(TG) - Mọi luận điệu xuyên tạc
nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; những “lý luận” rêu
rao rằng Việt Nam muốn “vươn mình trong kỷ nguyên mới” thì cần phải thực hiện
dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập... đều cần phải được nhận diện đúng để kịp
thời đấu tranh, bác bỏ.
Gần đây các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động
lợi dụng phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc
hội khóa XV, ngày 21/10/2024: “Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế,
hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn” để xuyên tạc và
“định hướng dư luận” là đã đến lúc phải xóa bỏ “điểm nghẽn” của điểm nghẽn đó.
Chúng ta không lạ gì chủ ý của những giọng
điệu chống phá không ngoài nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, “kêu gọi”
thực hiện dân chủ đa nguyên... Vì thế, chúng ta cũng cần khẳng lại một sự thật
chắc chắn rằng, “điểm nghẽn của điểm nghẽn” ở Việt Nam không phải là Đảng Cộng
sản, bởi “mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản” đã được ghi rõ
trong Điều lệ Đảng.
KIÊN ĐỊNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Gần 95 năm về trước, ngay từ khi mới ra đời,
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Đảng ta đã khẳng định rõ nhiệm vụ
giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Theo đó cách mạng Việt
Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền (giành độc lập dân
tộc; mang lại ruộng đất cho dân cày) và cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) (xây
dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản). Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - Ý Đảng và
khát vọng của lòng Dân gặp nhau đã bồi tụ nên nguồn sức mạnh vô song của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần làm nên thắng lợi
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(2/9/1945).
Thực tế cho thấy, dù phải trải qua các cuộc
chiến tranh nhân dân để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, song một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, ngày càng giàu mạnh, phồn
vinh, hạnh phúc đã và đang hiển hiện trên thực tế. Một Việt Nam kiên định độc
lập dân tộc và CNXH “đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ
kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất
và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay”(1) là minh chứng sinh động cho thấy rằng: 1) Lý tưởng
cộng sản, con đường cách mạng vô sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam và nhân dân Việt Nam lựa chọn và được triển khai ở Việt Nam dưới ánh
sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, phù hợp điều kiện
cụ thể của Việt Nam; phù hợp xu thế phát triển tất yếu của nhân loại. 2) CNXH
không “mất đi”, không bị “xóa bỏ”, dù mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu sụp đổ mà vẫn hiện diện trong đời sống đương đại. 3) Bài học
kinh nghiệm về những sai lầm trong đường lối cải tổ (xóa bỏ nguyên tắc tập
trung dân chủ; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; phi chính trị hóa lực
lượng vũ trang; sự thoái hóa, biến chất trong nội bộ; sai lầm trong công tác
cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp chiến lược…) của Liên Xô đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam rút kinh nghiệm để tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới từ Đại
hội VI (12/1986)...
Thực tế là, từ năm 1930 đến nay, ngoài Đảng
Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc thì không có đảng phái, tổ
chức chính trị của các nhân sĩ, trí thức yêu nước hay của giai cấp tư sản dân
tộc nào đủ năng lực, uy tín chính trị để lãnh đạo thành công sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vị thế, vai
trò lãnh đạo của Đảng không chỉ được ghi rõ trong các văn
kiện, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, chuyên đề của Đảng; không
chỉ được khẳng định trong các công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết
về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn được các tầng lớp nhân dân
tin tưởng và các chính đảng khác (Việt Nam Cách mạng
Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội…) ghi
nhận. Vì thế, những luận điệu bẻ cong sự thật, rằng: “Đảng độc tài tự phong
mình là lực lượng lãnh đạo” và “tự quyết định” xây dựng CNXH mà không hỏi “xem
người dân Việt Nam có muốn hay không” là xuyên tạc và phản động.
Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà
nước và xã hội không phải bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng Cương lĩnh, quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; bằng công tác cán bộ và hoạt động của các
tổ chức Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng tinh thần “các tổ chức
Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật” như Hiến pháp năm 2013 quy định. Cho nên, cũng không có cái gọi là
Đảng “tự đặt mình lên trên Hiến pháp” như các thế lực thù địch xuyên tạc để
chống phá Đảng và chế độ.
Hơn nữa, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có
Hiến pháp và một hệ thống pháp luật được xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, ngày
càng hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục,
xã hội… để không chỉ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý đời sống xã hội hướng đến mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn bảo đảm, bảo vệ, thực
thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân và chủ động hội nhập quốc tế khi
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai
đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022.
Thực tế là, kiên định con đường đi lên CNXH,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam thực sự là người chủ và đã, đang,
tiếp tục làm chủ vận mệnh của mình, của dân tộc mình trên hành trình hướng đến
tương lai. Nền dân chủ XHCN mà Việt Nam xây dựng và thực hiện là yêu cầu nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là mục tiêu, là động lực cho sự phát triển của
đất nước, không chỉ thể hiện sinh động tư tưởng Hồ Chí Minh: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN
CHỦ./ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân./ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra./
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2), mà
còn tạo điều kiện để bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của người dân trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cần khẳng định rằng, một Việt Nam bứt phá, phát
triển với diện mạo mới, tầm vóc và vị thế mới đã khác xa những ngày Đảng chưa
ra đời; khác nhiều hơn so với trước khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
và đã “thay da đổi thịt” từ khi cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH sau thắng
lợi của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Do đó, dù các phần tử
bất mãn, cơ hội, phản động có “lập luận” và “lập lờ đánh lận con đen” dưới bất
cứ hình thức cũng đều là sự xuyên tạc, cố tình bẻ cong sự thật hòng phủ nhận và
đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
VƯƠN MÌNH TRONG KỶ NGUYÊN
MỚI ĐỂ GIỮ VỮNG MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đảng ta vừa khẳng định đi lên CNXH là xu thế
không thể đảo ngược (mặc dù tình hình khu vực, thế giới có nhiều thay đổi, diễn
biến hết sức phức tạp) và cơ chế hoạt động chính trị luôn được củng cố, giữ
vững là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”, vừa tiến hành
đổi mới tư duy trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật từ Đại
hội VI (12/1986). Việc đổi mới mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý của nhà
nước; cơ chế nhân dân làm chủ không chỉ giữ vững sự ổn định về chính trị, mà
còn góp phần để đất nước đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội và tiếp
tục tiến những bước hết sức ngoạn mục.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với việc đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
Việt Nam đã chuyển sang cơ chế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng. Với việc lựa chọn con đường phát triển đúng trọng tâm, phù
hợp quy luật, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế
nhỏ bé, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một
nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ
22 toàn cầu…
Sau gần 40 năm tiến hành đổi mới, sự thay đổi
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã mang đến cho Việt Nam cơ đồ, tiềm lực,
vị thế, uy tín mới trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Chính những thành tựu vĩ
đại dưới sự lãnh đạo của Đảng đã “giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát
triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo (...). Độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy
mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40
nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại
và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên
Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác
chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực...” như
Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao đổi với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến
thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIV, ngày
31/10/2024.
Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, Việt Nam đang
đứng trước một ngã rẽ quan trọng trong lịch sử phát triển quốc gia, nhưng chắc
chắn “mô hình chính trị hiện tại”- một Đảng Cộng sản lãnh đạo - không hề làm
“cản trở sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế” của
Việt Nam. Mà trái lại, việc kiên định con đường đi lên CNXH dưới sự lãnh đạo
của Đảng; kiên định thể chế chính trị nhất nguyên chứ không thực hiện dân chủ
đa nguyên; kiên định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng… đã mang đến cho Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình và phát
triển ổn định gần nửa thế kỷ qua. Đó chính là sự thật, chứ không phải mô hình
một Đảng Cộng sản lãnh đạo và việc lựa chọn xây dựng CNXH dưới ánh sáng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “giới hạn tiềm năng phát triển quốc
gia và làm suy yếu vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế” như các thế lực
chống phá vẫn thường rêu rao bịa đặt.
Sự thật là, việc “tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(3) và
“bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”(4) của
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã không chỉ mang lại sự tăng cường hợp tác
chiến lược và sự tin tưởng lẫn nhau, mà còn gia tăng hiệu quả trong hợp tác
quốc phòng và an ninh và tăng cường hợp tác kinh tế và hội nhập toàn cầu…
Những sự thật khách quan nêu trên đã chứng
minh con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã đạt
được là không thể phủ nhận. Những sự thật đó là bằng chứng phủ nhận hoàn toàn
những giọng điệu “ngụy phản biện”, rằng: Việt Nam muốn vươn mình trong kỷ
nguyên mới thì phải từ bỏ “chế độ chính trị độc đảng lãnh đạo” và lựa chọn chế
độ “dân chủ đa nguyên”(!).
Đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát
triển, vì thế Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới để hướng đến tương lai tươi sáng,
nhưng chắc chắn không “đổi màu”. Việc kiên định độc lập dân tộc và CNXH chính
là để làm cho quá trình thực hiện đổi mới tiến bộ được thực hiện hiệu quả; để
CNXH phát huy được bản chất ưu việt, tránh sự giáo điều, trì trệ, xơ cứng trong
tư duy và tư tưởng; để làm sinh động những giá trị bền vững của một Việt Nam
hòa bình, độc lập, tự do, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH.
Việc “đổi mới thể chế chính trị”, thực hiện
dân chủ đa nguyên, tổ chức xã hội dân sự không phải là “lối đi duy nhất”; càng
không phải là Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn “cần phải” thực hiện
“chuyển đổi thể chế và trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, phù hợp với các
giá trị phương Tây” như các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động cổ súy. Cho nên,
một điều chắc chắn là, Việt Nam sẽ vươn mình trong kỷ nguyên mới nhưng không
thay đổi chế độ chính trị; không từ bỏ con đường và mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH - sợi chỉ đỏ, xuyên suốt, nhất quán của con đường cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng; không khi nào từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định,
Việt Nam tiếp tục đổi mới trong bối cảnh thế giới đang nhiều thay đổi có tính
thời đại và đất nước cũng đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng một nước Việt Nam XHCN phồn vinh,
hạnh phúc, song đó không phải là “con đường toàn trị”, “tiếp tục chính sách đàn
áp các tiếng nói bất đồng” như các thế lực thù địch bôi đen. Mà đó là nhân
nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và đảm bảo, bảo vệ, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền
công dân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam... chứ không chấp nhận dân chủ đa
nguyên, đa đảng đối lập, tổ chức xã hội dân sự và càng không đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét