi ích vật chất và tinh thần; Sáu là, dân chúng có trách nhiệm trong cách mạng, kháng chiến, đổi mới, xây dựng đất nước, làm nên những thắng lợi lịch sử; Bảy là, dân tổ chức nên Nhà nước; có quyền và khả năng sửa chữa nghị quyết, cán bộ và tổ chức của ta; Tám là, hạnh phúc của người dân là thước đo năng lực lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phẩm chất đạo đức của cán bộ.

Trước thềm Đại hội XIII, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới. Họ phải được thụ hưởng thành quả của đổi mới. Sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị một chữ “đồng”. Theo Hồ Chí Minh, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân và kẻ thù chỉ sợ dân ta đoàn kết. Đoàn kết của ta không chỉ rộng rãi mà còn lâu dài; là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân ta. Nhờ tín tâm, quyết tâm, đồng tâm, đoàn kết muôn người như một mà chúng ta thắng lợi. Thành công của cách mạng tỷ lệ thuận với chuỗi giá trị của đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết nhân dân, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế. Càng đoàn kết, đại đoàn kết, càng thành công, đại thành công.

Hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, được xác định là đường lối chiến lược của sự nghiệp đổi mới, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn đoàn kết thành sức mạnh thật sự phải lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng. Phải dựa trên lợi ích chung của quốc gia - dân tộc, khơi dậy tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, nhân ái, khoan dung, tôn trọng những điểm khác biệt. Phải giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích, bảo đảm ai cũng được hưởng thành quả đổi mới. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh làm chỗ dựa thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội.

Thứ tư, giá trị về Đảng và Nhà nước

Giá trị về sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng trước hết phải có Đảng. Đảng có vững cách mạng mới thành công. Vai trò của Đảng vừa là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng vừa đem lại chất mới, trình độ mới cho sự phát triển, trường tồn của đất nước.

Giá trị về Đảng cầm quyền. Giá trị này tập trung ở việc xử lý mối quan hệ giữa Đảng với dân. Nhân dân trao sứ mệnh cầm quyền cho Đảng. Đảng cầm quyền nhưng dân là gốc, là chủ. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.

Xử lý mối quan hệ giữa quyền lực và đạo đức. Lý luận và thực tiễn cho thấy quyền lực có xu hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối, tha hóa tuyệt đối. Muốn chống sự tha hóa quyền lực, cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng đạo đức và Đảng phải đan cái lồng cơ chế để kiểm soát quyền lực, đặc biệt là cơ chế dân chủ. Phải ghi tạc lời dạy của Hồ Chí Minh: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”(4). Trong Di chúc - quốc bảo xây dựng đất nước theo tinh thần đổi mới, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Người chỉ rõ kế hoạch xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là công việc to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ vang. “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(6).

Giá trị về Nhà nước. Nước ta là nước Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước của dân (quyền của dân), Nhà nước do dân (dân tổ chức), Nhà nước vì dân (dân hưởng lợi ích). Chính phủ là công bộc của dân. Nhà nước dân chủ chú trọng pháp quyền và đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, chuyên nghiệp, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp “đức trị” với “pháp trị” theo tinh thần giáo dục là chính, nhưng pháp luật phải nghiêm, thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào.

Hiện nay, từ giá trị của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, tập trung xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Tinh thần cơ bản là tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”.

Thứ năm, giá trị văn hóa và con người

Là nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam mang tầm vóc nhân loại, Hồ Chí Minh để lại hệ giá trị toàn diện về văn hóa, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, hướng đến chân - thiện - mỹ. Văn hóa là một mặt trận, nền tảng vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh, soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Hồ Chí Minh xây dựng hệ giá trị toàn diện của con người Việt Nam với tư cách vừa là chủ thể vừa khách thể của văn hóa, gồm đức, trí, thể, mỹ, nói ngắn gọn vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người yêu nước, có trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức pháp luật, dám xả thân vì độc lập - tự do - hạnh phúc, có khát vọng xây dựng nước Việt Nam đàng hoàng, to đẹp, sánh vai với các cường quốc năm châu.

2. Đúc kết giá trị đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng hiện nay

Thứ nhất, giá trị về vai trò của đạo đức cách mạng

Giải phóng dân tộc hay đổi mới, phát triển đất nước đều phải thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng. Theo Người, cách mạng cần đạo đức, con người cần đạo đức, cán bộ, đảng viên lại càng phải có đạo đức. Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức có vai trò như gốc của cây, nguồn của sông, sức mạnh của con người gánh nặng đường xa. Trước đây cũng như hiện nay, thiếu một đức thì không thành người. Người đảng viên - tuy đại biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc - nhưng vẫn trên nền “làm người”; đổ vỡ tư cách làm người, thiếu nhân tính là đổ vỡ tất cả. Cán bộ, đảng viên cũng là người. Song đã hiểu biết, tình nguyện vào Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.

Hơn lúc nào hết, hiện nay phải nhận thức thấu đáo rằng cùng với kinh tế và xã hội, đạo đức là một thước đo, tiêu chí quan trọng của CNXH. Những gì trái với đạo đức cách mạng là trở lực trên con đường xây dựng CNXH, cần phải quét sạch. Đạo đức cách mạng cũng là liều thuốc để chống bệnh công thần, tự cao tự đại, bệnh “say sưa với vòng nguyệt quế”, “cua cậy càng, cá cậy vây”; đồng thời nó giúp người cách mạng vượt qua gian khổ, hy sinh. Không những thế, có đạo đức thì có thể học tập để dần dần có tài năng; ngược lại, có tài năng mà không có đạo đức thì tài năng dễ mai một, thậm chí thành công cụ để làm việc bậy, việc ác, việc xấu xa, gây tác hại lớn cho cách mạng.

Thứ hai, giá trị cốt lõi của đạo đức cách mạng

Phẩm chất đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ mật thiết, trở thành chuẩn mực, mang giá trị trường tồn. Tuy nhiên, cần phải xác định giá trị đạo đức cốt lõi. Theo Hồ Chí Minh, nhận thức và rèn luyện đạo đức cách mạng, trước hết người cán bộ, đảng viên phải có lòng vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, từ đó sẽ tiến đến chí công vô tư. Có chí công vô tư thì lòng dạ mới trong trẻo, đầu óc mới sáng suốt để làm những việc ích nước, lợi dân như cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa, trí, dũng. Như vậy, giá trị cốt lõi của đạo đức cách mạng là chí công vô tư, tức là nêu cao chủ nghĩa tập thể, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết, suốt đời làm người đày tớ thật trung thành của nhân dân, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.

Thứ ba, giá trị thực hành đạo đức.

Quan trọng nhất trong thực hành đạo đức cách mạng là nêu gương, nói đi đôi với làm, nói là làm, nói ít làm nhiều, đem lại hiệu quả thiết thực. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cán bộ cấp chiến lược phải là những tấm gương sáng, đi trước, nói được làm được, khắc vào tim chứ không phải viết lên trán chữ “cộng sản”. Bởi vì, một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Quần chúng chỉ quý trọng những người có tư cách đạo đức, lời nói thống nhất với hành động vì dân, vì nước.

3. Đúc kết giá trị phong cách Hồ Chí Minh và vận dụng hiện nay

Thứ nhất, giá trị về tư duy.

Trong phong cách, hàng đầu và xuyên suốt là phong cách tư duy. Giá trị lớn nhất, đặc sắc nhất là xuất phát từ thực tế, tư duy phải có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn luôn đổi mới, mở rộng tư duy trên cơ sở nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết đã có và hướng tầm nhìn ra thế giới. Phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chí Minh: “Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn”(7).

Phải nhận thức “xã hội bây giờ ngày một phát triển. Nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”(8). Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng đắn, hôm sau đã không hợp thời nữa, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước”(9).

Thứ hai, giá trị phong cách làm việc quần chúng, dân chủ, khoa học.

Về giá trị phong cách làm việc quần chúng. Hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải hiểu thấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình là phụng sự nhân dân, tức là làm đày tớ cho dân. Nói cách khác, phải thực hành nguyên tắc: “Theo đúng đường lối nhân dân” với 6 điều: đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo.

Gắn với phong cách làm việc quần chúng, nổi lên giá trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nghĩa là thực hành dân chủ đối với quần chúng. Hạt nhân của giá trị thực hành dân chủ với quần chúng là bàn luận dân chủ, làm cho người dân dám nói, dám làm, có quyền làm, có quyền nói, dám phê bình cán bộ, đảng viên, chính quyền và Đảng. Dân chủ là dựa vào lực lượng của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một khía cạnh của dân vận khéo. Để làm được điều đó, phải nắm vững và hành động theo quy luật dân vận: óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm.

Về giá trị phong cách làm việc dân chủ. Cần thực hành tốt phong cách lãnh đạo dân chủ. Lãnh đạo dân chủ là phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng; là giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; là thực hành tự phê bình và phê bình; là bàn luận dân chủ. Hồ Chí Minh khuyến khích cán bộ “có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được”(9).

Dám cãi, dám phê bình Đảng, Chính phủ và cán bộ cấp trên, “khiến cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”(10) là những giá trị dân chủ lớn cần được khai thác, phát huy, vận dụng sáng tạo trong tình hình hiện nay. Chỉ có như vậy mới tạo ra sự đột phá, tiếp cận gần với chân lý, tạo sức mạnh, động lực trong chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Giá trị khoa học trong phong cách làm việc. Làm việc khoa học là phải cụ thể, đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên cứu, nắm người, nắm việc, hiểu thấu từ gần đến xa, từ hẹp đến rộng, từ chi tiết nhỏ đến những vấn đề lớn của đất nước và thế giới. Làm việc phải có chương trình, kế hoạch, nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, tình hình thực tế, năng lực cán bộ; kế hoạch phải gắn với biện pháp và quyết tâm. Phải kịp thời, thiết thực, toàn diện nhưng có trọng điểm, điển hình, cụ thể. Phải xuất phát từ gốc, coi trọng ý kiến và so sánh kinh nghiệm của dân chúng, có quần chúng giúp sức, chống quan liêu. Đó là cách lãnh đạo đúng.

Công tác cán bộ cũng phải chứa đựng giá trị khoa học. Xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ phải tỉnh táo, khách quan, tinh tường, dựa vào quần chúng. “Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt”(11).

Làm việc khoa học là phải kiểm tra, vì lãnh đạo mà không kiểm tra, coi như không lãnh đạo. Cuối cùng là rút kinh nghiệm, tìm ra bài học thành công và chưa thành công hoặc thất bại cho giai đoạn tiếp theo.

Những nội dung trên là đúc kết bước đầu những giá trị lớn, trường tồn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để làm căn cứ khoa học, định hướng nội dung triển khai việc tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2021

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.120.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.147.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.97.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.127.

(5), (6), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.611-612, 617, 661.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.98-99.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.55.

(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.319, 319.

Nguồn : PGS, TS Bùi Đình Phong


 

Giải pháp thực hiện hiệu quả công tác dân tộc trong thời kỳ mới

(LLCT) - Thực hiện tốt công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Bài viết đánh giá vai trò của công tác dân tộc trong quản lý, khai thác và phát huy các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số (DTTS) thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân tộc trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.


1. Thực trạng thực thi chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay

Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển là nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc được Đảng ta đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), được khẳng định trong văn kiện các Đại hội, nghị quyết Hội nghị Trung ương của Đảng và trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011(1).

Nguyên tắc này được cụ thể hóa thông qua hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi(2). Nhờ đó, kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những bước phát triển.

Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi thời kỳ đổi mới, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế còn tồn tại của hệ thống chính sách(3), đó là:

Thứ nhất, hệ thống chính sách thiếu đồng bộ. Các chính sách phát triển vùng dân tộc, miền núi ở nước ta hướng tới khai thác nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội miền núi, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhưng do cơ chế thực hiện thiếu đồng bộ, quá trình triển khai còn hạn chế, nên chưa tạo điều kiện cho các hộ nghèo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần. Các văn bản quản lý, hướng dẫn thực hiện một số chính sách chậm được ban hành. Một số chính sách khó thực hiện, hoặc không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung.

Đối tượng thụ hưởng chính sách chưa rõ ràng, khâu quản lý, tổ chức thực hiện chính sách chưa công khai, minh bạch; các chính sách thiếu sự kết nối về nội dung, nhiệm vụ, trùng lắp về địa bàn và đối tượng thụ hưởng. Cụ thể, nội dung hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng có 24 chính sách, được cụ thể hóa bằng các chương trình khác như: Chương trình 135, Chương trình 30a, Chương trình giảm nghèo, Chương trình định canh, định cư,... Nội dung hỗ trợ phát triển sinh kế có tới 20 chính sách khác nhau được ban hành; hỗ trợ đồng bào dân tộc vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, song các mức vay và lãi suất cho vay khác nhau, không thống nhất.

Thứ hai, nội dung chính sách thiếu công bằng. Công bằng là yêu cầu quan trọng trong xây dựng và thực thi chính sách vùng dân tộc, nhằm bảo đảm xử lý hài hòa mối quan hệ nội bộ từng dân tộc cũng như mối quan hệ giữa các dân tộc. Công bằng còn được nhìn nhận dưới khía cạnh bình đẳng cơ hội phát triển giữa các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc rất ít người, sinh sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản và quyền tham chính. Hiện nay, một số chính sách ưu đãi phát triển cho vùng dân tộc và miền núi được áp dụng chung trên cả nước, nhưng khó thực thi ở một số vùng, hoặc người dân ít được hưởng lợi từ chính sách. Chẳng hạn, ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc, điều kiện tự nhiên khó khăn, nguồn lực hạn chế; kết cấu hạ tầng yếu kém cả về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, do đó nhu cầu đầu tư lớn hơn, nhưng do chính sách đối với các vùng đều như nhau nên gây bất lợi cho sự phát triển của khu vực này.

Thứ ba, các chính sách hỗ trợ cho người nghèo còn mang tính bao cấp, như chính sách hỗ trợ gạo, vải mặc, dầu hỏa, cấp tiền điện, v.v, chưa thúc đẩy các hộ tự vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống; chưa có chính sách đối với các hộ cận nghèo, do đó, làm tăng tính ỷ lại của đối tượng thụ hưởng, một số hộ nghèo không muốn thoát nghèo, một số hộ cận nghèo muốn được công nhận là hộ nghèo để hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Có nhiều chính sách được ban hành nhưng nguồn lực thực hiện chưa đáp ứng nhu cầu; việc xây dựng chính sách mang tính nhiệm kỳ, ngắn hạn, thời gian và nguồn lực thực hiện không tương xứng. Vì vậy, hiệu quả thực thi chính sách còn hạn chế.

Thứ tư, công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách chưa phù hợp.

- Năng lực xây dựng và ban hành chính sách còn yếu, chất lượng chính sách chưa cao. Sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành trong xây dựng và phân bổ nguồn lực chưa chặt chẽ. Nhiều chính sách ban hành không sát với nhu cầu thực tiễn nên hiệu quả không cao, cách tiếp cận, hỗ trợ của chính sách chưa tạo sự năng động, sáng tạo cho người thụ hưởng chính sách.

- Việc phân công quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách còn chồng chéo. Các chính sách được xây dựng với mục tiêu lớn, nhưng thời gian thực hiện mang tính nhiệm kỳ, ngắn hạn. Cơ chế thực thi chính sách không đồng bộ, việc phân công quản lý, điều hành một số chương trình, dự án có sự chồng chéo về đối tượng và địa bàn, trùng lắp về nội dung... Một số chính sách còn thiếu sự phối hợp hoặc bỏ sót vai trò của hệ thống các cơ quan làm công tác dân tộc dẫn đến khó khăn trong triển khai. Vai trò và trách nhiệm của từng bộ, ngành chưa rõ ràng, cụ thể; năng lực phối hợp thực thi chính sách còn hạn chế, nguồn lực thực hiện phân tán, thiếu sự điều phối thống nhất. Hầu như mỗi chính sách giảm nghèo được ban hành có nguồn lực riêng, đòi hỏi cơ chế tài chính riêng dẫn đến việc phân bổ nguồn lực phân tán, manh mún, nhiều đầu mối.

- Việc phân cấp thực hiện thiếu đồng bộ. Thí dụ, với các công trình cùng quy mô, nhưng có công trình do xã quản lý, có công trình do huyện làm chủ đầu tư. Các chương trình, dự án không gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều công trình cùng lúc triển khai trên địa bàn nhưng không được tham vấn dẫn đến việc lồng ghép các nguồn lực gặp khó khăn, làm giảm hiệu quả đầu tư, quy trình giám sát cộng đồng bị coi nhẹ, nhiều nơi mang tính hình thức.

- Quá trình thực hiện chính sách chưa gắn với cân đối, bố trí nguồn lực, chưa bám sát thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Phần lớn các chính sách đều mang tính hỗ trợ, định mức đầu tư thấp dẫn đến tình trạng manh mún; có chính sách chậm bố trí vốn, phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức không còn phù hợp. Có chính sách cấp vốn thiếu đồng bộ (vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, vốn vay...) dẫn đến khó khăn trong thực hiện; có chính sách cấp không đủ vốn, các địa phương bố trí dàn trải không dứt điểm từng công trình, ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách. Cơ chế phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, còn mang tính bình quân, chưa căn cứ vào quy mô dân số, vị trí địa lý, điều kiện phát triển và mức độ khó khăn của địa phương.

- Việc thực hiện một số chính sách thiết yếu về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo chưa được giải quyết dứt điểm; việc quy hoạch, đền bù, tái định cư tại một số dự án kinh tế - xã hội như: thủy điện, khai khoáng, các dự án thu hồi đất và giao đất cho nông, lâm trường... chưa thỏa đáng, chưa phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa của từng dân tộc, chưa gắn nơi ở với địa bàn canh tác, do đó đồng bào không thích nghi với cuộc sống mới, nguy cơ di cư tự do và tái nghèo cao.

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát triển và tăng cường đoàn kết các dân tộc trong thời gian tới

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác quản lý nhà nước về phát triển các dân tộc thiểu số.

Từ kinh nghiệm của các quốc gia đa dân tộc và thực tiễn nước ta cho thấy, để thực hiện quản lý nhà nước về phát triển DTTS, cần sớm ban hành Luật Hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn chủ trương của Đảng trong lĩnh vực dân tộc. Luật Hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ quy định các vấn đề về nguyên tắc hỗ trợ, các chính sách hỗ trợ và tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về chính sách dân tộc, về quyền con người, quyền công dân của các dân tộc; khắc phục những bất cập về thể chế và chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề dân tộc mà Việt Nam tham gia và cam kết thực hiện, như: Công ước về các quyền dân sự, chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ..., qua đó thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Nhà nước Việt Nam.

Việc xây dựng chính sách phải bảo đảm đúng quy trình, thủ tục quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung chính sách phải bảo đảm tính khoa học, thống nhất và có sự liên kết, tránh chồng chéo, xung đột, mâu thuẫn. Cần tiến hành rà soát chính sách dân tộc hiện nay để điều chỉnh phù hợp với yêu cầu tình hình mới.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý không chỉ là những nội dung quy định về quản lý, phân công trách nhiệm và quyền lợi giữa các cấp, các tổ chức, mà còn bao gồm hướng dẫn xây dựng, cải tiến tổ chức và điều hành bộ máy, góp phần tăng cường sự tham gia của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp ở địa phương trong thực hiện công tác dân tộc và hỗ trợ phát triển vùng dân tộc và miền núi. Xây dựng mạng lưới, thúc đẩy sự liên kết giữa các tổ chức và cá nhân trong hỗ trợ phát triển vùng dân tộc và miền núi.

Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện cơ chế hoạch định và thực thi chính sách dân tộc.

- Tăng cường sự phối hợp trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Hệ thống chính sách dân tộc liên quan đến nhiều lĩnh vực, do nhiều ngành chịu trách nhiệm quản lý nên cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan, nhất là các bộ chuyên ngành.

Cần tuân thủ đúng quy định của Hiến pháp về vai trò tham gia của Hội đồng Dân tộc đối với các dự thảo chính sách dân tộc trước khi Chính phủ ban hành. Ủy ban Dân tộc chủ động hình thành cơ chế quản lý thông tin về hệ thống chính sách dân tộc ở cấp tỉnh và Trung ương; xây dựng kế hoạch, chương trình công tác; phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Dân tộc trong việc xác định vấn đề chính sách, xây dựng nội dung chính sách và tổ chức thực thi, tiến hành kiểm tra, giám sát hằng năm và 5 năm.

Cải tiến tổ chức và điều hành quản lý trên cơ sở những chế định rõ ràng về trách nhiệm, phân công hợp lý, xác lập cơ cấu tổ chức phù hợp. Cần tiếp tục đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân... vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn. Một số hoạt động có thể giao trực tiếp như: Quản lý tín dụng giao cho Hội phụ nữ, mô hình kỹ thuật giao cho Đoàn thanh niên hoặc tổ chức khác tùy theo điều kiện từng nơi.

- Đổi mới công tác giám sát, đánh giá, quản lý theo mục tiêu chính sách, thiết lập hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu phù hợp.

Công khai hóa các chương trình, dự án đầu tư, đặc biệt là nguồn lực tài chính, cơ chế thực thi chính sách, các chế độ liên quan đến người nghèo, đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, để người dân được biết và tham gia, bảo đảm nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nghiên cứu đổi mới hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá chung và cụ thể hóa cho từng chính sách phục vụ công tác giám sát, đánh giá các cấp.

Tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát, chia sẻ thông tin giữa các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện các chính sách và sử dụng các nguồn tài chính huy động được.

Đổi mới công tác thanh tra của Ủy ban Dân tộc, tăng cường hoạt động thanh tra của các Ban Dân tộc địa phương; tập trung vào các vụ việc nổi cộm, có giải pháp xử lý rõ ràng, gắn với kiến nghị điều chỉnh chính sách hoặc cơ chế quản lý.

Tăng cường các hoạt động khảo sát, giám sát; tổ chức các phiên giải trình của Hội đồng Dân tộc, các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về những nội dung liên quan đến thực hiện chính sách dân tộc. Phối hợp tổ chức các phiên giải trình về chính sách liên quan đến các bộ, ngành; tổng hợp các vấn đề cấp thiết cũng như đề xuất giải pháp liên quan đến cơ chế, chính sách đưa ra diễn đàn Quốc hội để kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước.

- Tăng cường công tác thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ, minh bạch và đẩy mạnh nghiên cứu phục vụ điều hành, quản lý. Nắm bắt tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trật tự và môi trường vùng dân tộc và miền núi, trong đó, tập trung vào vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, khu vực biên giới; các dân tộc còn nhiều khó khăn, các dân tộc ít người, vùng tiềm ẩn nhân tố gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự xã hội.

Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về đặc điểm, điều kiện tự nhiên, xã hội, dân tộc cùng các chỉ số phát triển cho các vùng, các dân tộc, đơn vị hành chính. Thông tin về chính sách và tiến trình thực hiện chính sách, kết quả và những tác động ảnh hưởng đến các cơ quan quản lý có liên quan, phương tiện thông tin đại chúng nhằm tăng cường thông tin và nhận thức chung.

- Đổi mới cách thức thông tin, phổ biến, quán triệt chính sách đến cơ sở, người dân. Tổ chức truyền thông, tuyên truyền và phân phối thông tin theo nhiều kênh khác nhau như: truyền hình, phát thanh, báo chí, internet, tuyên truyền lưu động phù hợp với điều kiện từng vùng, địa phương về chủ trương, chính sách dân tộc và chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc và miền núi. Thông tin rộng rãi về các mô hình và kinh nghiệm phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo hiệu quả ở các vùng sinh thái, với các quy mô khác nhau.

- Nâng cao năng lực của cấp ủy và chính quyền các cấp trong vận dụng và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với đặc điểm từng địa phương. Ban Dân vận cần tăng cường khả năng tham mưu cho cấp ủy địa phương về công tác dân vận vùng đồng bào DTTS; Ban Dân tộc phối hợp với các ban, ngành xây dựng các chương trình, dự án phát triển cũng như đề xuất các kiến nghị, giải pháp để bổ sung, hoàn chỉnh chính sách. Cấp ủy và chính quyền cấp huyện và cơ sở không ngừng nâng cao vai trò trong tổ chức và phối hợp thực hiện chủ trương, chính sách chung của Trung ương, của địa phương cũng như các chương trình, dự án cụ thể.

Thứ ba, đổi mới tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy thực hiện công tác dân tộc.

 Trước hết, cần hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ thống cơ quan phụ trách công tác dân tộc ở Trung ương và địa phương trên cơ sở bảo đảm số lượng, chất lượng, tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện chính sách dân tộc. Xây dựng cơ chế phối hợp, xác định rõ vai trò, trách nhiệm cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc; cơ quan quản lý chuyên ngành, cơ quan thực hiện chính sách và các cấp chính quyền địa phương.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc. Chú trọng đào tạo, xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ gắn với dân chủ hóa trong đời sống kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, khắc phục tư tưởng xa dân, quan liêu và cục bộ. Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức các ngành, các cấp có liên quan để có đủ khả năng và kiến thức hoạch định chính sách, quản lý và triển khai các chương trình phát triển ở vùng dân tộc và miền núi.

Xây dựng và ban hành chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức người DTTS phù hợp với điều kiện, khả năng và tình hình cụ thể mỗi giai đoạn. Nâng cao ý thức trách nhiệm chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước Đảng, trước đồng bào các DTTS, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân.

Thứ tư, gắn chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi với chính sách xây dựng khối đoàn kết các dân tộc. Trong đó, chăm lo phát triển kinh tế nhằm cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và đồng bào các dân tộc có số dân ít đang còn nhiều khó khăn là nền tảng bền vững để xây dựng khối đoàn kết các dân tộc.

Quan tâm xây dựng lực lượng chính trị trong vùng đồng bào các DTTS để họ tự đảm nhận công việc tại cơ sở, đưa dân tộc mình tiến lên cùng các dân tộc khác. Phát huy vai trò của những người có uy tín (già làng, trí thức DTTS) trong quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các dân tộc.

Đổi mới công tác dân vận, công tác vận động quần chúng, thật sự hướng về cơ sở, nhất là các thôn, buôn vùng đồng bào các DTTS, đồng bào có đạo. Nội dung, phương pháp vận động cụ thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào.

Mặt trận và các đoàn thể các cấp phối hợp chặt chẽ với chính quyền, hoạt động thông qua quy chế phối hợp, hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng tôn giáo, từng tộc người, đến từng hộ gia đình, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, vùng đồng bào có đạo.

Công tác vận động quần chúng phải được coi là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của hệ thống chính trị các cấp, trong đó, cấp cơ sở có trách nhiệm chủ động, tự lực, trực tiếp thực hiện. Các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đẩy mạnh các phong trào hoạt động của quần chúng và cử cán bộ tham gia các đội công tác phát động quần chúng. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2021

(1) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, 1996, 2001, 2006, 2011, 2016.

(2) Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, đến năm 2017, có khoảng 66 luật và hơn 200 văn bản dưới luật có nội dung liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc, từ đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục đến an ninh và quốc phòng... vùng DTTS và miền núi. Trong số các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân tộc, có 1 Nghị định, còn lại chủ yếu là thông tư, quyết định phê duyệt các chương trình, kế hoạch hỗ trợ phát triển, mang tính chất quản lý, điều hành việc thực hiện, triển khai các dự án, chương trình đầu tư, hỗ trợ cụ thể (Báo Biên phòng). Ngoài ra, các địa phương đã chủ động thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước bằng việc ban hành những chủ trương, chính sách riêng phù hợp với đặc thù của từng địa phương. (Nguồn: Trương Minh Dục (Chủ nhiệm đề tài): Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp quốc gia: “Xu hướng biến đổi quan hệ dân tộc: Những vấn đề đặt ra và định hướng chính sách”, mã số: KX.04.21/16-20).

(3) Cụ thể: Phạm Văn Hùng (Chủ biên): Một số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015; Vũ Trường Giang và Nguyễn Thị Thêu: Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đánh giá tác động của các trào lưu lý luận dân tộc cơ bản trong thế giới đương đại đối với Việt Nam hiện nay, do Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị khu vực III và Ủy ban Dân tộc phối hợp tổ chức, Đà Nẵng, tháng 10-2017; Lê Văn Lợi (Chủ biên): Giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018; Trương Minh Dục (Chủ nhiệm đề tài): Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp quốc gia: “Xu hướng biến đổi quan hệ dân tộc: Những vấn đề đặt ra và định hướng chính sách”, mã số: KX.04.21/16-20, v.v..

 

Nguồn : PGS, TS Trương Minh Dục

Học viện Chính trị khu vực III