Qua nghiên cứu có thể thấy được nguồn gốc, bản chất, những biểu hiện cụ thể và những hạn chế, bất lực của thuyết “vũ khí luận” được thể hiện trên những phương diện cụ thể sau:
Thứ nhất, trong chiến tranh, con người và vũ khí có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó con người là yếu tố quyết định. Bởi theo
quan điểm của triết học mác-xít, con người sáng tạo ra công cụ và sử dụng công
cụ ấy để sáng tạo ra đời sống xã hội. Con người vừa là chủ thể tạo ra vũ khí,
vừa điều khiển, định hướng, kiểm soát mọi quá trình sử dụng vũ khí. Vũ khí,
phương tiện hiện đại đến đâu cũng có điểm yếu, cũng cần phải có con người sáng
tạo và điều khiển nó. Vũ khí chỉ là một phần tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến
đấu, phải được kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn, linh hoạt và sáng tạo của các yếu
tố cơ bản, đó là: Con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật quân sự... Trong đó,
con người là yếu tố chủ thể, có vai trò quyết định đến kết quả trận đánh.
Lênin đã viết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi
đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng
tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời
mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của
binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm “người trước, súng sau” nhằm khẳng định vai
trò quyết định của con người trong chiến tranh. Bác Hồ viết: “Không quân đội
nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một
dân tộc”. Bởi lẽ, con người trong hoạt động quân sự là lực lượng toàn dân,
trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Bác nhấn mạnh: “Không thể cậy vũ khí
mà có thể quyết định được thắng lợi. Phải xem những người cầm vũ khí có phải là
những chiến sĩ hăng hái đánh trận không”.
Bên cạnh đó, tính chất khó khăn, phức tạp, quyết liệt, nguy hiểm
vốn có của môi trường quân sự như điều kiện địa hình, thời tiết, sự tấn công
của đối phương làm tăng sự cản trở việc sử dụng vũ khí trong chiến tranh, cho
nên con người quyết định hiệu quả thực tế của vũ khí. Như vậy, hiệu quả thực tế
của vũ khí trong chiến tranh không chỉ phụ thuộc vào tính năng, kỹ, chiến thuật
của vũ khí mà yếu tố quyết định vẫn là con người bằng trí tuệ, ý chí khắc phục
khó khăn trong tác chiến, động cơ, mục đích sử dụng vũ khí. Ngược lại, vũ khí
cũng có vai trò quan trọng, là phương tiện để vô hiệu hóa đối phương nhanh và
hiệu quả trên chiến trường. Tuy nhiên, con người điều khiển vũ khí cần phải có
mục tiêu, lý tưởng và bản lĩnh chính trị vững vàng, chắc chắn.
Thứ hai, kinh nghiệm thực tiễn từ hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên
không” cuối năm 1972 của quân và dân ta đã để lại những bài học vô cùng quý báu
về phát huy sức mạnh con người Việt Nam trong sử dụng vũ khí thô sơ, kém hiện
đại để đánh thắng vũ khí hiện đại của địch. Đối mặt với kẻ thù được trang bị vũ
khí tối tân, hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ (trừ vũ khí hạt nhân) nhưng chúng ta
vẫn giành chiến thắng. Đây chính là biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh và là nét độc đáo của chiến tranh nhân
dân Việt Nam, huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh chính trị, tinh thần của
quân và dân ta trong kháng chiến cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập”, “Cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc”, “Quyết tử để Tổ quốc
quyết sinh”. Để đánh bại vũ khí hiện đại cùng những thủ đoạn xảo quyệt và tàn
bạo của địch, quân và dân ta không những dũng cảm, kiên cường mà còn thông
minh, sáng tạo, từng bước chế tạo và cải tiến vũ khí, phù hợp với con người,
điều kiện và môi trường tác chiến ở Việt Nam. Đúng như lời Bác Hồ từng khẳng
định: “Tuy khí giới ta còn kém, kinh nghiệm ta còn ít, nhưng lòng kiên quyết,
chí hy sinh của tướng sĩ ta đã lập những chiến công oanh liệt, vẻ vang, có thể
nói là kinh trời động đất”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét