Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX (tháng 3 năm 2003), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số
23-NQ/TW “về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Theo đó, lần đầu tiên cụm từ “đại đoàn kết toàn dân tộc” được
sử dụng để thay thế cho cụm từ “đại đoàn kết toàn dân” trong
các văn kiện trước đó của Đảng. Sự thay đổi đó phản ánh bước phát triển mới trong nhận
thức của Đảng về vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta trong điều kiện
mới.
Cơ
sở của đại đoàn kết toàn dân tộc là lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự cường dân tộc, là sự
thống nhất giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội. Đây được coi là “mẫu số chung” để gắn bó, liên kết mọi người vào
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực
hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thành phần
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc rất rộng rãi, bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng
lớp, các thành phần, các lực lượng xã hội cả nhân dân ở trong nước cũng như
kiều bào ta ở nước ngoài trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Khái niệm sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc ở Việt Nam là sức mạnh đoàn kết của các dân tộc, các tôn giáo, các giai
cấp, tầng lớp và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống
trong nước hay định cư ở nước ngoài, tập hợp trong một mặt trận dân tộc thống
nhất, trên nền tảng liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc không phải là phép số cộng của các giai cấp, tầng lớp,
các dân tộc, tôn giáo… trong xã hội, mà là tổng hòa sức mạnh đoàn kết của các
giai cấp, tầng lớp đó, được tập hợp trong Mặt trận Tổ quốc, trên nền tảng liên
minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Lực lượng rộng
rãi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để khơi dậy, tập hợp và phát
huy mọi nguồn lực của dân tộc và các nguồn lực khác cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự rộng rãi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc không
phải là quy tụ vô nguyên tắc mọi thành phần. Nó cũng bao hàm cả việc loại trừ
những phần tử có tư tưởng và hành động đi trái với lợi ích quốc gia, dân tộc,
chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà
đoàn kết với họ”[1].
Cơ sở của đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam là sự thống nhất giữa lợi ích quốc gia dân tộc
với lợi ích các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Ở nước ta, lợi
ích cao nhất, chung nhất, đồng thời cũng là chất keo gắn kết các tầng lớp nhân
dân, gắn kết nhân dân với Đảng, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là
xây dựng một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh,
hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm
tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương
lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân”[2].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét