Một trong những nguyên nhân
khiến các thế lực thù địch và đối tượng xấu thường xuyên bịa đặt, vu cáo về
tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là nhằm bẻ lái luật pháp về tín
ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam theo các tiêu chuẩn phương Tây.
NHỮNG ĐÒI HỎI VÔ LÝ, QUÁ
TRỚN
Những năm qua, do cách nhìn
thiên lệch, thiếu thiện chí nên một số cá nhân, tổ chức hoạt động dưới danh
nghĩa “người bảo vệ” tự do tôn giáo và nhân quyền thế giới vẫn tung ra những
thông tin thiếu khách quan, những nhận định sai trái về tình hình tự do tôn
giáo ở Việt Nam.
Điển hình là gần đây, Ủy
ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) công bố báo cáo về tình hình tự do tôn
giáo quốc tế năm 2021, trong đó nêu tình hình và kết quả thực hiện tôn giáo của
27 nước và một số thực thể, tổ chức trên thế giới mà USCIRF đánh giá là có
những vi phạm “nghiêm trọng” hoặc “đặc biệt nghiêm trọng” để đề xuất Bộ Ngoại
giao Mỹ đưa vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt” hoặc “danh sách cần
theo dõi đặc biệt” về tự do tôn giáo, từ đó nhằm áp đặt chế tài với các quốc
gia này trong hỗ trợ tài chính và hợp tác trên một số lĩnh vực.
Trong nội dung báo cáo về
Việt Nam, USCIRF đưa ra nhận xét với giọng điệu đầy kẻ cả rằng điều kiện tự do
tôn giáo của Việt Nam trong năm 2021 không có gì khác biệt so với năm 2020. Và,
thông qua việc đả kích tình hình bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam, USCIRF thậm chí còn đòi sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt
Nam.
Phải khẳng định rằng, không
chỉ riêng báo cáo năm 2021 mà các báo cáo thường niên của USCIRF đưa ra trong
những năm gần đây đều được đánh giá là chưa chính xác, thiếu thiện chí, thiếu
khách quan về tình hình tự do tôn giáo ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Thậm
chí, ngay cả trong chính giới Mỹ và các tổ chức nhân quyền ở Mỹ cũng xuất hiện
những ý kiến cho rằng, cách tiếp cận của USCIRF nặng về chỉ trích, không giúp
cải thiện tự do tôn giáo trên toàn cầu đúng với mục đích mà Quốc hội và Chính
phủ Mỹ đặt ra.
Trên thực tế, Việt Nam là
quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có cả tôn giáo nội
sinh và tôn giáo ngoại nhập và từng được ví như một “bảo tàng” về tín ngưỡng,
tôn giáo của thế giới. Theo thống kê cập nhật từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện
nay ở Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và hơn 26,5 triệu
tín đồ, chức sắc của các tôn giáo. Tính đến hết năm 2021 đã có 16 tôn giáo được
Nhà nước Việt Nam công nhận, trong đó có Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao
đài, Phật giáo Hòa hảo...
Chính sách nhất quán của
Đảng, Nhà nước Việt Nam là bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng
của người dân, bảo đảm công bằng, không phân biệt đối xử với các tôn giáo. Việt
Nam cũng là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có đạo luật về tôn giáo,
cụ thể là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy
định rất rõ các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Đồng thời, Nhà nước Việt
Nam tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn
giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước và
cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nhà nước cũng bảo hộ các cơ
sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và tài sản hợp pháp của các cơ sở tín ngưỡng,
tổ chức tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo, ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo
hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; các hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, xâm phạm đời sống xã hội cũng
như thân thể, tính mạng, sức khỏe của nhân dân... Và việc xử lý đối với các
hoạt động vi phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo cũng dựa trên những quy định
này.
Quyền tự do tôn giáo là vấn
đề có tính lịch sử, nghĩa là phụ thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể ở từng
quốc gia, gắn với từng thể chế chính trị-xã hội và điều kiện kinh tế - văn hóa
- xã hội cụ thể nhất định. Nói cách khác, không thể tồn tại một khái niệm về
quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng mà không gắn với một bối cảnh và
thực thể nhất định.
Vì lẽ đó, không thể đem giá
trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng hay đo lường,
đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Đặc biệt, trên phương
diện quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, thể chế chính trị bình đẳng, độc lập
thì càng không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt
lên một quốc gia khác và buộc quốc gia đó phải tuân theo.
Đây cũng là những điều mà
USCIRF hay bất cứ cá nhân, tổ chức nào đang muốn đưa ra những đòi hỏi quá trớn
đối với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cần phải học
thuộc!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét