Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

 

Yêu cầu cấp bách xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm định chất lượng giáo dục đại học

(LLCT) - Tại Hội thảo “Đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Chương trình đổi mới đào tạo nghề tại Việt Nam (GIZ) tổ chức, các tham luận đã nêu số liệu thống kê quý III năm 2015 cả nước có 225 nghìn người trình độ cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, lãng phí nguồn lực nhà nước và xã hội.

Nguyên nhân cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp có nhiều, có thể khái quát lại 2 lý do cơ bản: (1) có ít chỗ làm so với nhu cầu của số người tìm việc phù hợp với ngành nghề đã được đào tạo; (2) có chỗ làm việc nhưng người tìm việc không đáp ứng trình độ hoặc không muốn làm những công việc đó. Trường hợp thứ nhất là vấn đề “thiếu hụt chỗ làm việc”, phản ánh tình hình “sức khỏe” nền kinh tế đất nước; trường hợp thứ hai là vấn đề nguồn nhân lực không phù hợp cơ cấu đào tạo nghề hoặc chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực. Ở đây, vấn đề cốt lõi là đào tạo nghề, kỹ năng nghề chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Hay nói cách khác, chất lượng, hiệu quả đào tạo của các trường đại học chưa đạt yêu cầu.

Thực trạng trên phản ánh những yếu kém trong hoạt động đào tạo đại học. Cụ thể là, đào tạo đại học tăng khá mạnh về quy mô số lượng song chất lượng còn nhiều bất cập, nhiều trường đại học, cao đẳng được mở ra, các trường chạy theo chỉ tiêu số lượng, chỉ tiêu tuyển sinh tăng nhanh, dẫn đến quá tải; trong khi đào tạo dàn trải, mất cân đối, chương trình đào tạo không dựa vào thông tin thị trường lao động và việc làm, nhu cầu thị trường lao động; nảy sinh tình trạng tiêu cực, thương mại hóa trong giáo dục. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó là:

Năng lực của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành giáo dục cấp vĩ mô và vi mô còn yếu kém. Công tác quản lý vĩ mô giáo dục đã có rất nhiều chương trình, đề án được đầu tư với chi phí lớn, hy vọng mang lại sự đổi mới giáo dục toàn diện, nhưng kết quả đạt được không như mong đợi. Muốn xây dựng được nền giáo dục hội nhập thành công trong thời kỳ toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, đòi hỏi bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ chuyên nghiệp cao, tinh thần trách nhiệm lớn.

Cơ chế tự chủ tài chính nửa vời như hiện nay đã dẫn tới đa số các trường đại học chạy theo số lượng, quy mô đào tạo để có nguồn tài chính bù đắp các khoản chi thường xuyên mà coi nhẹ chất lượng. Hệ quả là, một số trường công đua nhau tăng số lượng giảng viên nhằm đáp ứng về tỷ lệ giảng viên/sinh viên theo yêu cầu của Quy chế do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để từ đó có điều kiện tăng số lượng sinh viên được tuyển. Trong khi tăng nhanh về số lượng thì khó có thể bảo đảm chất lượng đội ngũ, cả về trình độ, kinh nghiệm và năng lực giảng dạy của giảng viên trẻ. Nhiều trường chỉ quan tâm tuyển các ngành, chuyên ngành mà mình có thế mạnh, tiềm năng mà không quan tâm tới cơ cấu nhu cầu lao động xã hội và đòi hỏi về chất lượng sản phẩm đào tạo, dẫn đến lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường thất nghiệp ngày càng cao.

Ngoài ra, các cơ sở giáo dục đại học, một mặt vẫn yêu cầu nhiều quyền tự chủ hơn nhưng lại chưa chủ động thực hiện các công việc quản lý của mình và nhất là chưa thể hiện sự chịu trách nhiệm cao về chất lượng đào tạo giáo dục đại học, thể thiện ở sự công khai với nhà nước, cán bộ, sinh viên và xã hội những hoạt động của nhà trường theo các quy trình, cơ chế được xây dựng và pháp lý hóa.

Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo (CTĐT) trong nhiều trường chưa được chú trọng đúng mức. CTĐT cùng khối ngành thường có nhiều môn học giống nhau, không có đặc thù của từng trường. Nhiều trường tập trung dạy những môn mà nhà trường có giảng viên chứ không phải dạy những môn học mà xã hội và người học cần. Có trường quá tập trung vào lý thuyết; có trường lại quá tập trung vào trang bị kỹ năng thực hành, không có nền tảng kiến thức vững. Nhìn chung, CTĐT nhiều trường không theo kịp với sự phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Về phía người học, sinh viên hiện nay thiếu nhiều kỹ năng và sống thực dụng, bởi số sinh viên thực sự chăm học, có ý thức tự rèn luyện tu dưỡng thì không nhiều. Điển hình là thư viện trường đại học ở các nước có nền giáo dục phát triển thường là trung tâm tự học, tự nghiên cứu, luôn thu hút đông đảo sinh viên, người nghiên cứu, thường mở cửa suốt ngày đêm, kể cả ngày lễ, trong khi đó, hệ thống thư viện ở các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, mặc dù được cải thiện, hiện đại hơn nhưng số lượng người đọc rất ít, phản ánh thực trạng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên Việt Nam rất nhiều hạn chế.

Đối với hệ đào tạo đại học vừa làm vừa học (tại chức, từ xa,...), học ngoài giờ hành chính (buổi tối, thứ Bảy, Chủ nhật), thường không có sự quản lý chặt chẽ (cả tự quản và bị quản), nên việc sinh viên dự giờ không đều, việc nghe giảng và làm bài không nghiêm túc. Bên cạnh đó là việc tự học và tự nghiên cứu đối với đối tượng này thường đặt ở hàng thứ yếu. Như vậy, hệ quả tất yếu là chất lượng học tập sẽ không cao.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của những yếu kém trong giáo dục đại học là hoạt động đảm bảo chất lượng tại nhiều cơ sở đào tạo vẫn chưa được triển khai nghiêm túc. Việc nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn hoạt động tự đánh giá trong đảm bảo chất lượng ở các trường đại học chưa trở thành hệ thống mang tính khoa học. Một số báo cáo tự đánh giá (đánh giá nội bộ) còn mang tính chất “đối phó”, hệ tiêu chí, tiêu chuẩn chưa đi sâu vào chất lượng và tính thực tế. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm định chất lượng giáo dục (kiểm định viên) tại một số trường đại học, cao đẳng chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Số lượng cán bộ được tham gia vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiểm định viên còn hạn chế.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các trường đại học đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp và nhiều đổi mới, cải cách, kiên trì thực hiện trong quá trình lâu dài, có bước đi cụ thể. Trong đó, một trong những cách thức được xác định là giải pháp mấu chốt là tăng cường công tác kiểm định chất lượng giáo dục.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập 4 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) thuộc các trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng, và Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. Các trung tâm có chức năng, nhiệm vụ: Đánh giá và công nhận các cơ sở giáo dục (CSGD) và CTĐT, tư vấn cải thiện chất lượng cho các cơ sở giáo dục, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam; trở thành thành viên tích cực của các hiệp hội kiểm định có uy tín trong nước và quốc tế. Với mục tiêu đảm bảo hoạt động kiểm định và tư vấn được thực hiện có chất lượng; là kênh thông tin đáng tin cậy về chất lượng giáo dục cho toàn xã hội.

Đây là một giải pháp quan trọng, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc học hỏi kinh nghiệm từ các trường đại học ở các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới là rất cần thiết trong quá trình xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục. Cụ thể là, cần tăng cường công tác đào tạo đội ngũ kiểm định viên, đáp ứng nhiệm vụ đánh giá và công nhận các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo, tư vấn cải thiện chất lượng cho các cơ sở giáo dục, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 

Tuy nhiên, KĐCLGD là công việc còn mới đối với nhiều cơ sở đào tạo nên trong thực tế nhiều cán bộ vẫn còn lúng túng về quy trình kiểm định; tiến độ triển khai ở các cơ sở giáo dục còn chưa đồng đều, đội ngũ làm công tác KĐCLGD chưa đáp ứng được yêu cầu, điều kiện làm việc còn khó khăn.

Kiểm định viên là cánh tay nối dài của Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục. Kết quả đánh giá chất lượng sẽ dựa trên văn hóa minh chứng, tiêu chuẩn, tiêu chí và thang đo. Vì vậy, điều khó nhất của kiểm định viên là chỉ ra những điều cần phải cải tiến, các khuyến cáo mang tính tác nghiệp cụ thể trong quá trình thực hiện công tác kiểm định.

Việc đào tạo và phát triển kiểm định viên là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhằm phục vụ công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục cho các cơ sở giáo dục đại học, trung cấp chuyên nghiệp của cả nước. Ngày 10-3-2014, lần đầu tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo giao Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức đào tạo kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp.

Tính đến tháng 8-2016, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức 13 khóa đào tạo kiểm định viên KĐCLGD đại học và trung cấp chuyên nghiệp, với hơn 500 học viên. Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức 7 khóa, với hơn 194 học viên. Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Đại học Đà Nẵng đã tổ chức 2 khóa, với hơn 90 học viên.

Hiện nay, với tổng số trên 700 trường đại học, trung cấp chuyên nghiệp, cần một lực lượng lớn kiểm định viên để đảm trách công tác này, nhưng đến nay chỉ có gần 800 người được cấp chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo kiểm định viên, trong đó chỉ có 155 kiểm định viên được cấp thẻ. Trong khi đó, theo quy định, “Kiểm định viên là người được tuyển chọn, đã hoàn thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiểm định viên theo quy định, được cấp thẻ kiểm định viên, thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng giáo dục theo yêu cầu của các cơ sở giáo dục và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác”(1).

Để đạt mục tiêu mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra: “...Phấn đấu tại mỗi đơn vị chuyên trách: đến cuối năm 2015, có ít nhất một cán bộ đã hoàn thành khóa đào tạo kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục và được cấp chứng chỉ; đến cuối năm 2016, có ít nhất một cán bộ được cử đi đào tạo thạc sĩ đo lường đánh giá giáo dục hoặc đào tạo tiến sĩ với đề tài luận án liên quan đến đảm bảo chất lượng và khảo thí”(2), thì việc đào tạo kiểm định viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới giáo dục.

Kiểm định viên, trước hết cần có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công tác đảm bảo chất lượng và KĐCLGD đối với giáo dục đại học, để từ đó thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của người kiểm định viên; tham gia các đoàn đánh giá ngoài, thực hiện các hoạt động đảm bảo chất lượng (ĐBCL), góp phần xây dựng “văn hóa kiểm định chất lượng”.

Để đáp ứng yêu cầu công tác, đào tạo kiểm định viên cần trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản sau:

- Vận dụng thành thạo các phương pháp khảo sát, phân tích và viết báo cáo tự đánh giá và đánh giá ngoài cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo.

- Phân tích, đánh giá báo cáo tự đánh giá của CSGD hoặc CTĐT và các hồ sơ liên quan;

- Thực hiện hoạt động phỏng vấn, quan sát, thu thập và xử lý thông tin trong quá trình đánh giá ngoài;

- Lập kế hoạch và triển khai kế hoạch đánh giá ngoài CSGD và CTĐT;

- Có kỹ năng làm việc nhóm và lãnh đạo nhóm; tổ chức, điều hành, phối hợp các hoạt động đánh giá ngoài CSGD và CTĐT;

- Có khả năng làm việc độc lập, tư duy phản biện;

- Có khả năng phản biện, đánh giá công bằng, chính xác chất lượng CSGD và CTĐT;

- Có khả năng tham gia xây dựng hệ thống ĐBCL bên trong của CSGD đại học và TCCN

KĐCLGD là công việc “cầm cân nảy mực”, sử dụng các công cụ đo lường để khẳng định chất lượng đào tạo của nhà trường, của chương trình đào tạo. Việc tổ chức đánh giá chính xác, công tâm, khách quan là trách nhiệm của các Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục mà người trực tiếp “cầm cân nảy mực” là các kiểm định viên. Do vậy, đòi hỏi các kiểm định viên không những hiểu biết sâu rộng về giáo dục nói chung và giáo dục đại học, trung cấp chuyên nghiệp nói riêng mà cần có kinh nghiệm trong xem xét, đánh giá khả năng, năng lực thực tế của các cơ sở giáo dục và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao. Việc tuyển dụng kiểm định viên cần phải được thực hiện chặt chẽ, để đội ngũ cán bộ làm công tác KĐCLGD cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

- Phải nắm được các mô hình quản lý chất lượng, hệ thống đảm bảo chất lượng và KĐCLGD trên thế giới cũng như tại Việt Nam; phải hiểu rõ quá trình thực hiện đảm bảo chất lượng bên trong và tự đánh giá đối với CSGD mình đang công tác, và đảm bảo chất lượng bên ngoài và đánh giá đồng cấp đối với các CSGD khác; am hiểu các chủ trương, chính sách, hoạt động đảm bảo chất lượng và KĐCLGD của Việt Nam và định hướng phát triển.

- Hoạt động thực sự chuyên nghiệp, bảo đảm trung thực, công tâm, khách quan khi xem xét, đánh giá chất lượng giáo dục của các CSGD.

- Tổ chức đoàn đánh giá ngoài, thông thường bao gồm chuyên gia KĐCL, ĐBCL, chuyên gia giáo dục đại học, và những nhà quản lý GDĐH dày dạn kinh nghiệm với sự hỗ trợ của nhân viên tổ chức KĐCL. Đánh giá ngoài không chỉ là xem xét công tác đào tạo hay CSGD có đạt tiêu chuẩn đặt ra hay không mà còn phải chỉ ra những điểm yếu và đưa ra các khuyến nghị.

Công tác KĐCL sẽ không đạt chất lượng, hiệu quả nếu các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo được đánh giá bởi những người có nhãn quan hạn chế, cứng nhắc và bó hẹp trong một phạm vi nhỏ. Còn nguy hại hơn nếu các khuyến nghị cải tiến được đưa ra từ những lăng kính hạn hẹp, một chiều. Do vậy, việc tuyển chọn kiểm định viên phải chú trọng xem xét kinh nghiệm thực tế và trình độ của ứng viên.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2016

(1) Thông tư số 60/2012/TT-BGDĐT ngày 28-12-2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

(2) Công văn số 979/BGDĐT-KTKĐCLGD về công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp năm 2015, 2016

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

2. Kỷ yếu hội thảo: Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Con đường hội nhập quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2014.

3. Luật Giáo dục đại học, 2012.

4. Đỗ Ngọc Quyên: Đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng trong GDĐH, Tham luận Hội thảo Cải cách giáo dục đại học, VED 2014.

5. Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT Ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

6. Thông tư số: 60/2012/TT-BGDĐT ngày 28-12-2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

 

Nguồn: ThS Trần Phương Thảo

Học viện Hành chính quốc gia

 

Sáu mươi năm tham mưu và thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, góp phần xây dựng Học viện ngày càng vững mạnh

(LLCT) - Tháng 9-1956, Phòng Tổ chức - Cán bộ, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương - tiền thân của Vụ Tổ chức - Cán bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay được thành lập(1). Trải qua 60 năm, Vụ Tổ chức - Cán bộ luôn được Ban Lãnh đạo Học viện quan tâm xây dựng, đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của Học viện.

Nhìn lại những ngày đầu mới thành lập (năm 1949), Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương chưa có cơ quan tổ chức cán bộ, chỉ có một Tổ nhân sự với 3 đồng chí, được Trung ương phân công làm công tác tuyển chọn cán bộ để xây dựng bộ khung của nhà trường.

Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương chuyển từ chiến khu Việt Bắc về Đan Phượng (Hà Nội). Với nhiệm vụ chính trị được Trung ương giao là đào tạo, huấn luyện cán bộ đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Để xây dựng trường Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tháng 9-1956, Phòng Tổ chức - Cán bộ được thành lập. Dù lực lượng cán bộ rất mỏng, Phòng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giúp Giám đốc nhà trường tuyển chọn cán bộ từ các ngành, các địa phương, trường Quân chính và các đồng chí được đào tạo từ Liên Xô về, để bổ sung cho lực lượng cán bộ giảng dạy của Trường.

Từ năm 1961, miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng CNXH lần thứ nhất, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương được tăng cường về nhiều mặt, đáp ứng yêu cầu mở rộng số lượng và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ. Phòng Tổ chức - Cán bộ được nâng thành Vụ Tổ chức - Cán bộ. Biên chế ban đầu của Vụ có 5 người, do đồng chí Phó Giám đốc Thường trực trực tiếp phụ trách. Chức năng, nhiệm vụ của Vụ được xác định là tham mưu, giúp Ban Lãnh đạo Trường xây dựng tổ chức bộ máy, thường xuyên tuyển dụng cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bố trí sử dụng và thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ, công nhân viên.

Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 - 1973), Trường liên tục sơ tán, di chuyển qua các địa điểm: Phúc Thọ (Hà Nội), Phù Ninh (Phú Thọ), Đại Từ (Thái Nguyên), Ba Vì (Hà Nội). Trong điều kiện khó khăn, Trường Đảng vẫn duy trì hoạt động, giảng viên và học viên vẫn ngày đêm bám Trường, bám lớp. Vụ Tổ chức - Cán bộ với vị trí là cơ quan tham mưu, bảo đảm về công tác tổ chức và cán bộ, đồng thời chia sẻ, hỗ trợ các hoạt động khác, góp phần vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Trường.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước quá độ đi lên CNXH, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ những yêu cầu mới quan trọng và cấp bách. Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương được đổi thành Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.

Công tác tổ chức - cán bộ thời kỳ này tiếp tục được quan tâm, đặc biệt là về công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chính sách đối với cán bộ; trong đó đã lựa chọn những cán bộ có khả năng nghiên cứu, giảng dạy để bổ sung cho các khoa; tham mưu cho Giám đốc mở hệ đào tạo sau đại học; mở lớp đào tạo cán bộ trẻ và lựa chọn một số cán bộ, giảng viên đưa đi đào tạo theo chế độ thực tập sinh ở Viện Hàn lâm khoa học xã hội, trực thuộc Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (AOH). Do thực hiện đồng bộ các biện pháp, nên trình độ của đội ngũ cán bộ, giảng viên được nâng lên cả về chuyên môn và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác đào tạo lý luận chính trị cho đối tượng là cán bộ trung cao cấp.

Bước vào thời kỳ đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 34-NQ/TW năm 1987 chuyển Trường  Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc thành Học viện Khoa học xã hội Nguyễn Ái Quốc trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (gọi tắt là Học viện Nguyễn Ái Quốc); sáp nhập Trường Chính trị đặc biệt (Trường K) vào Học viện.

Học viện được giao hai nhiệm vụ trọng yếu là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước và nghiên cứu lý luận chính trị, cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng. Công tác tổ chức - cán bộ cũng đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ, trong đó có tham mưu cho Ban lãnh đạo Học viện thành lập đơn vị mới: Khoa Kinh tế tổ chức sản xuất - tiền thân của Viện Kinh tế hiện nay; thành lập Ban Quốc tế; nâng cấp hai bộ môn thành hai khoa: Khoa Nhà nước và Pháp luật và Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa... Đồng thời, Vụ đã  tổ chức, bố trí đưa cán bộ nghiên cứu, giảng dạy đi thực tế dài hạn ở các địa phương, nhằm tăng cường kiến thức thực tiễn, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn cho cán bộ, giảng viên. 

Đầu thập niên 90 thế kỷ XX, sự nghiệp đổi mới đất nước bước đầu thu được những kết quả quan trọng, đồng thời những thay đổi trên bản đồ chính trị thế giới với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, đặt ra cho công tác giáo dục lý luận, đào tạo cán bộ trong hệ thống Trường Đảng phải có sự nhận thức mới và thống nhất. Ngày 10-3-1993, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 61-QĐ/TW “Về việc sắp xếp lại các trường Đảng Trung ương chuyển thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”. Theo đó, Phân viện Hà Nội, Phân viện Đà Nẵng, Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền là các đơn vị trực thuộc Học viện; ngày 30-10-1996, Bộ Chính trị ra Quyết định số 07-QĐ/TW “Hợp nhất Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lấy tên là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”. Thực hiện các Quyết định của Bộ Chính trị về Học viện, Vụ Tổ chức - Cán bộ đã tham mưu, giúp Giám đốc triển khai công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị chức năng và chuyên môn, phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong hệ thống Học viện xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động, góp phần đưa hoạt động của Học viện nhanh chóng đi vào ổn định.

Bước sang thế kỷ XXI, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có những thay đổi về cơ cấu tổ chức và bộ máy. Ngày 2-8-2005, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 149-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ của Học viện, tiến hành đợt sắp xếp, kiện toàn lại bộ máy trên quy mô lớn. Một số đơn vị ở Học viện Trung tâm được sắp xếp lại: Vụ Quản lý Đào tạo và Vụ Quản lý Đào tạo sau đại học, hợp nhất thành Vụ Quản lý Đào tạo; Bộ môn Ngoại ngữ sáp nhập với Vụ Hợp tác quốc tế. Các Phân viện Hà Nội, Phân viện Đà Nẵng, Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh chuyển thành các Học viện khu vực I, III, II; Phân viện Báo chí và Tuyên truyền thành Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tháng 4-2006, thành lập Học viện Khu vực IV (đặt tại Cần Thơ). Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Vụ Tổ chức - Cán bộ đã làm tốt công tác tham mưu cho Giám đốc Học viện về công tác tổ chức, bố trí cán bộ, sắp xếp bộ máy, rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của 36 đơn vị trực thuộc trình Giám đốc ban hành quyết định.

Tháng 5-2007, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về việc hợp nhất Học viện Hành chính với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Vụ Tổ chức - Cán bộ đã nhanh chóng phối hợp với các cơ quan, đơn vị của 2 Học viện, thực hiện chỉ đạo của Giám đốc Học viện về công tác tổ chức - cán bộ, sắp xếp, cơ cấu lại một số đơn vị trong hệ thống Học viện theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối hành chính, nhanh chóng đưa bộ máy đi vào hoạt động ổn định.

Sau gần 7 năm hợp nhất, thực hiện Kế hoạch số 12-KH/TW, ngày 18-9-2013 của Bộ Chính trị về triển khai thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 7 khóa XI:“Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”, Vụ Tổ chức - Cán bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc chỉ đạo triển khai chuyển Học viện Hành chính về Bộ Nội vụ, tham mưu trong việc xác định tên gọi của Học viện để thể hiện rõ sự tiếp nối truyền thống lịch sử, niềm vinh dự, tự hào của Học viện mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cùng với việc chuyển Học viện Hành chính về Bộ Nội vụ, ngày 6-1-2014, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 224-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; ngày 19-5-2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 48-NĐ/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó, Học viện có 34 đầu mối trực thuộc Giám đốc Học viện. Vụ Tổ chức - Cán bộ làm tốt công tác tham mưu về tổ chức, bộ máy và cán bộ nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Quyết định của Bộ Chính trị và Chính phủ.

Trong thời gian này, Vụ có sự thay đổi về cán bộ lãnh đạo nhưng đã nhanh chóng ổn định về tư tưởng, tổ chức, triển khai các hoạt động, góp phần xây dựng Học viện. Hiện nay, về cơ cấu tổ chức, Vụ có 4 phòng: Phòng Cán bộ; Phòng Chính sách; Phòng Đào tạo, bồi dưỡng; Phòng Bảo vệ chính trị nội bộ; với đội ngũ gồm 20 cán bộ, công chức, viên chức.

Đội ngũ cán bộ, công chức của Vụ tiếp nối truyền thống quý báu, phát huy thành tích của các thế hệ đi trước, cố gắng phấn đấu trên các mặt công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Học viện trở thành trung tâm quốc gia về đào tạo cán bộ trung cao cấp cho hệ thống chính trị và nghiên cứu lý luận. Những kết quả đạt được thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây.

Thứ nhất, tham mưu xây dựng chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống Học viện, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng cán bộ trong tình hình mới.Dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Học viện, Vụ Tổ chức - Cán bộ đã hoàn thành việc dự thảo các văn kiện, tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30-7-2005 của Bộ Chính trị; trên cơ sở đó kiến nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn mô hình tổ chức và cơ chế quản lý chung của toàn Học viện, theo hướng Học viện hoạt động như một ban Đảng Trung ương và là cơ quan thuộc Chính phủ.

Sau khi có Quyết định 224 của Bộ Chính trị và Nghị định 48 của Chính phủ, Vụ kịp thời tham mưu Giám đốc Học viện kiện toàn cơ cấu tổ chức của 37 đơn vị trực thuộc, trong đó có: 4 Học viện chính trị khu vực, 1 Học viện chuyên ngành; 10 đơn vị tham mưu (cấp vụ) giúp việc Giám đốc Học viện; 19 đơn vị sự nghiệp cấp vụ, viện, có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy, thông tin, khoa học, báo chí - xuất bản và 3 đơn vị cấp phòng.

Vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong hệ thống Học viện xây dựng chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy trình Giám đốc ký quyết định. Đồng thời, để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý và điều hành, phối hợp công tác ở Học viện, Vụ đã tham mưu Giám đốc Học viện và chủ trì, phối hợp với 37 đơn vị trực thuộc xây dựng Quy chế làm việc của từng đơn vị.

Trong bối cảnh Học viện đẩy mạnh sâu rộng các hoạt động hợp tác quốc tế về nhiều mặt, Vụ đã góp nhiều ý kiến tham mưu Giám đốc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho phù hợp với vị trí, chức năng là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời là cơ quan thuộc Chính phủ; khắc phục việc nhìn nhận chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Học viện. Đồng thời, làm cho sự chỉ đạo, cơ chế vận hành, chế độ chính sách, quan hệ phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, cũng như hội nhập quốc tế của Học viện có nhiều điều kiện thuận lợi, nâng cao hơn vị thế, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học cũng như các mặt hoạt động khác của Học viện.

Thứ hai, tham mưu xây dựng, hoàn thiện thể chế, quy chế, quy định, tạo hành lang pháp lý phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở Học viện và các đơn vị trong toàn hệ thống. Nhận thức rõ việc xây dựng và ban hành hệ thống các quy chế, quy phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, đầu năm 2013,Vụ đã tham mưu Giám đốc Học viện xây dựng Bộ Quy chế về công tác tổ chức - cán bộ gồm 9 quy chế(2)bảo đảm tính hợp pháp  - phù hợp với các quy định của pháp luật; bảo đảm tính thực tiễn - phù hợp với yêu cầu quản lý, điều hành, phù hợp với đặc thù của Học viện trong từng lĩnh vực cụ thể; bảo đảm tính hiệu quả - tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của Học viện; góp phần tích cực vào công tác quản lý, điều hành các mặt hoạt động của Học viện.

Thứ ba, tham mưu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và cán bộ lãnh đạo quản lý, tạo  bước chuyển mới trong công tác cán bộ.Trên cơ sở Chiến lược cán bộ của Học viện giai đoạn 2011 - 2020, Vụ đã tham mưu Giám đốc Học viện chỉ đạo quyết liệt và có những cách làm, điểm nhấn mới trong triển khai các nội dung cụ thể. Trong đó, tham mưu tổ chức thực hiện tốt nhiều nội dung công tác trọng tâm như: Tổ chức thực hiện đúng quy trình giới thiệu nhân sự, quy hoạch các chức danh lãnh đạo từ Giám đốc, Phó Giám đốc Học viện, chức danh Phó Bí thư thường trực Đảng ủy và quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020; hoàn thành xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống Học viện giai đoạn 2012 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020.

Thực hiện chủ trương của Giám đốc Học viện, Vụ đã triển khai đưa cán bộ khoa học đi thực tế dài hạn tại nhiều địa phương, bộ, ngành và biệt phái tại Học viện Chính trị khu vực IV. Qua đó, không chỉ nâng cao kiến thức thực tiễn, năng lực tư duy, bồi bổ kỹ năng, phương pháp công tác, mà còn giúp đội ngũ cán bộ trưởng thành hơn trong quá trình công tác, góp phần nâng cao chất lượng bài giảng, chất lượng nghiên cứu khoa học. Hầu hết cán bộ được rèn luyện, thử thách sau khi đi thực tế dài hạn (1 năm), đã có bước trưởng thành về mọi phương diện.

Thứ tư, tham mưu Giám đốc Học viện đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và giảng viên lý luận chính trị ở Học viện và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở Đề án 875, hằng năm Vụ tham mưu xây dựng và trình Giám đốc Học viện ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và giảng viên lý luận chính trị; các lớp đào tạo, bồi dưỡng giảng viên phương pháp giảng dạy tích cực; bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới một số bộ môn chuyên ngành; bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý dành cho Hiệu trưởng các trường chính trị; lớp cập nhật kiến thức lãnh đạo dành cho cán bộ cấp vụ, cấp phòng,... bảo đảm tính thiết thực, đáp ứng phần nào yêu cầu đòi hỏi về nâng cao chất lượng cán bộ của hệ thống các trường chính trị và cán bộ Học viện.

Thứ năm, thực hiện chế độ, chính sách cán bộ. Trước sự bất cập của chính sách thăng hạng, nâng ngạch cho cán bộ công chức, viên chức, không theo kịp thực tiễn, gây bức xúc trong cán bộ. Vụ đã chủ động đề nghị với Giám đốc Học viện và Ban Tổ chức Trung ương, thay đổi hình thức thi nâng ngạch, bằng hình thức xét thăng hạng, nâng ngạch cho cán bộ viên chức, công chức theo Quy chế do Vụ Tổ chức - Cán bộ Học viện chủ trì xây dựng. Năm 2015, Học viện phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ tổ chức thành công xét thăng hạng viên chức, đã công nhận đạt kết quả cho 71 đồng chí xét thăng hạng từ ngạch viên chức chính lên ngạch viên chức cao cấp và 383 đồng chí xét thăng hạng từ ngạch viên chức lên ngạch viên chức chính. Học viện là đơn vị đầu tiên trong các bộ, ban ngành Trung ương ban hành Quy chế xét thăng hạng viên chức. Bộ Quy chế này và cách thức tổ chức xét thăng hạng viên chức của Học viện đã được một số bộ, ngành tham khảo.

Thứ sáu, công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Vụ tham mưu cho Giám đốc tập trung chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay. Chủ động đề xuất xây dựng văn bản quy phạm nội bộ chỉ đạo về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, trong đó, đã xây dựng Danh mục bí mật Nhà nước của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trình Giám đốc Học viện phê duyệt. Tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, thẩm tra, xác minh, xử lý, giải quyết những trường hợp có vấn đề về chính trị. Tiếp nhận, nghiên cứu, đề xuất giải quyết đơn thư­ khiếu nại, tố cáo về vấn đề chính trị. Tham mưu chỉ đạo triển khai việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân đối với cán bộ thuộc diện kê khai trong toàn Học viện theo quy định.

Thứ bảy, công tác nghiên cứu khoa học phục vụ nhiệm vụ chính trị:  Trong những năm qua, với mục tiêu đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trực tiếp phục vụ nâng cao chất lượng công tác chuyên môn cũng như năng lực tham mưu của cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ. Cán bộ của Vụ chủ trì triển khai nhiều đề tài, đề án. Các công trình đều trực tiếp phục vụ nhiệm vụ chính trị của Vụ và Học viện.  Trong 2 năm học (2014 - 2015 và 2015 - 2016), cán bộ của Vụ đã chủ trì 1 đề tài cấp nhà nước, 2 đề tài cấp bộ, đã công bố hơn 30 bài báo trên tạp chí chuyên ngành, xuất bản 6 cuốn sách chuyên khảo, tham khảo, hàng chục tham luận khoa học ở trong nước và quốc tế.

Thứ tám, nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện: Xây dựng đơn vị đoàn kết thống nhất được cấp ủy, chi bộ coi là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của đơn vị. Lãnh đạo Vụ chú trọng làm tốt công tác tư tưởng, thực hiện dân chủ cơ sở,  nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật cho cán bộ công chức. Thực hiện nghiêm túc Quy chế làm việc; Quy chế quan hệ công tác giữa lãnh đạo chuyên môn và cấp ủy đơn vị. Do đó, toàn thể cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động trong công việc; thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của Học viện, hoàn thành tốt nhiệm vụ Giám đốc Học viện giao.

Với những thành tích đạt được, tập thể và cán bộ, công chức, viên chức của Vụ đã vinh dự được Đảng, Nhà nước và Giám đốc Học viện tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Lao động hạng Nhất (2011); Tập thể Lao động xuất sắc (năm học 2014-2015 và 2015-2016); Bằng khen của Giám đốc Học viện về điển hình tiên tiên trong phong trào thi đua giai đoạn 2010; Cờ thi đua của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trao tặng; Chi bộ liên tục được công nhận Chi bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu. 

Trải qua chặng đường 60 năm, với sự nỗ lực phấn đấu hoàn thành chức trách nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Vụ Tổ chức - Cán bộ đã không ngừng phát triển, tổ chức bộ máy từng bước được hoàn thiện. Phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục mọi khó khăn, toàn thể cán bộ công chức, viên chức của Vụ Tổ chức - Cán bộ nêu cao quyết tâm phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, tiếp tục vun đắp truyền thống mà các thế hệ cha anh đã dày công xây dựng, xứng đáng là người cán bộ trường Đảng mang tên Bác Hồ kính yêu.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2016

(1) Đến năm 1961, Phòng Tổ chức - Cán bộ được nâng  lên thành Vụ Tổ chức - Cán bộ.

(2) Quy chế quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công chức, viên chức; Quy định về tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; Quy định về việc thôi chức vụ lãnh đạo, quản lý, kéo dài thời gian công tác để làm chuyên môn, nghỉ công tác để hưởng chế độ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức; Quy định về việc tuyển dụng công chức, viên chức; Quy định về xếp ngạch, chuyển ngạch và nâng ngạch đối với cán bộ, công chức, viên chức; Quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Quy định về việc đi nghiên cứu thực tế hàng năm, luân chuyển, biệt phái, đi thực tế dài hạn của cán bộ, công chức, viên chức; Quy định về việc tổ chức lễ tang (Bộ Quy chế đã được Giám đốc Học viện ký ban hành ngày 2-5-2013).

 

Nguồn: PGS, TS Trần Minh Trưởng

Vụ Tổ chức - Cán bộ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


 Định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục giữ vững, phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên hưu trí

Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Thực tiễn đó đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trên thực tế, những quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng về công tác quản lý đảng viên, trong đó có cả quản lý về đội ngũ cán bộ, đảng viên hưu trí, chưa bao quát hết tình hình thực tiễn, còn có những “kẽ hở”. Vì vậy, để phát huy tốt vai trò của đội ngũ này, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, nêu cao tính tự giác, tính gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trước khi nghỉ hưu, cán bộ, đảng viên cần lên kế hoạch nghỉ hưu và sắp xếp những việc bản thân muốn làm để tránh sự nhàn rỗi đến mức nhàm chán. Cần xác định bản thân mong muốn điều gì, tìm kiếm những công việc thú vị, ưa thích và có ý nghĩa, như tham gia các hoạt động của tổ chức đảng, của cộng đồng,…; đồng thời, trải nghiệm những điều mới mẻ, thú vị, như đi tham quan, du lịch, thể dục, thể thao, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ. Có như vậy, những người về hưu sẽ không bị chi phối bởi các cảm xúc tiêu cực, mà thay vào đó là xây dựng những cảm xúc tích cực, hạnh phúc, vui vẻ với một “chương” mới trong cuộc đời.

 Khơi dậy khát vọng đổi mới, sáng tạo nghiên cứu khoa học của cán bộ, đảng viên trẻ trong giai đoạn hiện nay

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) lại càng đặt ra thiết thực, cụ thể hơn bao giờ hết, bảo đảm cho hoạt động này luôn mới, có tính hấp dẫn, thu hút được các đối tượng tham gia, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho hoạt động NCKH đạt được mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Trong cuộc cách mạng nào, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn thể hiện vai trò chiến sĩ kiên cường trên mọi mặt trận, là người lao động giỏi, sáng tạo giỏi, là người tiên phong trong công cuộc đổi mới và hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao.

 Vai trò của chính sách đào tạo, bồi dưỡng viên chức đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay

Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ viên chức, như: (1) Luật Viên chức được Quốc hội quy định rất rõ quyền, nghĩa vụ của viên chức là “Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ”; (2) Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 1-9-2017 Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; (3) Quyết định 163/QĐ-TTg ngày 25-1-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 1016-2025; (4) Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19-11-2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019-2030”…

DÁM LÀM, DÁM CHỊU

DÁM LÀM, DÁM CHỊU
Tuần qua, khi thảo luận về tình hình kinh tế xã hội, các đại biểu Quốc hội tiếp tục cảnh báo về tình trạng cán bộ né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm sẽ gây nguy hại rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tình trạng này thể hiện dưới muôn hình vạn trạng. Nào cấp dưới hỏi cấp trên, cấp trên bảo làm theo quy định, cứ thế quả bóng đá qua, đá lại. Nào văn bản xin ý kiến hoặc đề nghị hướng dẫn bị “ngâm” lâu, không trả lời. Nào việc trong thẩm quyền nhưng vẫn gửi hồ sơ lòng vòng xin ý kiến mọi nơi, mọi chỗ. Nào không nói; không tham mưu, đề xuất; không triển khai hoặc cầm chừng, vừa làm vừa nghe ngóng...
Nguyên nhân là do nhiều cán bộ đảng viên đang có tư tưởng “không làm thì không sai, thà đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước tòa”.
Hậu quả là làm chậm lại việc giải quyết công việc, gây khó khăn thêm cho nền kinh tế, làm giảm niềm tin của nhân dân vào cán bộ, đảng viên và bộ máy công quyền.
Đã đành cán bộ phải biết sợ sai, để tránh bị kỷ luật, bị khởi tố. Nhưng sợ đến mức không dám làm, không dám hành động gì hoặc không biết làm như thế đúng hay sai thì cần phải xem lại trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Để giải quyết vấn đề này, giải pháp hàng đầu là đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, pháp luật liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, đơn vị, đặc biệt là trách nhiệm, nhiệm vụ mà công chức phải thực hiện.
Các cơ quan chức năng cũng cần vào cuộc để đánh giá lại cán bộ của mình xem còn đủ năng lực và trình độ hay không để xử lý trách nhiệm, thậm chí là đưa ra khỏi vị trí đang đảm nhiệm.
Mặt khác, hệ thống chính sách có mặt còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn nên cần hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, rà soát bãi bỏ các quy định hoặc thói quen phải xin ý kiến, thỏa thuận, xin chủ trương, thống nhất...
Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Được biết, Bộ Nội vụ đang tập trung rất cao, tham mưu cho Chính phủ để ban hành Nghị định về vấn đề này.
Hơn lúc nào hết cán bộ, công chức phải vượt lên khó khăn, thách thức để thực hiện nhiệm vụ. Trong đó, người đứng đầu cần nêu cao trách nhiệm, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.

 Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay

Công tác phòng, chống tham nhũng là một công tác thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để đảm bảo hiệu quả của công tác này. Thời gian vừa qua, với công cuộc “đốt lò” ấn tượng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, với những ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch từ trước đến nay vẫn luôn muốn chống phá đất nước ta nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng của ta. Đứng trước những quan điểm sai trái, thù địch đó, chúng ta cần phải tỉnh táo, nhìn nhận một cách khách quan và đưa ra những luận cứ xác đáng để đấu tranh, phản bác lại chúng. 

 

Tiếp tục làm tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Nghiên cứu nhiều bài viết trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi càng thấy rõ chủ trương của Đảng là phải tiến hành phòng, chống tham nhũng, tiêu cực một cách kiên quyết, kiên trì, bền vững, không ngừng nghỉ ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
Tôi rất thấm thía với hai từ “kiên quyết” và “kiên trì” trong cuốn sách. Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc chiến đấu cực kỳ cam go và phức tạp. Ngay với Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo công tác này đã nêu rõ rằng, các thành viên của Ban Chỉ đạo phải đúng vai, thuộc bài, tức là cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải là những người mẫu mực nhất. Mười năm kể từ khi đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cho thấy, công tác đấu tranh chống giặc “nội xâm” của Đảng và Nhà nước ta đã được nâng tầm và thực hiện khá thành công, hiệu quả đạt được ngày càng cao. Bất kể ai vi phạm đều bị xử lý một cách công khai, minh bạch, tâm phục, khẩu phục với tinh thần thượng tôn pháp luật. Từ đây, việc nói và làm, từ chủ trương đến thực tế hành động của Đảng càng làm cho nhân dân thêm tin Đảng, tích cực “nhập cuộc” cùng Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng Đảng ta thêm vững mạnh. Thực tế cho thấy, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp, ngày một trở nên tinh vi hơn rất nhiều…

Hoàn thiện cơ chế thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong giai đoạn mới

Ngày 26/5, tại Đà Nẵng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Thành ủy Đà Nẵng phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học “Hoàn thiện các cơ chế thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong giai đoạn mới”.

Đồng chí Trần Tiến Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, GS, TS Phùng Hữu Phú, Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương đồng chủ trì hội nghị, cùng dự có gần 100 các nhà nghiên cứu khoa học về lý luận, chính trị, đại diện các học viện, viện nghiên cứu, lãnh đạo một số địa phương trong cả nước.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng Lương Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng 93 năm qua, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất, đồng thời không ngừng phát huy dân chủ trong Đảng.


Trước yêu cầu tiếp tục “quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ” như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra, việc nghiên cứu, cụ thể hóa, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.

THI ĐUA ÁI QUỐC

 THI ĐUA ÁI QUỐC

Kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2023), các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đang tích cực thi đua lập nhiều thành tích trên các lĩnh vực.
Hưởng ứng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh đã có nhiều phong trào thi đua cụ thể như: Tuyên Quang chung sức xây dựng nông thôn mới; Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau; Lao động giỏi, lao động sáng tạo; Thi đua quyết thắng; thi đua chuyển đổi số - Năm dữ liệu số Tuyên Quang năm 2023...
Các phong trào đã có sức lan tỏa trong cộng đồng dân cư, trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và Nhân dân trên địa bàn tỉnh bằng những việc làm cụ thể như: giúp đỡ bằng tiền và hiện vật, ngày công lao động, hiến đất xây dựng nhà văn hóa thôn, làm đường giao thông nông thôn, xây dựng lớp học mầm non, giúp đỡ các hộ gia đình khó khăn vươn lên thoát nghèo...
Phong trào thi đua yêu nước của tỉnh không ngừng đổi mới, sáng tạo, thiết thực và đạt được nhiều kết quả to lớn, tạo nên những đổi thay mạnh mẽ. Đặc biệt, hiện nay Tuyên Quang là tỉnh đi đầu cả nước về bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp chiếm 76% diện tích tự nhiên, trong đó diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ chiếm 37,8%. Những năm gần đây, tỉnh tiếp tục phát huy hiệu quả thế mạnh về phát triển kinh tế lâm nghiệp; tạo cơ chế thu hút nhiều nhà đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao từ gỗ rừng trồng, được thị trường trong nước và các thị trường Nhật Bản, châu Âu, Mỹ ưa chuộng. Tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp bình quân đạt 9%/năm, đóng góp trên 4%/năm giá trị tăng trưởng GRDP của tỉnh, tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao động.
Từng ngành, từng địa phương, mỗi tổ chức, mỗi cơ quan, đơn vị tiếp tục xác định và chỉ đạo chặt chẽ các phong trào thi đua với mục tiêu thi đua rõ ràng, nội dung phù hợp, biện pháp khả thi nhằm thu hút sâu rộng mọi tầng lớp, lứa tuổi, trải khắp mọi ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, làm cho phong trào thi đua thực sự trở thành nếp sống hằng ngày, trở thành nhu cầu bằng các lợi ích thiết thân; cổ vũ thực hành tiết kiệm, hăng hái phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cải cách hành chính; nhất là làm tốt công tác phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các mô hình hiệu quả; đổi mới công tác khen thưởng, tạo động lực nội sinh cổ vũ các tổ chức, mọi cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo vị trí và trách nhiệm của mình, thiết thực kỷ niệm 75 năm ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2023).
Phong trào thi đua yêu nước gắn chặt với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đến nay, toàn tỉnh có 249 đảng bộ cơ sở xây dựng mô hình tiêu biểu, 373 việc “làm theo”; chi bộ dưới cơ sở có 2.045 mô hình tiêu biểu, 3.318 việc “làm theo”, có trên 53.000 đảng viên đăng ký việc làm theo phong cách Hồ Chí Minh. Từ năm 2021 - 2023 đến nay có 1.071 lượt tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu được các cấp, các ngành biểu dương khen thưởng trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Lời kêu gọi thi đua ái quốc cùng với nhiều bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những quan điểm, chỉ đạo, định hướng phong trào thi đua yêu nước trong nhiều thập kỷ qua; là cơ sở để Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương về thi đua yêu nước, về công tác thi đua - khen thưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

 

Phát huy vai trò giám sát của nhân dân

Thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội, thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tỉnh Quảng Ninh tăng cường công tác giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.
Với cách làm sáng tạo, phù hợp thực tiễn, công tác này giúp xây dựng đội ngũ cán bộ gương mẫu, đi đầu, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tại địa phương. 

BÁC HỒ VÀ BÀI HỌC "VIẾT CHO AI XEM?"

 Đặt câu hỏi “Viết cho ai xem?” là nhằm giải quyết nhu cầu của quần chúng đông đảo; nhằm giác ngộ, tuyên truyền, đưa quần chúng vào trường cách mạng, vào một cuộc sống đầy ắp các hoạt động biến cải...

Báo Quân đội Nhân dân thật vinh dự, tự hào là tờ báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên. Trên số báo đầu tiên ra ngày 20-10-1950, Người căn dặn: “Nói những điều thật thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình bày rõ ràng, ít tiếp sang trang khác”.
Lời chỉ bảo sâu sắc đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dành cho các thế hệ nhà báo-chiến sĩ mà còn là kim chỉ nam cho những người làm báo cách mạng của Việt Nam, và hơn thế nữa...
Trong hành trình 50 năm viết của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, kể từ Yêu sách của nhân dân An Nam (1919) đến Di chúc (1969), những kinh nghiệm làm báo, viết báo, Bác đã nhiều lần nói đến với giới nghề nghiệp; và bài học làm báo, viết báo được Bác quan tâm trước hết, đó là bài học: “Viết cho ai xem?”.
Bài nói đầu tiên của Hồ Chí Minh về câu chuyện này là bài Cách viết tại Trường Chỉnh Đảng Trung ương, ngày 17-8-1952; rồi được trở lại, lần thứ hai, trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam, tháng 9-1962.
“Kinh nghiệm của Bác là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi:
- Viết cho ai xem?
- Viết để làm gì?
- Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc?”.
Điều cần lưu ý, tuy chỉ là bài nói với giới báo chí nhưng rồi do sự cần thiết, chúng ta chủ trương vận dụng ý kiến của Hồ Chí Minh cho mọi dạng viết, mọi “binh chủng” chữ nghĩa, trong đó có văn chương-học thuật.
Và khi đặt lên vị trí số 1 câu chuyện “Viết cho ai xem?”, chúng ta hiểu đấy là sự đánh dấu bước chuyển quan trọng nhất của nền báo chí cách mạng ở Việt Nam. Bởi, mối quan tâm đến công chúng, trước hết là công chúng cần lao, đó là biểu hiện của sự tiến bộ trên con đường dân chủ hóa đời sống con người. Đặt câu hỏi “Viết cho ai xem?” là nhằm giải quyết nhu cầu của quần chúng đông đảo; nhằm giác ngộ, tuyên truyền, đưa quần chúng vào trường cách mạng, vào một cuộc sống đầy ắp các hoạt động biến cải. Và quần chúng, trong một giai đoạn lịch sử nào đó còn thất học hoặc còn đang thanh toán nạn mù chữ, họ liên tục là đội quân hùng hậu, đóng vai trò chủ lực trong các cuộc cách mạng và chiến tranh cách mạng.
Một sự nghiệp làm báo, viết báo có thể nói là vĩ đại, đối với dân tộc Việt Nam ngay trong bóng đêm của chế độ thuộc địa, bắt đầu từ Le Paria (Người cùng khổ) trên địa bàn Paris, là động thái đầu tiên trên hành trình viết của Nguyễn Ái Quốc, nhằm cảnh tỉnh thế giới phương Tây và thức tỉnh thế giới phương Đông, trong đó có hai nhân vật trung tâm: Những tên chủ thực dân ở chính quốc và các thuộc địa, và những người nô lệ không riêng ở An Nam mà trên khắp thế giới da màu. Cùng với việc làm tờ Le Paria, Nguyễn Ái Quốc còn viết cho nhiều tờ báo ở Paris như: Nhân đạo, Dân chúng, Đời sống thợ thuyền… và hoàn thành tác phẩm lớn, đầu tay mang tên Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925). Viết bằng tiếng Pháp, đối tượng đọc chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc là người chính quốc. Nhưng một đối tượng đọc khác mà Nguyễn Ái Quốc không lúc nào không khao khát hướng tới, đó là những người Việt xa xứ trên đất Pháp, vào thời Nguyễn Ái Quốc ở Paris đã lên đến 10 vạn người; và 25 triệu đồng bào quê hương còn đắm chìm trong đói khổ. Đó là lý do để cùng với tờ Le Paria bằng tiếng Pháp, Nguyễn Ái Quốc còn muốn có thêm tờ Việt Nam hồn bằng tiếng Việt: “… Cũng vì nghĩ thế,/ tôi muốn làm ra/ một báo tiếng ta,/ cho đồng bào đọc...”.
Cũng như trước đó, vào năm 1919, sau khi gửi Hội nghị Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm, bằng tiếng Pháp, Nguyễn Ái Quốc còn soạn một bản Việt Nam yêu cầu ca bằng tiếng Việt dài 56 câu, bằng thể lục bát và song thất lục bát quen thuộc, để bí mật phân phát trong các giới công nhân và binh sĩ An Nam ở Marseille, năm 1922.
Ý thức về người đọc, viết cho ai đọc luôn là niềm canh cánh trong hành trình 50 năm viết của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và cho xuất bản tờ báo Thanh niên (năm 1925), đồng thời sáng lập Hội Liên hiệp Các dân tộc bị áp bức ở Đông Á. Đầu năm 1941, sau khi về nước, ông Ké cách mạng-già Thu, rồi lấy tên Hồ Chí Minh, đã sáng lập và chủ trì tờ báo Việt Nam độc lập ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Đó là tờ báo có sứ mệnh giáo dục, tuyên truyền quần chúng hướng tới cao trào Tổng khởi nghĩa đang sắp đến gần. Một tờ báo nhằm vào công chúng, đa số là đồng bào các dân tộc thiểu số, thất học, đang khao khát đến với cách mạng-tất nhiên nội dung phải được chuyển tải dưới một hình thức giản dị, phổ cập, dễ hiểu. Và đó là lý do để chỉ trong một thời gian ngắn (khoảng vài năm), Bác đã làm hơn 30 bài thơ-những bài với tên gọi rất giản dị như: Công nhân, Dân cày, Ca binh lính, Phụ nữ, Ca sợi chỉ… đăng trên Việt Nam độc lập. Những bài như: Hòn đá để nói lên sức mạnh đoàn kết; như Nhóm lửa để nói phương thức làm cách mạng… trong dạng thức cô đúc và dễ hiểu nhất. Thậm chí đến cả tên báo là Việt Nam độc lập, Bác còn chủ trương rút ngắn, chỉ còn là Việt Lập, để cho quần chúng dễ nhớ, dễ thuộc. Còn tên Việt Nam Độc lập Đồng minh (tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay) thì được gọi tắt là Việt Minh.
Điều cần lưu ý: Người viết những bài thơ giản dị, dễ hiểu như vậy chính là Người đã viết nhiều phóng sự, văn chính luận và các truyện, ký rất sắc sảo, theo phong cách hiện đại bằng tiếng Pháp ở Paris ngót 20 năm về trước; và chỉ vài năm sau, Người viết 135 bài thơ bằng chữ Hán trong Ngục trung nhật ký.
Có thể nói, câu chuyện “Viết cho ai xem?” là mối quan tâm hàng đầu của nhà cách mạng, nhà báo cách mạng Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời mình. Và đó là lý do tạo nên mối giao cảm lớn, sự đồng tâm nhất trí trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em với lãnh tụ kính yêu của mình, trong suốt thế kỷ 20-thế kỷ đứng trước hai yêu cầu lớn: Cách mạng hóa và hiện đại hóa mà Nguyễn Ái Quốc là người có vai trò khởi xướng và kết hợp một cách trọn vẹn nhất.
Cùng với câu hỏi “Viết cho ai xem?” còn là câu hỏi “Viết để làm gì?” và “Viết như thế nào?” để làm nên một bộ ba quan trọng cho một sự nghiệp viết có độ dài 50 năm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Một sự nghiệp viết rất linh hoạt, đa dạng, gồm nhiều chủng loại, trong đó có một sự nghiệp báo chí vĩ đại và một sự nghiệp văn chương đặc sắc, để tạo nên nền móng và tinh hoa cho nền văn hóa mới Việt Nam thế kỷ 20./.
ST


“NHÂN VÔ THẬP TOÀN”

 Không có ai là người hoàn hảo mà chúng ta chỉ có thể hoàn thiện bản thân qua năm tháng, khuyết điểm chính là thứ giúp ta mạnh mẽ hơn. Chỉ cần bản thân chúng ta ý thức được khuyết điểm của chúng ta nằm ở đâu, để phấn đấu để khắc phục, để rèn luyện. Bởi vậy cách suy nghĩ cũng như cách dùng người đúng đắn là ở chỗ cầu mong tìm được người giỏi chứ không phải tìm được người hoàn mỹ.

Từ khi sinh ra đời mỗi chúng ta đều đã từng là một tờ giấy trắng, để trưởng thành theo năm tháng, chúng ta thường phải học hỏi những người quanh ta, những sự vật diễn ra xung quanh. Ông bà ta cũng bảo “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Còn có câu” Trăm năm soi tấm gương mờ, không bằng một phút ở gần gương trong”. Vậy nên việc tiếp xúc bạn bè, với môi trường xung quanh ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta. Mỗi ngày, bạn gặp gỡ ai, nói chuyện gì, hành động ra sao cũng đều ít nhiều tác động đến nhận thức của bạn.
Chỉ khi con người ta đã trải qua thăng trầm nếm đủ hương vị cuộc đời, đủ trưởng thành, đủ bản lĩnh thì lúc đó bạn mới không bị tác động từ những người xung quanh, lúc đó bạn có gần bùn cũng không thể hôi tanh mùi bùn. Khi đủ nghị lực thừa bản lĩnh, bạn sẽ tự biết làm chủ cuộc sống của mình, niềm vui hạnh phúc của bản thân không chịu chi phối bởi người khác. Không có yếu tố ngoại cảnh nào có thể tác động khiến bạn gục ngã, cho dù bạn có sống giữa bầy thú thì bạn cũng có thể biết cách tự bảo vệ bản thân.
Bởi vậy câu” Nhân vô thập toàn” giúp chúng ta suy nghĩ bao dung thấu hiểu hơn. Trong mọi lĩnh vực người lãnh đạo phải đặc biệt coi trọng nhân tài, tuy có chút khuyết điểm nào đó nhưng họ hòa đồng, có dũng khí, có tài phán đoán, túc trí đa mưu thì nên trọng dụng để họ có đất dụng võ, có thể phát huy tối đa khả năng, năng lực bản thân. Đừng đòi hỏi sự hoàn mỹ, mà phải biết cách giúp cho người bên ta hoàn hảo hơn, tốt hơn đó là điều nên suy nghĩ nên làm. Trên đời này làm gì có ai hoàn hảo mà người ta chỉ có thể hoàn hảo theo năm tháng./.
ST


 

Chữ ký số chuyên dùng công vụ cần được quản lý chặt chẽ, 

bảo mật

Chữ ký số chuyên dùng công vụ có mức độ an toàn kỹ thuật, tính bảo mật rất cao, dùng cho người, cấp có thẩm quyền nên mỗi văn bản giao dịch đều ảnh hưởng đến nhân dân, quốc gia, dân tộc. Vì vậy, theo các đại biểu Quốc hội, loại chữ ký số này cần phải được quản lý đặc biệt và phải được rà soát kỹ lưỡng để bảo đảm bí mật và an toàn.
Cho ý kiến liên quan đến quản lý nhà nước về chữ ký số chuyên dùng công vụ và chữ ký số công cộng, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (Bình Dương) chỉ rõ, thực tiễn từ năm 2007 đến nay đã tồn tại 2 hệ thống chữ ký số riêng biệt là chữ ký số chuyên dùng công vụ và chữ ký số công cộng được Chính phủ giao cho 2 cơ quan quản lý.