Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, học thuyết
John Maynard Keynesvới chính sách toàn dụng việc làm và ổn định tiền tệ, nhà
nước phúc lợi và việc tích cực can thiệp vào kinh tế mất tín nhiệm vì cuộc
khủng hoảng dầu mỏ, việc bãi bỏ chế độ kim bản vị của đồng đô la và tình trạng
vừa tăng trưởng thấp, vừa lạm phát cao ở các nước tư bản. Trong bối cảnh
đó, chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) của
Friedrich August von Hayek, một sự phục sinh của chủ nghĩa tự do cổ điển (tự do
cũ), đã đưa ra các chính sách để cứu vãn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tân tự do là một trong những trào
lưu tư tưởng của kinh tế học tư sản hiện đại. Đặc trưng của lý thuyết này là
kết hợp các quan điểm và phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trường
phái trọng thương mới, trường phái Keynes mới để đưa ra lý thuyết kinh tế của
mình nhằm làm cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể
nói, nó là sự tân trang lại chủ nghĩa tự do cũ, mà đặc trưng của lý thuyết này
là sự ủng hộ thị trường tự do, chế độ sở hữu tư nhân và phi
điều tiết của nhà nước theo quan điểm “thị trường tối đa, nhà nước tối
thiểu”.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta
chứng kiến sự nổi lên của hệ tư tưởng tự do mới ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển. Từ đó đến nay, chủ nghĩa tân tự do giữ vị trí quan trọng, thậm chí
thống trị, trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hiện đại, được nhiều
nước phương Tây áp dụng; các nguyên tắc của nó cũng được các nhà kinh tế và
hoạch định chính sách của nhiều tổ chức, định chế kinh tế quốc tế toàn cầu sử
dụng và là một phần không thể thiếu trong điều khoản của các hiệp định thương
mại tự do, với nhiều biến thể, tên gọi khác nhau, như: “Chủ nghĩa tự do mới”
(lý thuyết về “Nền kinh tế thị trường xã hội”) ở Đức, “Chủ nghĩa bảo thủ mới” ở
Mỹ, “Chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “Chủ nghĩa kinh tế” ở Áo... Thậm chí, chủ
nghĩa tân tự do còn được chính giới và nhiều nhà tài phiệt tư bản rao giảng như
“một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối
cùng và vĩnh viễn của con người” (?!). Vậy, sự thật đằng sau những rao giảng về
chủ nghĩa tân tự do đó là gì?
Một là, chủ nghĩa tân tự do tán dương về “nền kinh tế tự do lý
tưởng”, khẳng định “chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao nhất của xã
hội loài người”, đồng thời nó cũng không quên cuộc chiến quyết liệt chống chủ
nghĩa cộng sản.
Ở một góc độ nhất định, có thể thấy, chủ nghĩa
tân tự do có một số yếu tố hợp lý, có thể vận dụng trong hoạt động kinh tế, tài
chính và thương mại, nhất là thúc đẩy tự do kinh tế, tự do thương mại, tôn
trọng các quy luật của kinh tế thị trường..., đóng góp nhất định vào thành tựu
phát triển kinh tế của nhân loại, dù rằng cái giá phải trả đằng sau của nó so
với kết quả đạt được là rất đắt. Cũng chính bởi những thành tựu kinh tế từng
đạt được và tư tưởng tự do kinh tế dường như không có giới hạn, nên chủ nghĩa
tân tự do có sức lôi cuốn nhất định, rất dễ lừa mị tư tưởng, tạo nên không ít
ngộ nhận, lầm tưởng. Song, về bản chất, chủ nghĩa tân tự do là học thuyết có
nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, thậm chí cực đoan, khi bản chất vị lợi nhuận tàn
nhẫn của số ít nhà tư sản sẵn sàng chà đạp lên máu, nước mắt của người lao
động; sự tàn khốc, lạnh lùng của kim tiền lấn át đi tính nhân văn, nhân bản vì
quảng đại con người. Hơn nữa, nó nảy nòi và cắm rễ sâu trên mảnh đất của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên luôn muốn níu giữ, bảo vệ bằng mọi giá, đồng
thời che đậy đến cùng những khuyết tật, mặt tối của chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ
đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, thế giới đã qua ba biến thể: Chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa Keynes
và chủ nghĩa tự do mới. Sự giống nhau của cả ba hình thái đó là đều coi chủ
nghĩa tư bản là “xã hội toàn mỹ”, “đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại”.
Sự thật là, chủ nghĩa tân tự do không phải là một học thuyết hoàn bị
hay là chìa khóa vạn năng để xây dựng nên một thị trường tự do của chủ nghĩa tư
bản có thể giúp giải quyết mọi khó khăn, bất cập của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tân tự do ngày càng lộ rõ “gót chân Asin”
của mình, khi sự tự do thái quá của thị trường như ngựa bất kham, lại bị giật dây
bởi tài phiệt tư bản, không có sự kiểm soát hợp lý của nhà nước, dẫn tới những
thất bại với hệ lụy khôn lường. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính có
tính chu kỳ khởi phát từ các nước tư bản vẫn tiếp diễn, gây nên tổn hại nghiêm
trọng cho nhân loại, nhất là trút hậu quả lên các nước đang phát triển, nước
nghèo. Nhiều chính sách tân tự do được áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX
vẫn để lại di chứng, bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề cho đến ngày
nay. Những sự “mời gọi” về sức hấp dẫn của tự do kinh tế không có giới hạn gắn
với các giá trị phương Tây đã sụp đổ ở ngay chính quốc, là nhiều nước tư bản
phát triển, nơi sinh ra và nuôi dưỡng chủ nghĩa tân tự do, lẫn một số nước đang
phát triển bị cưỡng bức “nhập khẩu” học thuyết này.
Chủ nghĩa tân tự do khoác bộ cánh mới sặc sỡ
lên chủ nghĩa tư bản, nhưng không thể làm thay đổi được bản chất bóc lột của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các chính sách của chủ nghĩa tân tự do,
như cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm phúc lợi xã hội và tăng lãi suất để giảm
lạm phát, duy trì cán cân tài chính; tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và
tiện ích công; tự do hóa thương mại và tài chính; giảm điều tiết thị trường lao
động... còn cực đoan hơn so với chủ nghĩa tự do cổ điển của Adam Smith và David
Ricardo phát triển trong thế kỷ XIX và đều nhằm mục đích tối đa hóa
lợi nhuận, thu những nguồn lợi khổng lồ để gia tăng tích lũy tư bản.
Tuy nhiên, “thu nhập và sự giàu có chảy ngược
lên trên, thay vì chảy xuống các tầng lớp phía dưới xã hội”. Chủ nghĩa tân tự
do có thể đúng ở mặt nào đó, nhưng về căn bản, nó là một học thuyết có hại,
không góp phần vào sự phát triển bền vững và rõ ràng, nó chỉ đúng với số ít các
nhà tư sản đặc quyền, đặc lợi, không hề đúng với số đông các tầng lớp lao động,
nhất là khi nó cổ xúy cho mô hình nhà nước ngày càng teo nhỏ gắn với việc cắt
giảm tối đa phúc lợi xã hội. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa
các giai tầng xã hội ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế, bất bình đẳng còn trở
thành một đặc tính bản chất của chủ nghĩa tân tự do, khi nó công khai chống chủ
nghĩa bình đẳng (bình quân) do nhà nước phúc lợi đề ra và “cha đẻ” của học
thuyết này, Friedrich August von Hayek, thậm chí còn biện bạch cho điều này khi
từng công khai tuyên bố, “bất bình đẳng là một giá trị tích cực cần thiết cho
các xã hội phương Tây”(13), càng khẳng định thêm bản chất của chủ
nghĩa tân tự do: Lấy bất bình đẳng làm động lực, lấy cạnh tranh khốc liệt làm
quy luật sinh tồn, lấy lợi nhuận làm đích cuối.
Như vậy, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có
những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối
để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không
hề thay đổi. Suốt hơn 400 năm tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất này”, chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ
trong mỗi lỗ chân lông của nó”. Nhìn sâu vào bên trong, chủ nghĩa tư bản hiện
đại ngày nay vẫn giữ nguyên nhiều đặc tính của thứ chủ nghĩa tư bản kền kền
nguyên thủy, hoang dã và tàn bạo, thậm chí còn suy đồi và tàn nhẫn hơn dưới sự
thúc đẩy của chủ nghĩa tân tự do và những tham vọng bá quyền ngày càng lớn và
manh động của nhiều chính phủ phương Tây. Và, với đầy rẫy khuyết tật, mâu thuẫn
và mặt tối đó, thì rõ ràng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư
bản chủ nghĩa không thể “toàn mỹ” và là tương lai của loài người; chủ nghĩa tân
tự do lại càng không phải là một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội
duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của nhân loại, như rao giảng của
nhiều chính trị gia và nhà tài phiệt tư bản.
Sau nhiều năm chiếm thế thượng phong, chủ
nghĩa tân tự do đang gặp nhiều thất bại. Những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh
tế, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường, phân
hóa giàu - nghèo, phân cực xã hội... ở nhiều nước tư bản và trên quy mô toàn
cầu càng phơi bày rõ những mâu thuẫn và hạn chế của một triết luận kinh tế
chính trị phản ánh bản chất của chủ nghĩa tư bản, một triết luận vì lợi ích của
số ít chống số đông. Rõ ràng, chủ nghĩa tự do mới cố gắng làm mới chủ nghĩa tư
bản già cỗi, mong đem đến một sức sống mới bằng các liệu pháp tự do hóa được tân
chế, song nó vẫn không thể và không bao giờ có thể khắc phục được mâu thuẫn nội
tại mang tính bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản, cũng như càng làm trầm
kha thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản và các
nước đang phát triển, giữa tư bản và lao động ở quy mô toàn cầu. “Niềm tin của
chủ nghĩa tân tự do vào các thị trường không bị ràng buộc như là con đường chắc
chắn nhất dẫn đến thịnh vượng của xã hội hiện đang mất uy tín và hấp hối...
Thực tế là, bất chấp tên gọi của nó, thời đại của chủ nghĩa tân tự do còn lâu
mới tự do”.
Cùng với việc xảo biện chủ nghĩa tư bản là
“nấc thang cuối cùng của nhân loại”, chủ nghĩa tân tự do cũng chĩa mũi nhọn
chống phá quyết liệt chủ nghĩa cộng sản. Bởi, cái mà chủ nghĩa tân tự do tập
trung đấu tranh quyết liệt nhất vẫn là những gì mang tính chất tập thể và công
hữu, những gì có màu sắc chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa xã
hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tân tự do tự đắc cho rằng đó
là “sự cáo chung của lịch sử”, rằng đã xóa bỏ trở ngại cuối cùng ngăn chia toàn
bộ thế giới khỏi mục tiêu dân chủ, tự do và kinh tế thị trường (?!). Sự chống
phá của những người cổ xúy chủ nghĩa tân tự do là hết sức dễ hiểu, bởi nền móng
tồn tại của chủ nghĩa tân tự do là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự bảo
đảm thống trị của giai cấp tư sản, sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ
nghĩa; trong khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, cùng sự bảo đảm lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của toàn thể nhân dân lao động... - những yếu tố và sự phát triển trực tiếp đe
dọa và phủ định sự tồn tại của chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tân tự do chống phá chủ nghĩa cộng sản từ những vấn đề mang tính nền
tảng, đi từ các yếu tố kinh tế để tác động đến chính trị, dùng con bài “sức
mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”... để làm chuyển hóa chế độ chính trị.
Hơn nữa, chủ nghĩa tân tự do có nhiều biến thể, trong đó có những dạng thức về
danh nghĩa dung hợp thêm yếu tố xã hội để phần nào giảm bớt tính cực đoan, cân
bằng hơn giữa yếu tố tự do và công bằng, giữa vai trò của thị trường và vai trò
của nhà nước... rất dễ gây lầm tưởng, dù rằng đó chỉ là sự cải tổ những yếu tố
bề ngoài, còn bản chất của nó đương nhiên không bao giờ thay đổi.
Suy cho cùng, chủ nghĩa tân tự do luôn là một
hình thái tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, nó không phải là một học thuyết ưu việt
đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất của nhân loại; ngược lại,
chính nó đã và đang dọn đường, mở ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của
phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao
hơn: Chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, hạ
thấp vai trò của nhà nước, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân.
Có thể nói, tư nhân hóa là một “pháp bảo”,
được chủ nghĩa tân tự do bảo vệ bằng mọi giá, vì tư hữu tư bản chủ nghĩa chính
là cơ sở sinh tồn của nó; sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ thì chủ
nghĩa tư bản tiêu vong và tự khắc chủ nghĩa tân tự do cũng không còn bất kỳ cơ
sở nào để tồn tại. Nó lo sợ việc nhà nước can thiệp vào kinh tế, hệ lụy không
tránh khỏi là khu vực tư nhân, cái lõi của chủ nghĩa tư bản, sẽ bị lề hóa, thậm
chí bị loại bỏ. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa chủ nghĩa tân tự do cổ xúy
tư nhân hóa nền kinh tế, cổ xúy cho sự “tồn tại vĩnh hằng” của chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuất khẩu tư tưởng này theo dòng
chảy của đầu tư tư bản khắp thế giới.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội
loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là các hình thái kinh tế
- xã hội không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn thay thế lẫn nhau, xã hội trước tạo
tiền đề vật chất cho xã hội sau phủ định nó, cho đến khi nhân loại đi đến chủ
nghĩa cộng sản. Do đó, việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là
một tất yếu khách quan, do chính những mâu thuẫn trong lòng của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Theo quy luật phủ định của phủ định, chính nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa đẻ ra sự phủ định bản thân nó, phủ định chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
như một tất yếu để tạo nên chế độ công hữu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng
sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ
chế độ tư hữu”. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phải dựa trên cơ sở
tôn trọng các quy luật khách quan và không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ sở hữu tư
sản nô dịch lao động của người khác.
Việc chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa
tất cả những gì tư nhân có thể làm được trong một thị trường tự do ở quy mô
toàn cầu giữ vị trí thống lĩnh, đồng thời xem nhẹ vai trò của nhà nước cũng là
nhằm tích tụ tư bản ngày càng lớn, tập trung tài sản vào một số ít nhà tư sản
kếch sù. Hay nói đúng hơn, đó là cuộc tấn công của tầng lớp thượng lưu toàn cầu
chống nhân dân lao động ở mỗi nước tư bản và trên toàn thế giới; đồng thời, nó
cũng không thuần túy là một luận thuyết kinh tế, mà có mục đích chính trị rất
rõ ràng, nhất là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Có điều, suốt nửa thế kỷ qua,
những diễn ngôn chính trị của các nhà cầm quyền tư bản về việc tư nhân hóa tạo
cơ chế tự điều chỉnh để mọi người đều giàu có, xã hội thịnh vượng, mà không cần
bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước ngày càng xa vời. Thậm chí khác xa trên thực
tế, khi bản thân nhiều chính phủ của các nước tư bản phát triển đã nhiều lần
tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp dưới các hình thức và cấp độ khác nhau, từ
áp đặt quyền kiểm soát đặc biệt, cứu trợ tài chính, nắm cổ phần chi phối đến
việc thành lập doanh nghiệp nhà nước dựa trên mua lại các doanh nghiệp tư nhân
để kiểm soát một lĩnh vực nào đó...
Thực tế, chủ nghĩa tự do mới cũng không phủ
nhận hoàn toàn vai trò của nhà nước; nó chỉ muốn một nhà nước tối thiểu hay nói
đúng hơn cần nhà nước với quy mô do nó định đoạt, hành động theo nó yêu cầu. Nó
hô hào nhà nước tối thiểu nhưng lại là tối đa trong
phục vụ sở hữu tư nhân, phục vụ những tập đoàn tư bản bá quyền. Nó hô hào tránh
xa chủ nghĩa nhà nước (statism) và hướng tới trật tự sở hữu tư nhân (private property
order), nhưng nhà nước tư bản sẵn sàng can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, lợi
ích của đa số người dân và trật tự xã hội khi cần bảo vệ lợi ích của giai cấp
tư sản, nhất là tầng lớp chóp bu. Nhà nước ở các quốc gia tư bản còn ngày một
lớn hơn, không hề “tối thiểu” như họ tuyên bố, thậm chí còn hình thành mô hình
siêu nhà nước qua liên kết các cường quốc tư bản lại với nhau, thành dạng
thức liên nhà nước, để can thiệp, tác động, điều khiển nền kinh tế,
chính trị thế giới... Chủ nghĩa tân tự do gắn liền với chủ nghĩa bá quyền, bản
chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng cảnh báo, chủ
nghĩa cá nhân chính là “giặc nội xâm” vô cùng nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sự
tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu
tất yếu để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; là công việc phải tiến hành
thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người nhấn
mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa”.
Chủ nghĩa tân tự do được coi là đại diện cho
một thứ chủ nghĩa tư bản mới, là bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tư bản hiện đại,
nên nó vẫn tiếp tục được cổ xúy, tán dương, thậm chí được các nước tư bản tìm
mọi cách “xuất khẩu” sang các quốc gia khác, mà đằng sau đó là những mưu tính
chính trị được che đậy tinh vi bằng con bài của những học thuyết kinh tế. Các
nhà kinh tế tự do o ép các nước đang phát triển cải tổ triệt để mọi khu vực của
nền kinh tế. Các diễn ngôn, tư tưởng và sáng kiến hướng đến mục tiêu kinh tế
được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục đích chính trị, nhất là chuyển
hóa các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và ràng buộc về chính trị.
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do
để chúng ta tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác, không để rơi vào bẫy “tự do
kinh tế” theo mô hình tư bản chủ nghĩa; đồng thời kiên định phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo mọi điều kiện để phát triển kinh
tế tư nhân như là một động lực quan trọng, song tuyệt đối phải giữ vững vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của thành
phần kinh tế này, khuyến khích nhưng phải có chọn lọc phát triển kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới một cách
chủ động, chắc chắn, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; nắm vững và
xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa tuân theo các quy luật kinh tế thị trường với
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,
không ngừng vun bồi nội lực quốc gia, nhuần nhuyễn trong kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự
lực, tự cường, tự hào dân
tộc”...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do
cũng để chúng ta nhận diện và đấu tranh hiệu quả với học thuyết này, cùng niềm
tin khoa học vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa
xã ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét