Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” vốn là công việc rất khó khăn, phức tạp, vì nó liên quan tới vấn đề tư tưởng, biểu hiện âm thầm, gặm nhấm dần lòng tin, xói mòn dần phẩm chất đạo đức của cá nhân, tổ chức. Trong thực tế thì hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng liên quan cả gián tiếp và trực tiếp tới công tác xây dựng tổ chức, xây dựng con người, công tác cán bộ v.v..
Hơn nữa, khi thực hiện nhiệm vụ này rất
dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của mỗi con người. Tuy khó nhưng
không thể không làm, vì vấn đề này có liên quan đến sinh mệnh chính trị, uy tín
của Đảng và sự tồn vong chế độ. Bởi thế, ngoài quan điểm tích cực và chủ động
thì việc kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất quan trọng. Nếu không kiên
quyết trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
thì việc thực hiện sẽ trở nên “nửa vời” và không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề
ra.
Khác với nhiều quốc
gia trên thế giới, QCN và QCD ở Việt Nam do nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên đấu tranh giành lấy.
Đó là thành quả trực tiếp của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong Tuyên
ngôn độc lập (ngày 2-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng...
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi
và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hơn nữa, Người
còn khái quát và kết luận: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do". Như vậy, với Hồ Chí
Minh và Đảng ta, QCN ở một quốc gia, dân tộc phải dựa trên tiền đề, điều kiện
cơ bản là: Độc lập dân tộc, CNXH, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống
nhất đất nước. Bởi vậy, có thể nói: Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là Tuyên ngôn
"kép" về quyền dân tộc tự quyết và QCN của dân tộc Việt Nam và các
dân tộc thuộc địa. Đây là cống hiến vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam về lý luận chính trị nói chung, về nhân quyền nói riêng trong thời
đại ngày nay. Hiện nay, QCN và QCD ở
Việt Nam luôn được khẳng định, điều chỉnh và mở rộng phù hợp với luật pháp quốc
tế và thực tiễn phát triển của đất nước. Hiện nay, ở Việt Nam, QCN, quyền và
nghĩa vụ công dân được quy định tại Chương II, Hiến pháp năm 2013. Văn kiện
pháp luật quan trọng này đã tiếp thu những giá trị phổ quát về QCN của cộng đồng
quốc tế; đồng thời, kế thừa, mở rộng QCD đã được ghi nhận trong các bản Hiến
pháp trước đây của Nhà nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992), mà ở
đó, lần đầu tiên QCN được đề cập một cách trực tiếp, tách bạch và không đồng
nhất với QCD. Chương II, Hiến pháp
năm 2013 đã thể hiện một cách khoa học những nội dung, các nguyên tắc của
QCN, QCD, tương thích với các công ước quốc tế cơ bản về QCN. Trong đó, các
quyền dân sự, chính trị được quy định đầy đủ, như: Công dân có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình...
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Nguyên tắc về QCN được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 gồm các nội dung lớn: Xác định rõ mối quan
hệ giữa Nhà nước với người dân; nguyên tắc hạn chế quyền và nguyên tắc
"suy luận vô tội". Điều 14, Hiến pháp năm 2013 ghi: "Ở nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, các QCN, QCD về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật".
Như vậy, nghĩa vụ của Nhà nước bao gồm: Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện)
quyền của người dân. Theo đó, các cơ quan
Nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cấp chính quyền...) không
được phép ra các văn bản vi phạm các quyền và tự do của người dân đã được ghi
trong Hiến pháp. Nhà nước có nghĩa vụ kịp thời ngăn chặn mọi hành vi vi phạm
quyền của người dân, dưới bất cứ hình thức nào, khi nào và từ đâu, nhằm bảo vệ
người dân; chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp, bảo đảm tính dễ tiếp cận và các dịch vụ sẵn
có cho người dân... |
Để thể hiện tính kiên quyết trong phòng,
chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì trong quá trình
thực hiện phải nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng, chống
phải đi đôi với xây và phải lấy xây làm chính. Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn
diện đối với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh, phê bình
với các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế.
Việc tạo ra phong trào và hành động cụ
thể, thiết thực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khi đấu tranh ngăn chặn,
khắc phục những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
là rất cần thiết. Có một số vấn đề cần tập trung, đó là: Kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản
lý cao cấp, vấn đề này đã được Đảng ta chú trọng thực hiện trong thời gian qua
và đã thu được những kết quả nhất định; kiên quyết sử dụng nhiều biện pháp để
đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa";
kiên quyết thực hiện phê bình, tự phê bình. Khi có dấu hiệu vi phạm thì dù cán
bộ ở cương vị nào cũng cần phải được kiểm điểm, phê bình, xử lý kịp thời, mạnh
mẽ, không "dĩ hòa vi quý", không nể nang, rơi vào chủ nghĩa cá nhân,
không có vùng cấm, không loại trừ cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp cao tự coi mình
là "bề trên", đứng ngoài tổ chức. Những biểu hiện, những đối tượng
như thế càng phải kiên quyết trong đấu tranh, khắc phục, loại trừ, bởi đó thực
sự là "mầm họa" của "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa", là nguyên nhân sâu xa nhưng trực tiếp dẫn tới làm ảnh hưởng đến uy
tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét