Thứ Hai, 30 tháng 9, 2024

PHÁT HUY VAI TRÒ LỰC LƯỢNG 47 QUÂN ĐỘI TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là vấn đề có tính quy luật, trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị; là một nội dung đặc biệt quan trọng của công tác đấu tranh tư tưởng - lí luận. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng, trong đó “Lực lượng 47” đóng vai trò rất quan trọng.

Thực hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ngày 08/01/2016, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ban hành Chỉ thị số 47/CT-CT về “Tổ chức lực lượng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch cơ hội chính trị trên không gian mạng trong Quân đội”, gọi tắt là “Lực lượng 47”. Lực lượng đảm bảo nâng cao chất lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm sự vững mạnh của Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa trên không gian mạng, làm thất bại mọi âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - lí luận.

Khái niệm tổ quốc và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

 


Tổ quốc, là một phạm trù lịch sử dùng để chỉ đất nước, con người gắn liền với biên giới lãnh thổ xác định với những điều kiện kinh tế, tự nhiên, truyền thống văn hóa, tâm lý, tình cảm của các cộng đồng người hình thành lãnh thổ đó, một chế độ xã hội và thể chế chính trị tương ứng.

Tổ quốc là một hiện tượng lịch sử, bao gồm hai phương diện tự nhiên – lịch sử và chính trị - xã hội. Trên phương diện tự nhiên - lịch sử, bao gồm: vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo - cương vực, được công ước quốc tế thừa nhận và có cộng đồng dân cư sinh sống trên vùng lãnh thổ đó. Trên phương diện chính trị - xã hội, bao gồm: chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, được quy định bản chất của giai cấp thống trị, cùng với ngôn ngữ chung, truyền thống lịch sử, văn hóa, tập quán, tâm lý… Tổ quốc và chế độ xã hội không đồng nhất với nhau, nhưng có sự thống nhất trên thực tế. Phương diện chính trị - xã hội quyết định bản chất của tổ quốc, V.I.Lênin đã chỉ dẫn: “Tổ quốc, nghĩa là hoàn cảnh chính trị, văn hóa, xã hội”[1].

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, một loại hình tổ quốc ra đời gắn liền với thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Trong lịch sử xã hội loài người đã xuất hiện, tồn tại hai loại hình tổ quốc khác nhau về chất: Tổ quốc có áp bức bóc lột và tổ quốc không có áp bức bóc lột, nay là tổ quốc tư bản chủ nghĩa và tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Theo V.I.Lênin, đótổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được giải phóng khỏi ách nô lệ, xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình thế giới. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên cơ sở những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, gắn kết chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.

Cũng như các loại hình tổ quốc khác, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa gồm hai phương diện cơ bản: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, nhưng nó khác hẳn về chất so với các loại hình tổ quốc khác trong lịch sử. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ra đời gắn liền với thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, là sản phẩm đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chế độ chính trị - xã hội chủ nghĩa được thiết lập do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là đảng cộng sản. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển cùng với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tham gia vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng trên mọi phương diện; là kết hợp chặt chẽ bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại. Thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã ra đời Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử.

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xét cả phương diện tự nhiên - lịch sử và nội dung bản chất phương diện chính trị - xã hội, thì ra đời từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi. Xét về hình thức tên gọi trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến nay.

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa các yếu tố tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Trong đó, yếu tố chính trị - xã hội quyết định bản chất của Tổ quốc và do vậy, Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ toàn diện tất cả các yếu tố cấu thành tổ quốc.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 17, “Chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến và sách lược chống chủ nghĩa quân phiệt của Đảng Dân chủ xã hội” (1908), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.230.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NÓI VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ NÊU GƯƠNG

  “Đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”

Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực, tự giác nêu gương, nhất là nêu gương về đạo đức, để “giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá.  Nêu gương là việc làm hết sức cần thiết.

 

VÌ SAO PHẢI KIÊN QUYẾT PHÒNG CHỐNG

            Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” vốn là công việc rất khó khăn, phức tạp, vì nó liên quan tới vấn đề tư tưởng, biểu hiện âm thầm, gặm nhấm dần lòng tin, xói mòn dần phẩm chất đạo đức của cá nhân, tổ chức. Trong thực tế thì hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng liên quan cả gián tiếp và trực tiếp tới công tác xây dựng tổ chức, xây dựng con người, công tác cán bộ v.v..

Hơn nữa, khi thực hiện nhiệm vụ này rất dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của mỗi con người. Tuy khó nhưng không thể không làm, vì vấn đề này có liên quan đến sinh mệnh chính trị, uy tín của Đảng và sự tồn vong chế độ. Bởi thế, ngoài quan điểm tích cực và chủ động thì việc kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất quan trọng. Nếu không kiên quyết trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì việc thực hiện sẽ trở nên “nửa vời” và không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, QCN và QCD ở Việt Nam do nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên đấu tranh giành lấy. Đó là thành quả trực tiếp của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong Tuyên ngôn độc lập (ngày 2-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng... quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hơn nữa, Người còn khái quát và kết luận: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".

Như vậy, với Hồ Chí Minh và Đảng ta, QCN ở một quốc gia, dân tộc phải dựa trên tiền đề, điều kiện cơ bản là: Độc lập dân tộc, CNXH, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước. Bởi vậy, có thể nói: Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là Tuyên ngôn "kép" về quyền dân tộc tự quyết và QCN của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa. Đây là cống hiến vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận chính trị nói chung, về nhân quyền nói riêng trong thời đại ngày nay.

Hiện nay, QCN và QCD ở Việt Nam luôn được khẳng định, điều chỉnh và mở rộng phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn phát triển của đất nước. Hiện nay, ở Việt Nam, QCN, quyền và nghĩa vụ công dân được quy định tại Chương II, Hiến pháp năm 2013. Văn kiện pháp luật quan trọng này đã tiếp thu những giá trị phổ quát về QCN của cộng đồng quốc tế; đồng thời, kế thừa, mở rộng QCD đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992), mà ở đó, lần đầu tiên QCN được đề cập một cách trực tiếp, tách bạch và không đồng nhất với QCD.

Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện một cách khoa học những nội dung, các nguyên tắc của QCN, QCD, tương thích với các công ước quốc tế cơ bản về QCN. Trong đó, các quyền dân sự, chính trị được quy định đầy đủ, như: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình... Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Nguyên tắc về QCN được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 gồm các nội dung lớn: Xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân; nguyên tắc hạn chế quyền và nguyên tắc "suy luận vô tội". Điều 14, Hiến pháp năm 2013 ghi: "Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, QCD về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". Như vậy, nghĩa vụ của Nhà nước bao gồm: Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) quyền của người dân.

Theo đó, các cơ quan Nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cấp chính quyền...) không được phép ra các văn bản vi phạm các quyền và tự do của người dân đã được ghi trong Hiến pháp. Nhà nước có nghĩa vụ kịp thời ngăn chặn mọi hành vi vi phạm quyền của người dân, dưới bất cứ hình thức nào, khi nào và từ đâu, nhằm bảo vệ người dân; chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp, bảo đảm tính dễ tiếp cận và các dịch vụ sẵn có cho người dân...

Tuy nhiên, công dân có nghĩa vụ với Nhà nước, xã hội và tôn trọng Hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đưa ra nguyên tắc "hạn chế quyền". Tại Khoản 2, Điều 14 quy định: "QCN, QCD chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". Như vậy, QCD sẽ bị hạn chế bằng văn bản luật, chứ không phải bằng các mệnh lệnh hành chính hoặc văn bản dưới luật...

Ở Việt Nam, QCN, QCD không chỉ được quy định trong Hiến pháp, pháp luật, mà còn được thực thi trong thực tế. Trên lĩnh vực quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hiện nay, Việt Nam có 812 cơ quan báo chí in, 67 đài phát thanh, truyền hình; Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng 99,5% diện tích lãnh thổ, qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới; hơn 90% hộ gia đình đã sử dụng sóng của Ðài Truyền hình Việt Nam.

Đồng thời, người dân Việt Nam được tiếp xúc với 75 kênh truyền hình nước ngoài, trong đó có các kênh nổi tiếng. Hiện nay, có 20 cơ quan báo chí nước ngoài đã có phóng viên thường trú tại Việt Nam. Đặc biệt, in-tơ-nét đã được Nhà nước khuyến khích sử dụng và phát triển ấn tượng. Đến nay, Việt Nam có 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động...

Trên lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Việt Nam là một trong số ít các nước đã về đích sớm một số Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs); trong đó, có mục tiêu giảm 50% tỷ lệ người nghèo... Theo đó, tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 58,1% (năm 1993) xuống còn 10,7% (năm 2010); theo chuẩn nghèo mới của Chính phủ (giai đoạn 2011-2015), tỷ lệ nghèo đã giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 9,6% (năm 2012). Cùng với đó, về mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, ở Việt Nam tỷ lệ nhập học đúng tuổi ở bậc tiểu học đạt 97,7%.

Về mục tiêu bình đẳng giới, Việt Nam là một trong 5 nước đang phát triển ở châu Á có tỷ lệ đại biểu nữ tham gia Quốc hội cao nhất. Về sức khỏe phụ nữ và trẻ em, tạo công ăn việc làm, chính sách xã hội... Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII: Số người được trợ cấp ưu đãi thường xuyên trên 1,5 triệu người và hoàn thành việc xây mới, sửa chữa khoảng 48 nghìn căn "Nhà tình nghĩa" cho người có công. Những thành tựu trên đây là hiện thực sống động, bác bỏ mọi luận điệu cho rằng, ở Việt Nam, QCN, QCD bị Nhà nước vi phạm!

Để thể hiện tính kiên quyết trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì trong quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng, chống phải đi đôi với xây và phải lấy xây làm chính. Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn diện đối với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh, phê bình với các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế.

Việc tạo ra phong trào và hành động cụ thể, thiết thực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khi đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất cần thiết. Có một số vấn đề cần tập trung, đó là: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp, vấn đề này đã được Đảng ta chú trọng thực hiện trong thời gian qua và đã thu được những kết quả nhất định; kiên quyết sử dụng nhiều biện pháp để đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; kiên quyết thực hiện phê bình, tự phê bình. Khi có dấu hiệu vi phạm thì dù cán bộ ở cương vị nào cũng cần phải được kiểm điểm, phê bình, xử lý kịp thời, mạnh mẽ, không "dĩ hòa vi quý", không nể nang, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, không có vùng cấm, không loại trừ cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp cao tự coi mình là "bề trên", đứng ngoài tổ chức. Những biểu hiện, những đối tượng như thế càng phải kiên quyết trong đấu tranh, khắc phục, loại trừ, bởi đó thực sự là "mầm họa" của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", là nguyên nhân sâu xa nhưng trực tiếp dẫn tới làm ảnh hưởng đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.


CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN LÀ NỀN TẢNG, KIM CHỈ NAM CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

Bác Hồ từng khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Đây là học thuyết, là chủ nghĩa duy nhất từ trước đến nay quan tâm đến vận mệnh của các dân tộc bị áp bức, gắn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, phù hợp với khát vọng của dân tộc ta. Do đó, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hệ tư tưởng lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu”. Đồng thời, Người nhấn mạnh, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

 

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh trong phòng, chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá cách mnagj hiện nay

 


Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, dự bị động viên hùng hậu; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, củng cố quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo ra những tiền đề, điều kiện trực tiếp đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng. Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, khu vực phòng thủ vững chắc, phù hợp với đặc điểm địa bàn sẽ tạo ra thế chủ động, kịp thời nắm bắt tình hình dân tộc, tôn giáo, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, các tình huống quốc phòng, an ninh liên quan đến dân tộc, tôn giáo, từ đó có kế hoạch và phương án đấu tranh làm thất bại hoạt động lợi dụng của các thế lực thù địch. Quốc phòng, an ninh vững chắc sẽ tạo điều kiện để quân đội xây dựng, phát triển lực lượng, luyện tập các phương án chiến đấu, trị an; tạo ra sức đề kháng trực tiếp làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo của cácthế lực thù địch; giúp cho công tác đấu tranh đúng phương châm, nguyên tắc xử lý, không để các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo ta.

Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tích cực xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ chỉ huy quân sự xã, phường, bồi dưỡng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh, rộng khắp, hùng hậu làm lực lượng nòng cốt trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch. Tích cực rà soát, bổ sung, hoàn thiện phương án tác chiến trong khu vực phòng thủ, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Đẩy mạnh công tác tham mưu, dự báo chính xác tình hình dân tộc, tôn giáo và hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động, lôi kéo đồng bào biểu tình, gây rối, bạo loạn.

 

Phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo hiện nay.

 


Tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo hiện nay. Tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo nhằm đấu tranh phòng ngừa từ sớm, từ xa, góp phần xây dựng “phòng tuyến nhân dân” trên các địa bàn, nhất là khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đấu tranh hiệu quả với âm mưu lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch hiện nay. Các đơn vị quân đội đóng quân ở vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo cần chủ động tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiể số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giúp dân phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập của người dân, xóa đói, giảm nghèo; phát triển kinh tế, gắn với giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, phát huy các nguồn lực tôn giáo, nhất là các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Phát huy vai trò của các đoàn kinh tế - quốc phòng trong hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo trên địa bàn đóng quân phát triển sản xuất, gắn với bảo đảm an sinh xã hội.

Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở địa phương vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo vững mạnh. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng cụm thôn, bản ở khu vực biên giới, vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo; chú trọng làm tốt công tác phát triển đảng viên, xóa tình trạng thôn, bản “trắng” đảng viên, chi bộ. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm đội ngũ cán bộ quân đội tham gia đảm nhiệm các chức danh cán bộ chủ chốt ở địa phương, cơ sở; xây dựng và phát huy vai trò lực lượng nòng cốt trong vùng dân tộc thiểu số và tôn giáo. Vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt các phong trào chính trị - xã hội trên địa bàn.

CẦN KIÊN TRÌ, KIÊN ĐỊNH VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

 

Tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện đường đổi mới đất nước, Đảng ta coi sự kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động” “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Trong mọi hoàn cảnh, phải luôn kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây được coi là một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, là nền tảng vững chắc, là điều kiện củng cố vị thế, uy tín của Đảng trong xã hội với tư cách là một đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo, là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

 

Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trong và ngoài quân đội nắm, dự báo sát tình hình liên quan đến hoạt động các thế lực thù địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam hiện nay

 


Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trong và ngoài quân đội nắm, dự báo sát tình hình liên quan đến hoạt động các thế lực thù địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam hiện nay. Nắm đầy đủ, dự báo hoạt động chống phá của các thế lực thù địch mới hạ quyết tâm chính xác, đề ra chủ trương và biện pháp đúng đắn, tạo cơ sở để chuẩn bị lực lượng, lựa chọn phương án đấu tranh phù hợp, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá. Do đó, cần phối hợp chặt chẽ các lực lượng trong và ngoài quân đội để nắm, dự báo toàn diện về tình hình liên quan đến hoạt động các thế lực thù địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá trên các địa bàn, trong đó tập trung nắm và dự báo về mục tiêu, âm mưu, thủ đoạn; quy mô, hình thức, phương thức, kế hoạch, phương án chống phá cả trước mắt và lâu dài; thành phần lực lượng, đối tượng cầm đầu và lực lượng tham gia (số lượng, cơ cấu thành phần, khả năng, hình thức, phương pháp tổ chức…); đối tượng, dân tộc, tôn giáo, địa bàn các thế lực lợi dụng; nguồn tài chính, vật chất, phương tiện, vũ khí, trang bị bảo đảm; thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động chống phá; tính chất chống phá, mức độ, phạm vi ảnh hưởng và hệ lụy của nó. Từ đó, dự báo sát tình hình vùng dân tộc, tôn giáo, nhất tâm tư, nguyện vọng của đồng bào; thái độ của họ đối với các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; niềm tin đối với bộ máy hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên; những vấn đề bức xúc, bất đồng, mâu thuẫn… của đồng bào mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng.

Để thực hiện được điều đó, cần rà soát, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, quy định phối hợp giữa các lực lượng trong đấu tranh chống các thế lực lợi dụng, dân tộc, tôn giáo, tạo cơ sở pháp lý để phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực lượng. Chú trọng phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để nắm và dự báo tình hình an ninh chính trị trên địa bàn. Đồng thời, dựa chắc vào hệ thống chính trị cơ sở và tai mắt của nhân dân để kịp thời phát hiện, nắm bắt, phân loại các đối tượng và hoạt động chống phá.

CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH THƯỜNG LÀM GÌ?

 

Hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin được xây dựng xuất phát từ bối cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của xã hội phương Tây. Vì vậy, không thể hiểu và không thể áp dụng để giải quyết vấn đề của xã hội phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam.

Thường xuyên rêu rao các luận đề: học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học; họ cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam… những lập luận này đều sai về cả logic lẫn lịch sử.

Trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin không những không lỗi thời, lạc hậu, mà sẽ tiếp tục đóng vai trò là kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các dân tộc trên thế giới

 

CẦN XỬ PHẠT NGHIÊM MINH

 

Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có tự do internet, MXH. Mặt khác, đối với những người vi phạm các quy định của pháp luật trên không gian mạng, đăng phát các thông tin thất thiệt, lừa đảo, xuyên tạc, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân... các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Việt Nam kiên quyết phản đối, đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng quyền con người nói chung và quyền tự do internet, MXH nói riêng để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

 

 Ngày 3-2-2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013.

 

Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện có những hạn chế và diễn biến tình hình đã thay đổi, xuất hiện những kẽ hở, mức độ xử phạt chưa đủ sức răn đe... Vì thế mà tình trạng dùng MXH, trang thông tin, tài khoản cá nhân để đăng thông tin sai sự thật chưa giảm, thậm chí có chiều hướng gia tăng.

 

Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ra đời với 124 điều, đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực. Đây được xem là phương thuốc mạnh hơn trong việc phòng, chống những thông tin giả, sai lệch, xấu độc đang lan tràn trên không gian mạng thời gian vừa qua.

 

Hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, kịp thời điều chỉnh mọi mặt của đời sống. Việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đang được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng thực hiện. Cùng với đó, trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, điều quan trọng đối với mỗi người dân là phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo trong tiếp nhận và xử lý thông tin. Trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người còn phải tôn trọng quyền và lợi ích của tập thể, cá nhân; luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên hàng đầu, thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật.

 

Việc Việt Nam ban hành Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thực chất là nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet, tự do MXH của người dân ngày càng tốt hơn; làm cho môi trường mạng của Việt Nam ngày càng trong lành và an toàn hơn, phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận điệu cho rằng Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cùng các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam ban hành và thực hiện là "bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...", “vi phạm tự do mạng xã hội”... thực chất là hành vi tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam luôn hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, tiến bộ, dân chủ và văn minh, trong đó các quyền con người nói chung, quyền tự do internet, tự do MXH nói riêng được tôn trọng và bảo đảm. Đồng thời, Việt Nam kiên quyết vạch trần và đấu tranh không khoan nhượng với những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.a

Tổ chức, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

 


Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội phát động là hình thức hoạt động tích cực, có hiệu quả cao để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát triển đất nước. Thông qua các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn, tạo nên xung lực xã hội to lớn góp phần giải quyết các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, các nhiệm vụ trọng tâm trên các lĩnh vực. Đây là những hoạt động xã hội tạo nên sự liên kết cùng hướng đích của đông đảo quần chúng, tạo ra những giá trị to lớn về vật chất, tinh thần và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Sự gắn kết hành động thống nhất mục tiêu đã đoàn kết mọi người và đem lại những lợi ích thiết thực nên có sức lan toả mạnh mẽ, mở ra xu hướng xã hội tích cực.

Cần tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua, phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Phong trào “toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, động viên nhân dân hăng hái sản xuất, làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành việc làm thường xuyên, góp phần ngăn chặn tình trạng suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhân rộng các tấm gương điển hình về đạo đức cách mạng trong xã hội. Các cuộc vận động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “hướng về biển đảo yêu thương” nhằm giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng cống hiến của mọi người dân, qua đó, tập hợp, động viên nhân dân đoàn kết, thi đua yêu nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội

 


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, đồng thời dân chủ còn là phương thức tiến bộ nhất để nhân dân tham gia quản lí xã hội, quản lý Nhà nước. Mặt khác, dân chủ là nhu cầu, khát vọng chính đáng của nhân dân. Nhân dân luôn mong muốn có dân chủ thực sự, luôn coi trọng dân chủ. Thực hiện dân chủ là giải pháp hữu hiệu để tăng cường đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: muốn đoàn kết phải thực hành dân chủ thực sự, dân chủ rộng rãi; thực hành dân chủ là cách tốt nhất để tăng cường đoàn kết. Thực tiễn cho thấy, nếu ở đâu, lúc nào không thực hành đúng đắn dân chủ xã hội chủ nghĩa, không tôn trọng và bảo đảm các quyền làm chủ, quyền dân chủ thì ở đó, lúc đó đoàn kết bị lỏng lẻo, suy yếu, thậm chí mất đoàn kết kéo dài.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta cũng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển”[1].

Bởi vậy, để thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải tiến hàn đồng bộ các nội dung. Trước hết phải xây dựng, hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Trong đó tập trung vào xây dựng, hoàn thiện các thể chế, thiết chế, cơ chế, quy chế dân chủ ở các cấp, các lĩnh vực; thừa nhận, tôn trọng và pháp lí hóa các quyền công dân, quyền con người; xác lập nội dung dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mở rộng và hoàn thiện các hình thức dân chủ, bao gồm dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện vì dân chủ tự quản ở các cộng đồng dân cư.

Phát huy dân chủ phải đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật tổ chức, pháp luật Nhà nước và kỷ cương xã hội. Kịp thời ngăn chặn, răn đe, trừng trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những quan điểm, hành vi lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chế độ, chống phá nhà nước, vi phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây mất ổn định chính trị xã hội. Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải chủ động ngăn ngừa, phòng chống tập trung quan liêu, dân chủ cực đoan, vô chính phủ, chuyên quyền, độc đoán, lạm dụng quyền lực và dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, lợi dụng dân chủ để thực hiện hành vi cơ hội, thực dụng, mị dân.

Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc phải quan tâm nâng cao trình độ văn hóa dân chủ cho cán bộ đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và nhân dân. Cán bộ công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao phó, tuân thủ pháp luật, kỷ luật, tôn trọng, tận tuỵ phục vụ nhân dân, xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mỗi người dân phải tự giác nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của mình và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thái độ rõ ràng phân biệt đúng sai, thật giả để không bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, không có hành vi cực đoan sai trái về dân chủ. Luôn nâng cao ý thức trách nhiệm công dân phát huy quyền làm chủ tham gia quản lý xã hội.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, (khóa XIII), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin

 

 Cần thấy rằng nhận thức, quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.

 

Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.

 

Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.

 

Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.

 

Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.

Thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc

 


Thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đây là cơ sở vững chắc bảo đảm cho xã hội phát triển và ổn định tạo cơ sở để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nền tảng vật chất và tinh thần để xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn đặt ra, bám sát tình hình đất nước, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, thúc đẩy xã hội phát triển. Khi nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, tập hợp được ý chí, trí tuệ, sáng kiến của các tầng lớp nhân dân thông qua việc lấy ý kiến rộng rãi theo các kênh đối thoại của các tổ chức, các phương tiện truyền thông, các ý kiến phản biện xã hội.

Nội dung chính sách, pháp luật phải toàn diện, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Song, dù bất cứ lĩnh vực nào, chính sách pháp luật phải bảo đảm về mặt pháp lý và thực tiễn một cách hài hòa, cụ thể, thiết thực các lợi ích: lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích mỗi cộng đồng, thành phần kinh tế, thành phần xã hội, lợi ích cá nhân công dân. Đây là cơ sở tạo nên sự đồng thuận xã hội và đại đoàn kết dân tộc. Hơn nữa, việc thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách, pháp luật cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn thiết thực tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ, tạo nên tâm trạng xã hội tích cực lạc quan, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Cùng với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội có ý nghĩa tích cực đối với xây dựng và đoàn kết dân tộc.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển vừa tạo điều kiện, cơ hội cho mọi người dân phát huy cao nhất nguồn lực sáng tạo trong lao động, cơ hội để phát triển kinh tế để làm giàu chính sách đúng, hợp pháp, thực hành giải quyết hài hòa các lợi ích, cá nhân, tập thể và toàn xã hội, đồng thời hướng sự phát triển kinh tế phục vụ nhu cầu, cuộc sống của con người, mục tiêu cao nhất và nhân văn của phát triển kinh tế. Vì vậy, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vừa là bồi dưỡng sức dân, khoan thư sức dân, tạo ra động lực của phát triển, vừa tạo ra tâm trạng phấn khởi, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng ta chủ trương, cần tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập để mọi người dân đều thực hiện được quyền nghĩa vụ lao động, làm ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội bảo đảm chất lượng cuộc sống, không ngừng tăng cùng với sự phát triển kinh tế. Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, người có công, các đối tượng chính sách ưu tiên, ưu đãi khác, những người nghèo, người thương tật, các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương, thông qua việc mở rộng và hoàn thiện hệ thống bào hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cứu tế xã hội…

Đẩy mạnh công cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, khắc phục từng bước sự chênh lệch về sự phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số trong kinh tế thị trường. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân trên cơ sở phát triển mạnh mẽ, rộng khắp các cơ sở y tế với đội ngũ y, bác sĩ có trình độ chuyên môn cao và có y đức. Phát triển mạnh mẽ phong trào rèn luyện sức khoẻ, thể dục thể thao, nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, văn hóa xã hội, đáp ứng nhu cầu và quyền hoạt động và hưởng thụ về đời sống vật chất và và văn hóa tinh thần của nhân dân.

Một vấn đề quan trọng trong thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực, bảo vệ quyền phụ nữ và quyền trẻ em, chống mọi hành vi bạo hành trong gia đình và ngoài xã hội: phòng chống các tệ nạn xã hội, ngăn chặn các loại tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em xuyên quốc gia, triệt phá các băng nhóm tội phạm kiểu “xã hội đen” giữ gìn cuộc sống thanh bình của nhân dân và giữ ổn định xã hội.

Như vậy, thực hiện chính sách kinh tế gắn liền với chính sách xã hội, với tiến bộ và công bằng xã hội vì con người, tạo ra động lực to lớn, phát huy mọi nguồn lực, mọi năng lực sáng tạo trong nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, do đó đã liên kết và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, nó đã kết hợp chặt chẽ gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời dồng tinh thần, giữa quyền lợi, nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, lợi ích của nhân dân với lợi ích của tập thể và lợi ích toàn xã hội, tạo nên sự ổn định xã hội, đồng thuận xã hội, yếu tố cực kì quan trọng để xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị

 


Đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[1].

Trước hết, việc xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn giữ được định hướng chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng là “ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII xác định: “chú trọng đặc biệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ”[2]. Sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng thực sự xứng đáng là hạt nhân đoàn kết của toàn xã hội.

Vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đặc biệt quan trọng. Đảng ta chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Do đó, cần thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.

Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội”[4].

Để phát huy tốt vai trò của hệ thống chính trị trong xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta chỉ rõ trước hết cần phải phát huy tin thần trách nhiệm vì nhân dân phục vụ của mọi cán bộ, Đảng viên, công chức trong bộ máy Nhà nước, đồng thời đặc biệt chú trọng “phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”[5]. Sự vững mạnh của hệ thống chính trị là cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, song chính sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng là nền tảng để hệ thống chính trị không ngừng được hoàn thiện, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.3.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.95.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.173.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.172.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.173.