Được tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ là một vinh dự, lại được tham gia kéo pháo càng vinh dự hơn. Chúng tôi xin kể lại câu chuyện kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, một kỳ tích của pháo binh nói riêng và quân đội ta nói chung.
Sau khi hành quân tới mặt trận, các đơn vị đang chờ đợi kế
hoạch chuẩn bị chiến đấu thì chúng tôi được cấp trên cho biết rõ: "Để giữ
yếu tố bí mật, giành yếu tố bất ngờ, nhất là đối với lực lượng lựu pháo 105mm
và cao xạ 37mm lần đầu tiên xung trận, Bộ Chỉ huy mặt trận chủ trương mở đường,
dùng sức người kéo pháo vào trận địa". Thực ra lúc đó chúng ta hoàn toàn
có khả năng làm đường để xe ô tô trực tiếp kéo pháo vào trận địa nhưng rất khó
giữ được bí mật... Hiểu rõ chủ trương sáng suốt của cấp trên, chúng tôi ai nấy
đều hăng hái bắt tay vào nhiệm vụ mới mẻ này. Các lực lượng làm đường gồm có Đại
đoàn 308, một tiểu đoàn công binh và 5 đại đội sơn pháo, súng cối.
Sáng sớm ngày 15-1-1954, hơn 5.000 người được rải đều trên
suốt các bìa rừng, sườn núi, có nơi chỉ cách địch có 4km, trong tầm đại bác của
chúng. Hàng ngàn cánh tay vung lên, sỏi đá tóe lửa, cây to bị đánh bật gốc.
Pháo binh địch thỉnh thoảng bắn vu vơ. Đang giữa tiết Đông mà quần áo chúng tôi
đều đầm đìa mồ hôi. Cơm ăn ngay tại chỗ, ăn xong lao vào việc ngay. Con đường
hiện ra dần dần không phải nhờ có phép lạ mà chính bằng quyết tâm và sức lao động
phi thường của quân ta. Chỉ ít ngày sau, con đường kéo pháo dài 15km, rộng 3m
đã hoàn thành. Cả đoạn đường có trên chục dốc cao, có dốc tới 40 độ C, bên đường
là vực sâu. Đường làm đến đâu anh em lại vít cành cây, dựng dàn mướp trồng cây
để ngụy trang đến đó.
Những cỗ pháo nặng trên hai tấn bắt đầu cắt khỏi xe, được
kéo bằng tay từ km70 đường Tuần Giáo. Lực lượng tham gia kéo pháo gồm Đại đoàn
312, Trung đoàn lựu pháo và Trung đoàn pháo cao xạ. Lúc đầu, Ban chỉ đạo tổ chức
kéo thử một khẩu lựu pháo và một khẩu cao xạ để rút kinh nghiệm. Hai mươi chiến
sĩ bộ binh kéo một khẩu, còn pháo thủ thì đẩy, nhấc và chèn bánh. Trên khoảng đất
bằng ở cửa rừng Nà Nham, với chừng ấy người, chúng tôi kéo pháo chạy băng băng,
anh em ai cũng phấn chấn. Nhưng đến một dốc nhỏ, pháo chỉ nhích được từng gang,
khá nặng nề, vất vả. Sau đó phải tăng lên 30 người rồi 40 người một khẩu mới vượt
qua được dốc. Càng lên cao, pháo càng ì ạch, càng phải tăng người. Cuối cùng,
phải tăng tới 100 người một khẩu cộng với lực kéo của tời mới đưa được pháo lên
dốc. Vất vả nhất phải kể đến pháo thủ vác càng, anh em lái không nổi nên lúc
càng văng sang phải, lúc quay sang trái. Phần lớn là kéo vào ban đêm nhưng có
ngày lợi dụng chỗ có rừng cây kín đáo, anh em kéo mải miết cả ngày.
Để nâng cao tốc độ kéo, bảo đảm cho đúng ngày quy định, anh
em đã họp bàn rút kinh nghiệm, nhiều ý kiến đóng góp rất sôi nổi: "Yêu cầu
công binh mở rộng đường vòng, bạt bớt dốc, thiết bị tời chắc chắn, dùng dây cóc
rừng để kéo, bố trí dây kéo hợp lý hơn...".
"Hai... ba... nào!", tiếng hô của đồng chí chỉ huy
kéo pháo mạnh mẽ, thôi thúc điều khiển chúng tôi kéo nhịp nhàng. Trăm con người
ngả rạp rồi lại chồm lên như những lớp sóng dồn, quyết bắt pháo đi nhanh. Pháo
thủ Vó có sáng kiến buộc bó lá cây nhỏ vào lưỡi cày để càng tự lết xuống đất,
không phải vác càng. Khẩu đội trưởng Luân lại có sáng kiến hay hơn là đẽo guốc
gỗ hình con vịt buộc vào lưỡi cày để lướt trên mặt đường được nhẹ nhàng.
Tiếng "hai... i... ba, nào!", "dô... ta,
nào!" đã khản đặc, có người hô như hết hơi. Có hôm trời mưa dầm dề, đường
trơn, dốc tuột, mấy trăm bàn chân đứng mãi một chỗ, đất rắn đã biến thành bùn.
Kéo suốt mấy đêm, ai nấy đều thèm ngủ, hễ ngơi tiếng dô ta là có thể ngủ ngay
trên đường. Cán bộ đang hội ý, có người ngủ gật, cụng đầu vào nhau tỉnh dậy bật
cười.
Trong gian khổ vất vả, nhiều gương dũng cảm xuất hiện. Một
hôm khẩu pháo của Đại đội 1 đang đổ dốc suối Reo bỗng bị tụt quá nhanh, pháo thủ
Mậu đã ghé vai vào bánh kết hợp với dây ghim cản cho pháo khỏi tụt nhanh, nhưng
khẩu pháo vẫn cướp đà đè vào đùi Mậu. Anh em ráng sức kéo ngược lại để cứu Mậu
nhưng pháo vẫn không nhúc nhích. Khi thấy lâu, đồng chí Mậu nói với anh em:
"Thôi, chân tôi đằng nào cũng đã hỏng, cứ cho pháo lăn qua để đưa pháo vào
trận địa kịp nổ súng".
Hôm sau lại một sự kiện nữa xảy ra. Tại đoạn đường từ Lai
Châu đi Điện Biên, khẩu pháo của Đại đội 6 đang đổ dốc thì dây tời bị đứt, lôi
cả dây cả người xềnh xệch trên dốc, không sao cưỡng nổi. "Dũng cảm cứu
pháo, còn người còn pháo", những tiếng hô ấy ngân vang trong lòng các chiến
sĩ. Trong giờ phút nguy kịch này, ba pháo thủ Chức, Cứ và Ngói đã rượt theo
pháo để lao chèn nhưng pháo cứ lồng lên băng qua mọi cây chèn, mọi mô đất. Cứ
và Ngói bị hất ra, chỉ còn mình Chức. Khẩu pháo lao nhanh sắp lăn xuống vực.
Không chậm trễ, Chức ôm chèn lao mình vào một bên bánh. Khẩu pháo chồm qua người
Chức mất đà lao quặt vào gốc cây trên đồi rồi khựng lại. Tấm gương hy sinh quên
mình cứu pháo của Nguyễn Văn Chức cũng như gương hy sinh của Tô Vĩnh Diện ở cao
xạ pháo đã nhanh chóng truyền đi khắp tuyến đường kéo pháo. Chúng tôi đều cảm
phục, thương tiếc các anh, càng xót xa căm phẫn khi được tin 14 đồng chí của
Trung đoàn 675 vừa ngã xuống hôm trước vì một quả đạn pháo địch ở ngã ba bản Tố
khi anh em vào thay bộ binh kéo pháo.
Chính trong thời khắc hào hùng đó, bài hát "Hò kéo
pháo" của Hoàng Vân ra đời, kịp thời động viên bộ đội ghi nhận một sự kiện
phi thường.
…Sắp tới rồi đồng chí pháo binh ơi!
Vinh quang thay sức người lao động...
Bảy ngày đêm trôi qua, hàng ngàn chiến sĩ đã vượt qua khó
khăn, lập kỳ công bí mật đưa pháo vào trận địa an toàn. Tưởng như vậy đã hoàn
thành nhiệm vụ, chỉ chờ lệnh nổ súng nhưng tức thời lại được lệnh của cấp trên
"kéo pháo ra" để thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc".
Bao băn khoăn thắc mắc nảy sinh trong tư tưởng của bộ đội, nhưng sau khi được
giải thích, động viên, anh em chúng tôi lại khẩn trương bắt tay vào việc.
Kéo pháo vào đã gian khổ nhưng kéo pháo ra còn quyết liệt
hơn vì địch đã phát hiện được đường kéo pháo của ta, đại bác của chúng bắn xối
xả cản đường. Hàng ngày, máy bay địch ném bom napan đốt rừng, thiêu trụi cây
nhưng bộ đội ta vẫn dũng cảm vượt qua lưới lửa, quyết tâm đưa pháo ra. Các cỗ
pháo được ngụy trang kín đáo, việc chỉ huy kéo pháo có kinh nghiệm hơn, nhưng
dưới làn bom đạn địch, không đêm nào là không có thương vong. Có lúc đạn địch
rơi giữa hàng quân kéo pháo, một số đồng chí ngã xuống nhưng đơn vị vẫn ghìm chặt
pháo, không hề nao núng buông tay. Ánh sáng của đèn dù soi rõ nét mặt hao gầy
nhưng đầy vẻ kiên quyết của chiến sĩ ta. Trăm người như một, không ai lo lắng đến
tính mạng của mình mà chỉ lo giữ gìn pháo.
Sau 8 ngày đêm kéo pháo ra, tất cả các khẩu pháo được đưa tới
vị trí an toàn. Bom đạn địch bắn phá dữ dội như vậy nhưng anh em chúng tôi vẫn
bảo vệ được pháo nguyên vẹn, bảo đảm ngày nổ súng mở màn chiến dịch đúng quy định./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét