Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

TÀI NĂNG VÀ NHÂN CÁCH LỚN CỦA NHÀ CHÍ SĨ YÊU NƯỚC NGUYỄN VĂN TỐ

 Tấm gương nhà trí thức yêu nước Nguyễn Văn Tố sẽ luôn là biểu trưng cao đẹp của trí thức Việt Nam nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung.

HỌC GIẢ NGUYỄN VĂN TỐ VỚI NGHIÊN CỨU VÀ TÔN VINH VĂN HÓA DÂN TỘC
Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (5/6/1889) thuộc thế hệ những trí thức của buổi giao thời khi nền học vấn Hán Nôm dần hết vai trò và chuyển sang nền văn hóa khoa học chữ Pháp - Quốc ngữ. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học ở Hà Nội, từ nhỏ đã được đào tạo về Hán Nôm, có một vốn kiến thức phong phú về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Lớn lên, ông học tiếng Pháp, tốt nghiệp trường Thông ngôn và sau đó làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ. Có thể nói, Nguyễn Văn Tố vừa là một trí thức Nho học, vừa là một trí thức Tây học và được xếp vào hàng “tứ kiệt” thời kỳ đó(1).
Tốt nghiệp trường Thông ngôn, tương đương với bậc trung học, Nguyễn Văn Tố được bổ về nhân viên Học viện Viễn Đông Bác cổ. Làm việc trong một trung tâm khoa học nhân văn, nơi tập trung các nhân vật danh giá bậc nhất mà số đông là người Pháp, Nguyễn Văn Tố thể hiện xuất sắc bản lĩnh, trí tuệ và cốt cách của một trí thức Việt. Là một nhân viên mới đỗ trung học bản xứ, nhưng ông đã đảm trách một nhiệm vụ quan trọng là Thư ký Tạp chí của Đông Phương Bác Cổ Học viện và từ nhân viên tạm tuyển, trở thành Chủ sự Học viện Viễn Đông Bác cổ. Vì thế, ngay cả với Nguyễn Thiệu Lâu (giáo sư trường Khải Định - Huế có 5 bằng cử nhân về khoa học xã hội), khi nhờ Nguyễn Văn Tố xem bản thảo, ông đã phát hiện ra các loại lỗi khác nhau khiến ông Lâu cũng phải tâm phục, khẩu phục. Là một trí thức thuộc địa, ở một vị thế thấp hơn rất nhiều so với người cộng sự phương Tây, nhưng đối với nhiều học giả người Tây, ngay cả với Giám đốc Học viện, ông thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của họ.
Làm việc trong Viện Hàn lâm của Chính phủ Pháp, nhưng Nguyễn Văn Tố luôn giữ thói quen là mặc bộ đồ cổ truyền: khăn xếp, áo the thâm, ô lục soạn. Nghiên cứu văn hóa phương Tây, đồng thời, ông rất say mê nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đã viết, dịch, biên tập và hiệu đính nhiều tài liệu có giá trị về văn hóa, lịch sử. Ngoài thời gian làm việc ở công sở, ông thường viết bài in trên báo chí tiếng Việt như: Tri Tân, Đông Thanh, Thanh Nghị… và các báo tiếng Pháp về nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, khảo cổ, nghệ thuật... Ông là một trong những thành viên Hội Trí Tri và năm 1934, được bầu làm Hội trưởng thay cho Phạm Quỳnh được Bảo Đại mời vào kinh đô Huế làm Thượng thư Bộ học. Trên Tập san của Hội Trí Tri, đặc biệt trong khoảng từ 1932 đến 1936, ông đã viết nhiều bài nghiên cứu quan trọng bằng tiếng Pháp về lịch sử, khảo cổ, văn học, như “Tiền sử Bắc Kỳ”, “Nguồn gốc về chữ Quốc ngữ”, “Sử học và khảo cổ học Việt Nam”, “Bắc Kỳ vào thế kỉ XVII”… Ông đã soạn thảo được hai bộ sử học lớn là “Đại Nam dật sử” và “Sử ta so với sử Tàu”. Hai bộ sử trên đã được ông nghiên cứu khoa học, công phu, đối chiếu nhiều nguồn thư tịch; tranh luận kịch liệt với các nhà sử học Pháp, Đông Dương, để làm sáng tỏ các vấn đề với đầy đủ minh chứng một cách khoa học, cụ thể.
Trong bối cảnh thực dân Pháp đang tích cực thi hành chính sách nô dịch và áp bức về văn hóa, trong xu hướng tâm lý nhiều nhà học giả bấy giờ đề cao văn hóa phương Tây, coi thường giá trị văn hóa dân tộc; việc một học giả An Nam vẫn miệt mài nghiên cứu và tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc cũng chính là sự biểu hiện tấm lòng yêu nước nồng nàn, của tinh thần đấu tranh chống nô dịch, áp bức về văn hóa. Những hoạt động ấy đã góp phần thức tỉnh, khích lệ lòng yêu nước và dấy lên yêu cầu chấn hưng văn hóa dân tộc.
TÍCH CỰC THAM GIA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
Trong thời kỳ Mặt trận bình dân (1936-1939), Đảng chủ trương tranh thủ điều kiện đấu tranh hòa bình, hợp pháp, đưa một bộ phận ra hoạt động công khai, đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ cơ bản. Thời kỳ này, nhiều sách báo bằng chữ Quốc ngữ được xuất bản, nhưng do đa số nhân dân còn mù chữ, nên việc tuyên truyền giác ngộ còn hạn chế. Vì thế, cần phải chống nạn mù chữ vừa để nâng cao dân trí, động viên, giác ngộ quần chúng làm cách mạng, vừa để vận động, tập hợp các lực lượng nhân sĩ, trí thức, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân.
Nghị quyết của Trung ương Đảng tháng 9/1937 và tháng 3/1938 đều nhấn mạnh đến nhiệm vụ chống nạn thất học bằng việc mở các lớp dạy chữ, các hội đọc sách báo, hội văn hóa… và kết hợp việc chống nạn thất học với việc tuyên truyền cách mạng. Các tờ báo công khai của Đảng như Tin tức, Thế giới mới, Tiếng vang, Tân xã hội… có nhiều bài viết chống nạn thất học. Trong cuộc đấu tranh của quần chúng, khẩu hiệu chống nạn thất học đã gây được sự chú ý.
Theo chỉ đạo của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định vận động thành lập một tổ chức công khai chống nạn mù chữ. Với tấm lòng nhiệt thành yêu nước, khi được một số đảng viên hoạt động công khai hồi đó như Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp... gợi ý, Nguyễn Văn Tố đã đồng ý và tích cực tham gia phong trào này. Giữa năm 1938, một số đảng viên cộng sản hoạt động ở Hà Nội đã cùng với một số nhân sĩ trí thức họp bàn để tiến hành một tổ chức công khai chống nạn thất học. Hội nghị cử học giả Nguyễn Văn Tố, đứng ra đảm nhận việc làm thủ tục, thành lập và làm Hội trưởng. Theo các nhà trí thức thời kỳ đó, trong số các học giả nổi tiếng thời kỳ này, học giả Nguyễn Văn Tố được chọn không chỉ vì ông là một học giả uyên thâm, có uy tín với các tầng lớp nhân dân và đối với cả thực dân Pháp, mà còn bởi ông có bản lĩnh khẳng khái, trung thành, giữ vững lập trường chính nghĩa, không sợ đế quốc đe dọa và lợi dụng.
Sau khi nhận trách nhiệm do Ban vận động giao phó, Nguyễn Văn Tố cùng các thành viên khác đã xác định rõ mục đích, tôn chỉ, tính chất và chương trình hành động của Hội. Trong quá trình vận động thành lập Hội, nhiều cuộc diễn thuyết, cổ động đã được tổ chức cùng với các hình thức viết bài đăng báo, diễu hành. Cuộc diễn thuyết cổ động lớn nhất cho Hội được tổ chức trọng thể tại Hội quán thể thao An Nam ở phố Charles Coulier (nay là phố Khúc Hạo - Hà Nội) vào tối ngày 25/5/1938, đã thu hút sự tham dự của hàng nghìn người thuộc các thành phần xã hội khác nhau gồm trí thức, thanh niên, học sinh, công chức. Học giả Nguyễn Văn Tố đã chỉ rõ tình trạng thất học của đồng bào ta lúc ấy là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển của đất nước, giới thiệu về lịch sử chữ Quốc ngữ ở nước ta và mục đích, tôn chỉ của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Cuộc diễn thuyết gây được tiếng vang lớn trong cả nước và giành được sự ủng hộ trong các giới đồng bào. Chính vì vậy, ngày 25/5, được những người hoạt động trong phong trào truyền bá Quốc ngữ lấy làm ngày chính thức đánh dấu sự ra đời của Hội. Ngoài việc mở lớp học, Hội còn xuất bản sách, lập thư viện bình dân để phổ biến những kiến thức thường thức về lịch sử, địa lý, vệ sinh, khoa học… cho nhân dân.
Trước sức ép của dư luận và hoạt động khôn khéo của Ban Trị sự lâm thời do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng, ngày 29/7/1938, nhà cầm quyền Pháp ký giấy chính thức công nhận sự hoạt động hợp pháp của Hội.
Dưới chỉ đạo của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố, qua bảy năm hoạt động, Hội Truyền bá Quốc ngữ đã thiết lập mạng lưới rộng khắp cả nước, đã xóa mù chữ cho hàng vạn người, góp phần nâng cao dân trí, khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân. Phong trào Truyền bá Quốc ngữ đã thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp xã hội mà hạt nhân là tầng lớp tiểu tư sản trí thức. Qua phong trào, nhiều người biết đến và tìm đến với cách mạng, trở thành cán bộ trung kiên của Đảng. Các hoạt động của Hội đã tác động mạnh mẽ đến phong trào quần chúng trong cuộc đấu tranh đòi các quyền lợi về dân sinh và dân chủ theo chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nghị quyết của Xứ ủy Bắc Kỳ tháng 8-1939 đánh giá về hoạt động của Hội như sau: Thật là một công cụ phát triển văn hóa quan trọng nếu thực hành đúng như bản điều lệ dự định của Hội. Đảng ta gắn sức lãnh đạo quần chúng và đòi hỏi chính phủ (thực dân) phải giúp sức thực hiện (….) nên dựa vào Điều lệ của Hội đã được chuẩn y mà hoạt động.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp tiến hành khủng bố gay gắt phong trào yêu nước, nhưng cơ sở của Hội vẫn tiếp tục phát triển trên cả ba miền của đất nước. Ở Bắc Kỳ, các chi hội phát triển ở các địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Thái Nguyên… Ở Trung Kỳ, các cơ sở Hội phát triển mạnh ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế… Ở Nam Kỳ, Hội phát triển ở Cần Thơ, Bến Tre, Biên Hòa, Rạch Giá…
Có thể nói, Hội Truyền bá Quốc ngữ tồn tại một cách công khai và phát triển trước sự đàn áp của thực dân Pháp, một phần quan trọng bởi tài năng, uy tín và tài ứng xử thông minh, khôn khéo của người Hội trưởng. Với uy tín của mình, Nguyễn Văn Tố tập hợp những người có tâm huyết, tài năng, đề xuất nhiều ý kiến xác đáng để duy trì và phát triển các hoạt động của Hội. Đối với thực dân Pháp, Nguyễn Văn Tố hiểu rõ chúng chấp nhận Hội Truyền bá Quốc ngữ chẳng qua do tình hình chính trị bấy giờ, nhưng vẫn luôn tìm cách xóa bỏ, kìm hãm hoặc lợi dụng.
Vũ Đình Hòe - người cộng sự đắc lực của Nguyễn Văn Tố trong Hội kể lại: Cụ có lối nói bình dân, thái độ khiêm nhường, chân tình, dễ thương. Đi thanh tra lớp học, cụ thường lân la vào các nhà đồng bào nghèo, giục theo lớp, tiện thể hỏi han về đời sống, công việc làm ăn, được bà con quý mến lắm… Mặt khác, cụ lại khéo ngoại giao với các cụ lớn Tây, ta, sách lược khi cương, khi nhu, có tiến, có lùi, nhờ vậy, Hội nhiều phen vượt thác ghềnh suôn sẻ. Có lần, chính quyền thực dân, ngỏ ý muốn trợ cấp cho Hội, nhưng Nguyễn Văn Tố đã khước từ khéo: Từ trước tới nay, chúng tôi vẫn nói với đồng bào chúng tôi là vì Nhà nước bảo hộ đã phải chịu gánh nặng về giáo dục mà không xuể, dân cần góp của, góp công vào Hội để Hội mở thêm lớp dạy cho người mù chữ. Nếu bây giờ chúng tôi nhận trợ cấp thì đồng bào chúng tôi không giúp đỡ nữa, ỷ lại, cho rằng, đã có Nhà nước. Đồng thời, những người giúp việc cho Hội, trước hết là các giáo viên sẽ nghĩ rằng Hội được công quỹ đảm bảo chi tiêu thì phải trả lương cho họ. Chừng ấy trợ cấp bao nhiêu thì cũng không đủ. Hai điều đó sẽ làm cho Hội tê liệt. Nhờ sự khôn khéo, sắc sảo ấy, Nguyễn Văn Tố đã làm thất bại âm mưu mua chuộc và lợi dụng của chúng; đồng thời, không tạo cho Pháp cớ cần thiết để có thể đàn áp hoạt động và ngăn cản của Hội.
ĐẢM NHẬN TRỌNG TRÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN MỚI
Cách mạng Tháng Tám thành công, nể trọng tài năng và cảm phục tấm lòng yêu nước của Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội với công việc cấp bách là chống giặc đói và giặc dốt - cùng với chống giặc ngoại xâm là ba nhiệm vụ trung tâm và hàng đầu của chính quyền cách mạng bấy giờ.
Để giải quyết nạn dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh lập ngành Bình dân học vụ. Góp phần công việc trọng đại này, Nguyễn Văn Tố đã chủ động bàn với Ban trị sự về việc chuyển tổ chức cùng toàn bộ tài sản vật chất và những kinh nghiệm của Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ sang ngành Bình dân học vụ. Có điều kiện thuận lợi ấy, Bộ Giáo dục đã mở Hội nghị toàn quốc Bình dân học vụ, phát động và phát triển phong trào bình dân học vụ. Nhờ vậy, hơn hai triệu người đã được xóa nạn mù chữ trong một thời gian ngắn.
Thời gian đầu sau khi giành chính quyền, trong bối cảnh đất nước cực kỳ khó khăn, thù trong giặc ngoài, công việc chính quyền mới rất nặng nề, khẩn trương, nhưng chưa bao giờ có thể làm nhụt ý chí và tấm lòng nhiệt thành yêu nước của nhà trí thức Nguyễn Văn Tố. Nguyễn Thiệu Lâu nhớ lại, khi đến gặp Nguyễn Văn Tố, có phàn nàn “công việc đã nhiều lại khó, nhân viên đã ít lại kém”, Nguyễn Văn Tố trả lời: Chưa làm được gì đã nản rồi. Công việc không có ta phải bới ra mà làm và dù có khó đến đâu ta cũng phải có một giải quyết mà tự ta định đoạt… Chúng ta trước nay chỉ là những anh mọt sách, bây giờ có công việc cho quốc gia dù công việc nhiều khó như thế nào cũng phải cố mà làm.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (tháng 1/1946), bầu Quốc hội khoá I, Nguyễn Văn Tố đã trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu của Nam Định. Tiếp đó, tại Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội (2/3/1946), với tài năng, uy tín, đức độ của mình, ông đã được Quốc hội bầu là Trưởng Ban Thường trực đầu tiên của Quốc hội - chức danh tương đương như Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên cương vị là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Nguyễn Văn Tố đã cùng các thành viên trong Ban nhanh chóng bắt tay vào củng cố nhà nước, xây dựng nền dân chủ, thống nhất dân tộc, sẵn sàng kháng chiến trong toàn quốc. Để có một Chính phủ hợp pháp và có hiệu lực mạnh mẽ, Quốc hội đã công nhận và trao quyền bính cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Bên cạnh đó, trong tình thế cấp bách, thù trong giặc ngoài để vừa giải nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại quan trọng một cách khẩn trương, nhanh chóng vừa đảm bảo vai trò Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, nên trong nhiều phiên họp thường kỳ hoặc đặc biệt của Hội đồng Chính phủ có sự tham dự và góp ý của Nguyễn Văn Tố với tư cách Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Cùng với Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ, Cụ Nguyễn Văn Tố đã bàn bạc, đi đến thống nhất quyết định một số chủ trương đối nội và đối ngoại như thực hiện đoàn kết dân tộc, xây dựng mặt trận quốc gia liên hiệp và thống nhất để chống xâm lăng, giữ vững chính quyền, kiến thiết đất nước và thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện với các nước trên thế giới; nhất trí quyết định sẽ ký Hiệp định sơ bộ với Pháp theo các điều kiện đã được thỏa thuận; xúc tiến thêm các hoạt động thúc đẩy mối quan hệ với Trung Hoa và Pháp.
Sau hơn 8 tháng kể từ kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, để tiếp tục phát triển thành quả của cách mạng và đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, theo yêu cầu của Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội đã triệu tập Quốc hội họp kỳ thứ hai tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 28-10 đến 9/11/1946. Nguyễn Văn Tố, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đọc diễn văn khai mạc khẳng định những kết quả đạt được của Chính phủ và Quốc hội trong 8 tháng đã qua; trả lời các câu hỏi của các đại biểu. Tại cuộc họp này, Quốc hội đã thảo luận và thông qua nhiều Nghị quyết về nội trị, ngoại giao, biểu quyết tán thành danh sách Chính phủ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ra trình diện trước Quốc hội, thảo luận và thông qua dự án Luật lao động. Đặc biệt, ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một bản Hiến pháp dân chủ, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ đất nước của toàn dân, xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa. Cùng ngày, Quốc hội đã bầu Ban thường trực tại kỳ họp thứ hai gồm 18 vị do cụ Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng Ban.
Hoàn thành xuất sắc trọng trách là Trưởng Ban Thường vụ Quốc hội, khi kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Văn Tố lên chiến khu với tư cách là một Bộ trưởng không Bộ. Bằng nhiều hoạt động cụ thể, Nguyễn Văn Tố góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” của Đảng và Nhà nước. Những ngày sơ tán, sống với đồng bào Việt Bắc, ông đã sống chan hòa, gắn bó và thật sự hòa mình với quần chúng, với phong trào cách mạng.
Ngày 7/10/1946, giặc Pháp tiến hành một trận tập kích bằng quân dù đổ bộ xuống Bắc Kạn hòng bắt sống, hoặc tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ý đồ của Pháp thất bại, các nhà lãnh đạo chủ chốt của cuộc kháng chiến đã rút lui an toàn. Riêng Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố sa vào tay giặc. Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thuật lại rằng: quân Pháp đã bắt được một cụ già trông chững chạc, khảng khái trực tiếp bằng tiếng Pháp yêu cầu Chính phủ Pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược. Khi biết rõ cụ Nguyễn Văn Tố là một nhân sỹ nổi tiếng, quân Pháp đã dùng mọi cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng không lay chuyển được Cụ. Chúng đã tra tấn Cụ vô cùng tàn bạo, thậm chí đóng cả đinh vào người, để buộc Cụ kêu gọi những chiến sỹ Việt Minh ra hàng..., nhưng không lay chuyển ý chí của Cụ. Bất lực, quân địch đã thủ tiêu Cụ ở một cửa hang đá tại một vùng thuộc Bạch Thông, Bắc Cạn. Cụ Tố hy sinh là một tổn thất cho cách mạng Việt Nam.
“Ngàn thu sẽ vẻ vang, bất diệt” là lời đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong lời điếu nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Văn Tố. Tấm gương nhà trí thức yêu nước Nguyễn Văn Tố sẽ luôn là biểu trưng cao đẹp của trí thức Việt Nam nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung./.
St

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

 Ngày 24 tháng 6

“Một Lênin của Đông Dương”.
Cách đây 102 năm, ngày 24-6-1922, tờ “L’ Humanité” (Nhân Đạo) đăng bài “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc” của Nguyễn Ái Quốc. Đây là một truyện ngắn hư cấu giấc mơ của Vua Khải Định (lúc này đang “xa giá” đến Pháp) và mượn lời của vị nữ anh hùng dân tộc chống ngoại xâm, tác giả lên án nặng nề chế độ phong kiến Nam triều và chính vua Khải Định đã để mất nước, ươn hèn cam tâm làm tay sai cho ngoại bang.
Liên quan đến “Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công”, Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Pháp trong thư đề ngày 24-6-1931 gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đã đánh giá: “Thực ra từ hơn 10 năm nay, Nguyễn Ái Quốc là một chiến sĩ vô địch vì sự nghiệp độc lập của Đông Duơng. Lúc đầu là một người dân tộc chủ nghĩa, ông ta sớm đi theo chủ nghĩa cộng sản, và từ nhiều năm nay những người cách mạng bản xứ xem ông ta như một Lênin của Đông Dương…”.
Ngày 24-6-1942, leo lên vùng núi Lũng Dẻ thuộc khu núi đá Lam Sơn (Cao Bằng), Bác tức cảnh làm bài thơ “Thướng sơn” (Leo núi): “Lục nguyệt nhị thập tứ/ Thướng đáo thử sơn lai/ Cử đầu hồng nhật cận/ Đối ngạn nhất chi mai” (Tố Hữu dịch: Hai mươi tư tháng Sáu/ Lên ngọn núi này chơi/ Ngẩng đầu: mặt trời đỏ/ Bên suối một nhành mai).
Ngày 24-6-1946, tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp hơn 100 anh em đại biểu Nam bộ đến chào và bày tỏ tinh thần thống nhất quốc gia. Cùng ngày, Bác tiếp Bộ trưởng Hải ngoại M.Moutet và Đô đốc D’ Argenlieu cùng Ban Trị sự Hội Pháp-Việt hữu nghị mới thành lập... Trong số những Việt kiều đến chào Bác, có triết gia Trần Đức Thảo.
Ngày 24-6-1959, Bác đón tiếp Tổng thống Indonesia sang thăm Việt Nam. Trong diễn văn chào đón tại sân bay Gia Lâm (Hà Nội), Bác chân tình nói: “Được đón tiếp Tổng thống Sukarno, nhân dân Việt Nam có cảm tưởng vui sướng như được ôm ấp vào lòng mình 88 triệu anh em Indonesia anh dũng. Có mối tình thương yêu ấy, vì hai dân tộc ta cùng có một hoàn cảnh giống nhau, cùng có một lịch sử vẻ vang kháng chiến oanh liệt chống bọn thực dân cướp nước, giành độc lập tự do. Hai dân tộc chúng ta đều phải tiếp tục đấu tranh để giải phóng hoàn toàn đất nước và trong cuộc đấu tranh đó, hai dân tộc ta thông cảm lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau”.
Trong tháng 6-1960, nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ các cơ quan dân - chính - đảng Trung ương, Bác phân tích: “Công việc cách mạng cũng như các bộ phận trong một chiếc thuyền, bộ phận nào cũng quan trọng cả. Nếu các bộ phận ấy suy bì với nhau thì không được. Ví như chèo thì luôn luôn vùng vẫy. Lái thì ngâm mình dưới nước... Buồm thì thảnh thơi... Ta đang làm cách mạng, có bộ phận này làm việc này, có bộ phận khác làm việc khác, các công việc đều cần thiết, đều vẻ vang cả”./.
ST

QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM CẦN ĐỨNG TRÊN NGUYÊN TẮC LÁNG GIỀNG TỐT ĐẸP

 “Quan hệ Campuchia - Việt Nam cần đứng trên nguyên tắc láng giềng tốt đẹp” là nhan đề bài viết được báo chí Campuchia đăng tải nhân kỷ niệm 57 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.

Trong không khí hướng tới kỷ niệm 57 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Campuchia (24/6/1967 - 24/6/2024), những ngày vừa qua, truyền thông chính thống của Campuchia đồng loạt đăng tải đậm nét các bài viết của những học giả hàng đầu, trong đó phân tích và đề cao mối quan hệ truyền thống láng giềng tốt đẹp lâu đời Việt Nam - Campuchia.
Trong bài viết “Quan hệ Campuchia - Việt Nam cần đứng trên nguyên tắc láng giềng tốt đẹp”, Tiến sĩ Kin Phea, Viện trưởng Viện Quan hệ Quốc tế thuộc Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia (RAC) cho rằng, quá trình 57 năm qua cho thấy, mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng có chung đường biên giới dài hơn 1.270 km và chung dòng Mekong càng được ràng buộc chặt chẽ bởi những sợi dây gắn kết về lịch sử, địa lý và chính trị.
Theo Tiến sĩ Kin Phea, tình hình đối nội và đối ngoại của cả hai nước hiện nay càng đặt ra nhu cầu thúc đẩy quan hệ song phương Campuchia - Việt Nam phát triển toàn diện và thực chất hơn nữa, coi đây là mục tiêu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả hai dân tộc. Chính phủ Hoàng gia Campuchia nhiệm kỳ mới dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Hun Manet đã xác định tiếp tục duy trì chính sách đối ngoại láng giềng tốt đẹp với Việt Nam. Chính sách ngoại giao của Campuchia đối với Việt Nam là dựa trên nguyên tắc láng giềng tốt đẹp, xây dựng tình hữu nghị thân thiết truyền thống, tin cậy lẫn nhau, hợp tác đôi bên cùng có lợi và giải quyết mọi khác biệt thông qua đàm phán hòa bình. Quan hệ tốt đẹp giữa hai nước không chỉ đem lại lợi ích cho nhau mà còn góp phần tích cực đến hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới. Từ góc nhìn trên, nhà nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia tin tưởng quan hệ giữa hai nước trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển toàn diện, sâu rộng, ngày càng có hiệu quả và ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Trong bài viết “Quan hệ Campuchia - Việt Nam gần gũi và tin cậy”cũng được truyền thông Campuchia đăng tải rộng rãi, nhà nghiên cứu Uch Leang, phụ trách Vụ Á - Phi và Trung Đông, Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia đánh giá, trong 57 năm qua, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã trải qua nhiều thăng trầm và giai đoạn lịch sử, nhưng mối quan hệ giữa hai nước vẫn phát triển vững chắc, toàn diện và hiệu quả về mọi mặt, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc.
Nhà nghiên cứu Uch Leang cũng khẳng định, Campuchia luôn coi Việt Nam là một trong những ưu tiên hàng đầu của mình về chính sách đối ngoại, đồng thời đánh giá cao việc Việt Nam theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, đa phương hóa và đa dạng hóa, trong đó luôn kiên định coi Campuchia là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Bài viết nêu bật những thành tựu trong quan hệ song phương về hợp tác chính trị, ngoại giao, kinh tế thương mại, quốc phòng - an ninh, ngoại giao nhân dân… Trong đó nhấn mạnh hợp tác quốc phòng - an ninh tiếp tục được phát huy hiệu quả và trở thành trụ cột quan trọng trong quan hệ Campuchia - Việt Nam. Tác giả cho biết, Campuchia và Việt Nam đã hoàn thành phân giới, cắm mốc với 84% đường biên giới trên đất liền và đang tích cực, hợp tác chặt chẽ để hoàn thành 16% công tác phân giới cắm mốc biên giới còn lại.
Đặc biệt, với tư cách là Chủ tịch Ban Chấp hành Hội cựu sinh viên Campuchia tại Việt Nam, nhà nghiên cứu Uch Leang đánh giá, hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực hai bên cùng quan tâm, là nội dung chiến lược quan trọng trong hợp tác song phương. Hàng năm, hai nước thường xuyên cấp học bổng đào tạo dài hạn và ngắn hạn cho sinh viên của nhau. Campuchia cấp học bổng cho 35 sinh viên Việt Nam mỗi năm. Việt Nam cấp học bổng cho hàng trăm sinh viên Campuchia mỗi năm, thông qua Bộ Giáo dục và các kênh hợp tác khác.
Nhà nghiên cứu Uch Leang chia sẻ: “Sau 57 năm chính thức thiết lập, quan hệ ngoại giao giữa hai nước Campuchia và Việt Nam đã đạt đến tầm cao mới, sâu sắc và nhất quán trên mọi lĩnh vực. Mối quan hệ tốt đẹp đó đã trở thành tài sản vô giá của hai dân tộc. Hai nước sẽ hợp tác chặt chẽ hơn nữa để đạt được Tầm nhìn Campuchia trở thành nước phát triển vào năm 2050 và Tầm nhìn Việt Nam trở thành nước phát triển vào năm 2045”./.
St

ĐỂ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRỞ THÀNH NIỀM TIN, LẼ SỐNG

 Để có thể làm tốt và hiệu quả hơn nữa công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì không nên chỉ giới hạn công tác này trong phạm vi tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận và học thuyết khoa học, mà cần mở rộng thêm ở góc độ: làm sao để biến nó thành niềm tin, lẽ sống của nhân dân.

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN TRONG BỐI CẢNH MỚI
Trong tiến trình vận động và phát triển của nhân loại, niềm tin là một nhân tố hết sức quan trọng. Bất cứ quốc gia hay thể chế chính trị nào, muốn phát triển ổn định, bền vững và tiến tới một xã hội thái bình, thịnh trị thì những người lãnh đạo của quốc gia/thể chế đó phải đặt vấn về xây dựng niềm tin đối với nhân dân.
Trong một quốc gia có chính đảng lãnh đạo, điều kiện tiên quyết để chính đảng đó có thể tồn tại và phát triển là phải có nền tảng tư tưởng vững chắc, được thực tiễn kiểm nghiệm, thử thách, sàng lọc và phải gắn bó, thực sự trở thành một trong những niềm tin, lẽ sống của người dân. Khi đó, mọi chủ trương, đường lối, quan điểm… của chính đảng sẽ được người dân tin và làm theo như đối với một chân lý khách quan, một hệ giá trị thiêng liêng của cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển của nền tảng tư tưởng không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính đảng tạo ra nó mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác nhau, trong đó, niềm tin của quần chúng nhân dân là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại, tồn tại lâu dài hay kết thúc chóng vánh đối với nền tảng tư tưởng.
Là một đảng chính trị “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” nên trong quan điểm và sự kiên định về lập trường tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là bộ phận nền, gốc vững chắc bao gồm những quan điểm, hệ thống tri thức lý luận cũng như thái độ, sự nhìn nhận, đánh giá đối với hiện thực khách quan một cách khoa học, đúng đắn mà trên đó những bộ phận khác của Đảng như Cương lĩnh, chủ trương, đường lối, quan điểm, thái độ... được xây dựng và phát triển. Điều này, không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh mới, các thế lực thù địch ngày càng ráo riết chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, trong đó, nguy hiểm hơn cả là những âm mưu, hành động nhằm làm cho người dân suy giảm, mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Để gieo rắc sự hoài nghi hòng hướng tới phủ nhận, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, các thế lực thù địch đã “dẫn dụ” bằng nhiều chiêu trò, luận điệu thâm độc như: 1) Đưa ra những “lý luận” xuyên tạc rằng việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng qua là ý muốn chủ quan duy ý chí, là một cách “chỉ để giữ đặc quyền” và “không đem lại lợi ích cho toàn dân Việt Nam”(!?). 2) Xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “vật cản” đối với sự phát triển đất nước(!?). 3) Ngụy tạo rằng Đảng cộng sản Việt Nam đang có sự “Khủng hoảng lý luận” bởi “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin giúp cải cách thế nào trong bối cảnh kinh tế thị trường? và những nội dung cốt lõi trong nền tảng tư tưởng của Đảng là chỉ để phục vụ cho Đảng và không đề cập đến các vấn đề trọng đại của quốc gia(!?). 4) Cổ xuý và bịa đặt rằng “Khi lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Việt Nam sớm muộn gì cũng sẽ sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu”(!?)…
Có thể thấy, những luận điệu xuyên tạc, chống phá đang âm thầm len lỏi, “bám rễ” vào đời sống xã hội và đã ít nhiều gây ra những hệ luỵ nguy hiểm.
PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRỞ THÀNH NIỀM TIN, LẼ SỐNG CỦA NHÂN DÂN?
Thứ nhất, sẽ là hoàn chỉnh hơn về mặt ý nghĩa và giá trị khi nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ dừng lại ở phạm vi một học thuyết, một hệ thống khoa học lý luận… mà cần phải thâm nhập sâu rộng hơn nữa vào quần chúng nhân dân. Nói cách khác, cần phổ biến, tuyên truyền sâu rộng nội dung nền tảng tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân theo hướng: dễ hiểu, dễ thuộc, dễ vận dụng.
Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, nội hàm khái niệm về các tri thức liên quan đến nền tảng tư tưởng của Đẩng thường mới “dừng lại” ở những người có học vấn cao, mà chưa thật sự lan tỏa một cách sâu, rộng đến các tầng lớp nhân dân nói chung. Dường như, người dân vẫn còn “xa lạ” và chưa thực sự hiểu biết, tỏ tường về nền tảng tư tưởng của Đảng! Trong khi đó, nếu so sánh (dù là “khập khiễng”) chúng ta sẽ thấy “mức độ phổ quát” của thánh kinh, giáo lý, điều răn… trong các tôn giáo rộng hơn nhiều. Sở dĩ các thánh kinh, giáo lý, điều răn… trở thành “máu thịt”, hơi thở, tâm hồn của tín đồ, vì bên cạnh việc các tôn giáo, tín ngưỡng vẫn giữ nguyên được hồn cốt giáo lý, kinh kệ cùng những triết lý cao siêu, họ còn tiến hành công việc “đại chúng hóa” “tuyên truyền” các vấn đề này ở nhiều cách thức khác nhau (viết thành thơ, châm ngôn, cách ngôn răn dạy...), giúp con chiên, tín đồ dễ nhớ, dễ thuộc và dễ vận dụng vào đời sống. Và vì thế, họ sớm hình thành nên “Đức tin”.
Lâu nay, chúng ta cũng đã quan tâm đến việc nghiên cứu và tuyên truyền các tác phẩm kinh điển của các nhà tư tưởng lỗi lạc (C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh…) và các tác phẩm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công việc này hết sức ý nghĩa trong việc giữ gìn và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là khi hiện nay thế giới đang đa chiều, nhiễu loạn về thông tin. Song, việc học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển này chỉ mới dừng lại ở những đối tượng người học nhất định (chủ yếu là cán bộ, giảng viên của các Trường, các Học viện chính trị, các Viện nghiên cứu; và những người được đi học, thường phải bảo đảm một số tiêu chí nhất định) mà chưa được mở rộng. Thực tiễn cho thấy, khi học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ít người mới vỡ lẽ: Lâu nay, có những tri thức mà vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, họ vẫn thường hiểu nhầm, hiểu sai; vận dụng nhầm, vận dụng máy móc!
Chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để những giá trị tốt đẹp trong nền tảng tư tưởng của Đảng thật sự lan tỏa, phổ quát đến với tất cả người dân, để nhân dân thực sự thấm nhuần, coi đó là niềm tin, lẽ sống trước mỗi hành động, việc làm, trước mỗi vấn đề của đất nước...
Thứ hai, phải dựa vào nhân dân, xem nhân dân là một trong những lực lượng nòng cốt trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Muốn nền tảng tư tưởng của Đảng trở thành niềm tin, lẽ sống của nhân dân, thì cần phải dựa vào nhân dân. Nhân dân chính là “tai mắt” của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Người dân luôn có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, tiếp xúc với mọi đối tượng; có khả năng sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông một cách hiệu quả nên dễ dàng nhận diện được đối tượng cùng các nội dung, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Không chỉ vậy, với nhiều thành phần, giai tầng, lứa tuổi, cả trong và ngoài nước, người dân Việt Nam cũng chính là một trong những chủ thể sáng tạo ra những nội dung, phương thức để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách hiệu quả - từ tự phát sang tự giác, từ đơn lẻ sang phối hợp để cùng đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc; phản bác các luận điệu xuyên tạc một cách kịp thời, hiệu quả, thuyết phục.
Các tầng lớp Nhân dân còn là “bức trường thành” vững chắc để ngăn chặn những luận điệu sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng ta là Đảng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, vậy nên, bảo vệ Đảng cũng chính là cách người dân bảo vệ mình!
Dựa vào nhân dân, “Lấy dân làm gốc” chính là cách tạo nên “thế trận lòng dân” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Thứ ba, phải giúp nhân dân hiểu hiểu đúng, hiểu rõ: nền tảng tư tưởng của Đảng ta không phải tự nhiên mà có, không phải là sản phẩm chủ quan duy ý chí… mà là một hệ thống tư tưởng, quan điểm được xây dựng một cách khoa học, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc, luôn được bổ sung để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng nhưng chúng ta không sao chép nguyên xi và cũng không tuyệt đối hóa vấn đề này, ngược lại, luôn vận dụng một cách sáng tạo, có sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển để phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Hồ Chí Minh chính là người đầu tiên tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và Người cũng là người đầu tiên vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin lên một tầm cao mới trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, từ đó đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình Đảng lãnh đạo và xây dựng đất nước, đặc biệt là trong xây dựng CNXH, Đảng ta cũng đã có những sai lầm, khuyết điểm, gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế… nhưng nhìn một cách tổng thể, nhất là khi đặt trong tương quan về góc độ quản trị quốc gia, thì kết quả là chúng ta đã có những thành tựu to lớn, trong đó kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước luôn có sự đổi mới nhận thức, và từ đó đổi mới trong thực tiễn xây dựng CNXH.
Theo nguyên tắc sự phát triển của nhận thức, có những cái trước, nay và sau đều đúng; nhưng cũng có những cái trước đúng nay cần phải bổ sung hoàn thiện theo nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, và có những cái trước đúng nhưng nay không còn phù hợp. Vậy nên, trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phải tiếp tục xác định “cái gì vẫn còn đúng và vẫn còn có giá trị lâu dài; cái gì trước kia chúng ta hiểu không đúng nay phải điều chỉnh lại cho đúng; cái gì ngay từ thời các nhà kinh điển đã thừa nhận là không đúng, cái gì đã bị thực tiễn vượt qua, đặc biệt là thực tiễn ở Việt Nam mà chúng ta cần bổ sung phát triển”. Xác định được điều này nghĩa là chúng ta thêm một lần nữa làm sáng tỏ các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và “không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước”.
Thứ tư, cần phải làm tốt hơn nữa công tác chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân, làm cho người dân ngày càng hạnh phúc hơn.
Hạnh phúc không chỉ đơn thuần ở sự thỏa mãn, đầy đủ về vật chất, mà còn thể hiện mãnh liệt ở khía cạnh tinh thần; hạnh phúc chính là chìa khóa khai phóng niềm tin và lý tưởng cho con người. Một khi đời sống của người dân được bảo đảm, không chỉ biết “ăn no mặc ấm” mà còn là “ăn ngon mặc đẹp”, không chỉ biết nhìn nhận mà còn biết cảm nhận và cảm thụ các giá trị khoa học, văn hóa nghệ thuật… thì người dân sẽ càng có cơ sở để nhận biết và tin tưởng hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng và xem đó là niềm tin, lẽ sống.
KHI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG THỰC SỰ TRỞ THÀNH NIỀM TIN, LẼ SỐNG
Hơn tất cả, niềm tin là sức mạnh cố kết toàn dân tộc Việt Nam. Vậy nên, khi một hệ thống tri thức lý luận, một học thuyết, hệ tư tưởng của Đảng thực sự trở thành niềm tin, lẽ sống trong mọi tầng lớp nhân dân thì chắc chắn sẽ sản sinh ra những “quả ngọt” làm cho đời sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cụ thể là:
Sẽ góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị một cách hiệu quả.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thời gian qua, Đảng ta đã và đang thực hiện rất tốt công tác này trên tất cả các mặt, các lĩnh vực. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, vẫn còn đó không ít vấn đề gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, trong đó có tình trạng tham nhũng, chạy chức chạy quyền, cán bộ quan liêu, sách nhiễu người dân... và đây cũng chính là “luận cứ, luận điểm” để các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng, tăng cường xuyên tạc, bịa đặt, chống phá.
Vậy nên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không phải là công việc của riêng Đảng và các đảng viên, mà cũng phải là công việc của người dân, bởi lẽ người dân chính là “thước đo” để đánh giá kết quả của công việc hệ trọng này. Khi đã hình thành được niềm tin, người dân sẽ có cơ sở để “biết”, “bàn”, “làm”, “kiểm tra”, “giám sát” và “thụ hưởng”. Điều này cũng đồng nghĩa với việc: công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị sẽ ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn.
Sẽ củng cố, phát triển sự đồng thuận xã hội bền vững, góp phần loại bỏ những thông tin sai trái, xấu độc.
Đồng thuận xã hội chính là một trong những “kháng thể” hiệu quả nhất để nhân dân chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là khi các luận điệu này đang ngấm ngầm len lỏi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống và làm cho một bộ phận không nhỏ người dân, nhất là giới trẻ hình thành những suy nghĩ tiêu cực, lệch lạc. Trước hết, nhân dân sẽ có thái độ nhận thức tích cực đối với các vấn đề nổi cộm của xã hội, như công tác phòng, chống tham nhũng; công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng; các chính sách xây dựng và phát triển văn hóa, dân tộc, tôn giáo.... Tiếp đến, người dân sẽ thấy được sự hợp lý, khoa học từ các quan điểm, đường lối của Đảng và sẽ tự nguyện, vui vẻ thực hiện, vận dụng vào cuộc sống hằng ngày. Sau cùng, những thông tin sai trái, xấu độc sẽ không có cơ hội bám rễ vào đời sống của người dân, chúng sẽ phải tự hủy trước niềm tin vững chắc mà nhân dân dành cho Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những “quả ngọt”, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận ở chiều ngược lại, đó là những hệ lụy, những “trái đắng” khi nền tảng tư trưởng của Đảng trở nên xa lạ và không trở thành niềm tin, lẽ sống của người dân. Trước hết, đó là khoảng cách giữa nhân dân với Đảng sẽ ngày càng xa. Đó là khi người dân mất niềm tin và cho rằng nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ đơn thuần là một học thuyết, là sản phẩm “chủ quan duy ý chí” của những người cầm quyền không thực sự vì dân… Lúc đó người dân sẽ thờ ơ, hoài nghi, từ bỏ và rồi sẽ “đi tìm một điều gì khác” để giải tỏa, thỏa mãn những ước muốn, những trạng thái tinh thần mà họ đang thiếu hụt. Lịch sử ra đời của các tôn giáo, tín ngưỡng đã cho thấy: Khi người dân cảm thấy lạc lõng, nhỏ bé, khi cuộc sống trở nên mất phương hướng thì họ sẽ tìm đến một thế lực nhất định để gửi gắm, ký thác niềm tin. Tiếp đến, khi không có chí hướng, không xác định được lý tưởng, mục đích sống..., người dân sẽ mất đi khả năng định hướng trong đời sống xã hội. Nhân dân sẽ không đồng lòng, chung tay với Đảng và Nhà nước để xây dựng các vấn đề trọng yếu của quốc gia. Sự hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị sẽ bị giảm sút, cùng với đó, tất cả các yếu tố tiêu cực sẽ được dịp kích hoạt, nảy nở, sinh sôi… và rồi những luận điệu xuyên tạc, phản động sẽ càng có cơ hội nẩy mầm, bén rễ trong đời sống, trong nếp nghĩ của người dân. Và sau cùng, mầm mống của sự phân rã xã hội sẽ vì thế có cơ hội nảy nở, sinh sôi. Kết cục là những hậu quả tồi tệ từ những bất ổn chính trị - xã hội!
Trong cuộc sống, phàm khi con người đổ vỡ niềm tin thì tất yếu sớm muộn cũng dẫn đến sự hoang mang, sợ hãi, và rồi sẽ nghe và làm theo một cách mù quáng trước những dẫn dụ của những kẻ phi thiện. Ngược lại, khi đã có niềm tin - được hình thành trên cơ sở khoa học, được kiểm chứng bởi lịch sử, được xây dựng từ một chính đảng hết lòng phụng sự nhân dân - thì con người sẽ tạo ra cho mình một thế giới quan đúng đắn, nhân văn; xác định được lý tưởng, lẽ sống cao đẹp; thực tâm đồng thuận, “chung lưng đấu cật” xây dựng một xã hội “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những kết quả đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng không phải là những thứ trừu tượng, mơ hồ; thành quả kinh tế - xã hội có được như hiện nay không phải là kết quả của một sự mạo hiểm hay ăn may, mà đó là do “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” bởi ý Đảng với lòng dân. Vì thế, khi nền tảng tư tưởng của Đảng trở thành niềm tin, lẽ sống trong quảng đại quần chúng nhân dân thì chắc chắn không có khó khăn, trở ngại, thử thách nào mà đất nước ta, Đảng ta, nhân dân ta không thể vượt qua; chắc chắn khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc sẽ sớm trở thành hiện thực./.
ST

TÌNH CẢM CỦA BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SỸ

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương đối với mọi tầng lớp nhân dân, trong đó phần dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ, những người từng chịu nhiều hy sinh, mất mát trong chiến tranh vẫn là mối quan tâm đặc biệt của Người. Năm 1946, khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, giữa bộn bề công việc và khó khăn chồng chất nhưng Người vẫn không quên các thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹđó và tôi nhận các con liệt sỹlàm con của tôi”.

Khi biết tin một chiến sỹ vệ quốc đoàn, con trai bác sỹ Vũ Đình Tụng hy sinh đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sỹ: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất đi một thanh niên là tôi mất đi một đoạn ruột”.
Tháng 6/1947, Người đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm là Ngày Thương binh, Liệt sỹ để đồng bào cả nước tỏ lòng biết ơn và tri ân đến họ. Trong thư gửi Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc, Người viết: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Thực hiện lời huấn thị của Người, tại Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành, khối ở Trung ương và các tỉnh họp ở Phú Minh (Đại Từ - Thái Nguyên) đã chính thức chọn ngày 27/7 là “Ngày Thương binh” trong cả nước. Đến năm 1955, “Ngày Thương binh” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” để toàn dân thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.
Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sỹ còn được thể hiện ở những nghĩa cử cao đẹp, bình dị và rất đỗi tự nhiên trong đời sống thường ngày. Người thường trích một tháng lương, dùng tiền do các Việt Kiều biếu, dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.
Ghi nhớ công lao của các liệt sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sỹ Hà Nội vào các dịp lễ tết: “Ngày mai là năm mới.... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”.
Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ: “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ”; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sỹ, thương binh.
Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”.
Nhiều tổ chức Hội như “Hội mẹ chiến sỹ”, “Hội ủng hộ thương binh” được thành lập; nhiều phong trào như “Trần Quốc Toản”, “Đón thương binh về làng” được phát động rộng rãi, góp phần cùng Đảng, Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, thắt chặt thêm tình quân dân như “cá với nước”.
Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc bất hủ, Người căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình” cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...”, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sỹ mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhận sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương.... phải giúp đỡ họ có công ăn, việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói, rét.
Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao.
Các chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công đã phát huy cao độ truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" - truyền thống tốt đẹp đã có từ hàng ngàn năm nay của dân tộc Việt Nam, tiếp thêm ngọn lửa của tình đoàn kết và lòng yêu nước trong các thế hệ con Lạc cháu Hồng. Những câu nói, bài viết của Bác đã và sẽ mãi mãi là phương châm hành động, lẽ sống của thương binh, gia đình liệt sỹ, định hướng cho các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa" của nhân dân ta.
Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc con liệt sỹ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội.
Nhân kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2024), chúng ta càng thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và thực hiện tốt hơn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, góp phần tri ân đối với những người đã ngã xuống, những người đã gửi lại một phần thân thể của mình nơi chiến trường cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân./.
St

Vận dụng quan điểm cán bộ phải “cả gan làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng phẩm chất “dám làm” của người cán bộ, đảng viên hiện nay

 TCCS - “Dám làm” là phẩm chất đặc biệt, được Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay. Ngược lại với “dám làm” là sợ trách nhiệm, nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng mà không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không dám đương đầu với khó khăn, thử thách. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần nghiên cứu, vận dụng quan điểm cán bộ phải “cả gan làm việc”(1) của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng và rèn luyện phẩm chất “dám làm” của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm xưởng cơ khí Khu gang thép Thái Nguyên (năm 1964)_Nguồn: hochiminh.vn

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phẩm chất “cả gan làm việc” ở người cán bộ

“Cả gan làm việc” là quan điểm độc đáo, đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dũng khí, bản lĩnh, phương pháp, tác phong làm việc của người cán bộ, là yêu cầu đặc biệt, ở tầm cao về phẩm chất, nhân cách của người cán bộ trong mối quan hệ với công việc. Phẩm chất này giúp người cán bộ có đủ dũng khí, dám vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng suy nghĩ và hành động cá nhân chủ nghĩa, “có gan” đứng ra đảm nhận, phụ trách công việc, dám dấn thân vì lợi ích chung của tập thể, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân… Tựu trung, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về người cán bộ “cả gan làm việc” được thể hiện ở một số nội dung sau:

Phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện ở sự sáng suốt trong lựa chọn, sử dụng và bố trí, tin dùng cán bộ, dám giao việc cho cán bộ cấp dưới. Theo Người, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền “phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt”(2). Khi thấy rõ phẩm chất, năng lực của cán bộ, thì phải tin tưởng và giao việc cho họ, bởi vì: “Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào. Kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong. Cán bộ thì vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài; bên cạnh đó, sử dụng cán bộ phải thật sự thận trọng: “Cất nhắc cán bộ không nên làm như giã gạo”. Nghĩa là, trước khi cất nhắc cán bộ không xem xét kỹ về khả năng và trình độ, khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ một cách thích đáng, để khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên. Người nói, một cán bộ bị “nhấc lên”, “thả xuống” ba lần như thế thì “hỏng cả đời”.

Biểu hiện "cả gan làm việc" của người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu còn là ở chỗ phải tin tưởng vào cán bộ cấp dưới, tạo điều kiện, cơ hội để khuyến khích họ phát huy năng lực và tinh thần trách nhiệm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ. Khi giao công tác cho cán bộ cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ những điểm chính, và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả gan mà làm”(4). Đặc biệt, phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu còn được thể hiện ở tinh thần “dám” bứt phá, đổi mới sáng tạo, bản lĩnh, quyết đoán; mạnh dạn “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, “dám” vứt bỏ những gì của ngày hôm qua đã không hợp thời nữa, thay đổi cách thức công tác. Cán bộ lãnh đạo phải coi trọng và có hình thức khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ cấp dưới dám nói, dám đề ra sáng kiến, có gan phụ trách, có gan làm việc; đồng thời, nghiêm khắc phê bình cán bộ có tư tưởng cầm chừng, ỷ lại, sợ trách nhiệm... Khen phải đúng, khen để tạo động lực cho cán bộ phát huy năng lực, tinh thần làm việc, dám nói, dám làm; đồng thời, không được khen quá mức, dễ gây ra sự chủ quan. Người cán bộ lãnh đạo phải “thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(5).

Phẩm chất “cả gan làm việc” của người chỉ huy.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất “cả gan làm việc” của người chỉ huy là sự quyết đoán, sắc sảo, nhạy bén, mưu trí, táo bạo, dũng cảm, có dũng khí, gan góc, gặp việc gì cũng phải có “gan” làm, có “gan” chịu trách nhiệm; có tinh thần dám đánh và biết cách đánh thắng quân thù; mưu lược, biết địch, biết ta, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch; biết tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để chiến đấu, chiến thắng quân thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”(6). Muốn “cả gan làm việc” thì người chỉ huy phải có đầy đủ các phẩm chất Trí - Tín - Dũng - Nhân - Liêm - Trung. Trí là phải có đầu óc sáng suốt để nhìn mọi việc rõ ràng, để suy xét cho đúng. Tín là phải làm cho người ta tin mình. Ví dụ đã hứa thưởng thì phải thưởng. Tín cũng còn có nghĩa là tự tin vào sức mình, nhưng không phải là tự mãn, tự cao. Dũng là không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh. Nhân là phải thương yêu cấp dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ. Đối với địch đã đầu hàng, ta phải khoan dung. Liêm là chớ tham của, chớ tham sắc, chớ tham danh vọng, tham sống. Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng.

Phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”(7). Người yêu cầu, người làm công tác tổ chức - cán bộ phải làm tốt khâu phát hiện và lựa chọn, đào tạo cán bộ; không được thiên tư, thiên vị, không phân biệt người trong hay người ngoài Đảng, mà phải lựa chọn được người thật sự có đức, có tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”(8). Trong sử dụng cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị phải có lập trường, bản lĩnh để cán bộ cấp dưới mạnh dạn đưa ra ý kiến, có gan phụ trách, có gan làm việc, đổi mới sáng tạo; người làm công tác cán bộ phải có gan cất nhắc cán bộ và chịu trách nhiệm về đề xuất của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, người làm công tác tổ chức - cán bộ cần phải liêm chính, trong sáng, công tâm trong đánh giá ưu điểm của người cán bộ; đồng thời, sẵn sàng giúp đỡ cán bộ khắc phục hạn chế, yếu kém của họ. Người nhắc nhở: “Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người sửa chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”(9). Người phê phán cách dùng người không hợp lý làm cho cán bộ không thể hoàn thành được nhiệm vụ.

Phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ kiểm tra.

Phẩm chất “cả gan làm việc” của người cán bộ kiểm tra được thể hiện ở việc dũng cảm tự phê bình và phê bình, mạnh dạn, có dũng khí, vì lợi ích chung của tập thể để nói lên hạn chế của tổ chức, cơ quan, cá nhân mà không e ngại, sợ va chạm. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ kiểm tra phải “cả gan nói”, tức là mạnh dạn chỉ ra khuyết điểm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương và của cả cấp trên, trên cơ sở khoa học, với tinh thần xây dựng, nhằm mục đích khắc phục, sửa chữa khuyết điểm để làm việc cho tốt hơn. Người cán bộ kiểm tra cần “cả gan” phê bình cấp trên, nhưng phải trên nguyên tắc chân thành, đúng mực. Người cán bộ kiểm tra phải có thái độ dứt khoát trong việc xem xét và “cả gan” xử phạt những cán bộ mắc sai lầm, khuyết điểm với nguyên tắc không có trường hợp ngoại lệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”(10).

Xây dựng phẩm chất “dám làm” của đội ngũ cán bộ hiện nay

Phẩm chất “dám làm” của người cán bộ - sự kế thừa, phát triển quan điểm “cả gan làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Về mặt ngữ nghĩa, “dám làm” không phải là cụm từ mới và xa lạ với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến phẩm chất “dám làm” của các lực lượng khác nhau trong xã hội. Với đội ngũ cán bộ, Người cho rằng, “vì không hiểu biết nên không dám làm”(11); đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu cán bộ. Với quần chúng nhân dân, Người cho rằng: “Quần chúng dám làm, dám nói, do đó mà thật sự mở rộng dân chủ”(12). Đối với lực lượng vũ trang nhân dân, Người chỉ rõ nhiệm vụ của người làm tướng là phải: Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung; theo đó, phẩm chất “dám làm” được coi như là “Dũng”, có nghĩa là “không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh”(13). Người nhắc nhở, yêu cầu: “Mỗi người lao động cần có tinh thần dám nghĩ dám làm, vươn lên hàng đầu, thành người lao động tiên tiến”(14). Như vậy, “dám làm” cũng còn có nghĩa là tự biết mình, biết người, biết bản chất và đòi hỏi của công việc, hiểu biết lòng dân để có thể vượt qua ranh giới của bản thân, vượt qua trạng thái tâm lý cá nhân. Đó là biểu hiện của dũng khí, lòng quả cảm, tinh thần tiên phong, xung kích của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Để đạt được phẩm chất “dám làm” thì cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ để dám đối diện, sẵn sàng làm việc khó, dám đương đầu với khó khăn, thử thách.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cả gan làm việc” được Đảng, Nhà nước ta quán triệt, kế thừa và phát triển vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng và được hội tụ trong phẩm chất “dám làm” của người cán bộ trong tình hình mới. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, Đảng Cộng sản Đông Dương đã nêu rõ, sự khôi phục hệ thống của Đảng là kết quả từ công tác có sáng kiến của các đảng bộ và các chiến sĩ hạ cấp. Đến Đại hội IV, Đảng yêu cầu, cán bộ nhà nước phải có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi, có sáng kiến, có năng lực tổ chức thực tiễn; đồng thời, phải nhiệt tình, tận tụy, hy sinh, có tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Tại Đại hội VI của Đảng, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, Đảng đặt ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực phù hợp, luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thông suốt và chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ham học hỏi, năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, có tính tổ chức và kỷ luật cao.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Hội nghị Trung ương khóa VIII thống nhất thông qua Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997, “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Sau hơn 20 năm triển khai thực hiện, đội ngũ cán bộ ở nước ta đã từng bước trưởng thành và phát triển. Ngày 19-5-2018, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Quan điểm của Đảng là: Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”(15). Thực chất đây vừa là yêu cầu, vừa là hệ giá trị trong phẩm chất, nhân cách của người cán bộ, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở cả suy nghĩ và việc làm, trách nhiệm và nghĩa vụ trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm tra thi công dự án Nhà ga hành khách T3 Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn: chinhphu.vn

“Cả gan làm việc” khác với làm liều, làm bừa, làm ẩu và thói vô trách nhiệm.

Trong bối cảnh mới hiện nay, chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên được thể hiện qua các mối quan hệ cơ bản, đó là: Với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; đối với công việc; đối với bản thân, gia đình; đối với đồng chí, đồng nghiệp; đối với các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị. Trong đó, “dám làm” là một phẩm chất đặc biệt, là dũng khí của người cán bộ, thể hiện năng lực, bản lĩnh, trình độ, trí tuệ, lòng kiên trì gan góc khi đối diện với công việc, nhất là công việc khó và trong khi làm nhiệm vụ được giao.

Phẩm chất “dám làm”, “cả gan làm việc” của người cán bộ là mạnh dạn, quyết định, quyết đoán thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao trên cơ sở đã nắm chắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị, địa phương; hiểu sâu sắc về thực tiễn công việc, môi trường làm việc, phân tích và nắm chắc thuận lợi, khó khăn trong triển khai công việc tại cơ quan, đơn vị, địa phương; hiểu thông suốt về truyền thống, văn hóa, tập tục, hương ước địa phương; luôn đặt lợi ích của tập thể nơi mình công tác lên trên hết, trước hết; chấp nhận dấn thân, không vì lợi ích của cá nhân, người thân, gia đình mình; mạnh dạn bỏ cách nghĩ, cách làm đã cũ, không còn phù hợp. “Dám làm” còn là dám đương đầu trực diện với khó khăn, thử thách; có lúc phải chấp nhận rủi ro trong công việc, để chấn chỉnh tổ chức, cá nhân về tinh thần, thái độ, trách nhiệm; không ngừng đổi mới phương thức quản lý, cách làm, giảm thiểu phiền hà, chặn đứng tham nhũng, lãng phí, tăng cường dân chủ, minh bạch trong công việc; tin vào suy nghĩ, việc làm của mình, tin vào sự chính nghĩa, sức mạnh đoàn kết của mọi người.

“Dám làm”, “cả gan làm việc” còn thể hiện ở thái độ, ý thức, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác của người cán bộ, “dám” đứng mũi chịu sào, không tranh công, đổ lỗi, dám nhận trách nhiệm về mình và chịu trách nhiệm đến cùng với công việc. Khi đã “dám làm”, thì tận tụy, chủ động, đổi mới sáng tạo, khoa học, trung thực, dân chủ, kỷ cương, phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng, không ngừng học hỏi, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, dám đổi mới sáng tạo, đột phá vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vì lợi ích của nhân dân. Người cán bộ “dám làm”, “cả gan làm việc” luôn xung phong đi đầu, mạnh dạn, táo bạo, quyết đoán, vượt lên mọi rào cản để làm đúng, duy trì đúng, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, đúng thực chất công việc, vì lợi ích chung.

Ở chiều ngược lại, những cán bộ kém về phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, kém rèn luyện, không chịu tu dưỡng đã nhân danh tiêu chí “dám làm” và “cả gan làm việc” để có những suy nghĩ và việc làm tiêu cực. Ở họ, suy nghĩ và việc làm đều mang nặng “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân, chỉ lo vun vén cho người thân, gia đình, cánh hẩu; vì thế mà, có bản chất liều lĩnh, hay “làm liều”, “coi trời bằng vung”, coi thường pháp luật, tự cho mình, “nhóm lợi ích” của mình là một “vùng cấm”, mà không ai và tổ chức nào có quyền động chạm đến. Những đối tượng này luôn làm việc vô nguyên tắc, vô tổ chức kỷ luật, làm theo ý muốn cá nhân, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, cứ có lợi ích cho bản thân, gia đình, người thân, phe cánh là làm.

Giải pháp tiếp tục xây dựng phẩm chất “dám làm” ở đội ngũ cán bộ hiện nay

Xây dựng phẩm chất “dám làm”, “cả gan làm việc” ở đội ngũ cán bộ trong bối cảnh hiện nay không phải là việc làm “một sớm, một chiều”, càng không thể đào tạo, tiến hành một cách cấp tốc mà có được. Bởi vì, đó là quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, khắc phục từng bước yếu kém và khuyết điểm, tư tưởng giáo điều, bảo thủ hoặc cực đoan, duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm để đi đến cái đúng, cái chân lý. Việc làm này cần vượt qua nhiều rào cản, từ phía chủ quan và khách quan; tuy nhiên, chủ quan vẫn là nhân tố chính. Thực tế cho thấy, ở những điều kiện, hoàn cảnh có tính chất bước ngoặt, quyết định sự thành công hay thất bại của công việc, thì vai trò, sự quyết đoán của người cán bộ, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, là rất quan trọng.

Hiện nay, tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đang đặt ra yêu cầu rất cao và luôn đòi hỏi đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ năng lực, tinh thần đổi mới sáng tạo, quyết đoán, để giải quyết, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc, phát sinh trong thực tiễn công việc ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Có rất nhiều khó khăn, rào cản tạo cho người cán bộ tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, không “dám làm” những việc mình nghĩ, chưa dám bứt phá, tiên phong đi đầu, phá bỏ cái cũ, cái lạc hậu, cái đã ăn sâu vào nếp nghĩ của nhiều người. Một trong những rào cản đó là còn thiếu chính sách, pháp luật cụ thể khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới sáng tạo, dám đột phá, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Bên cạnh đó, còn có rào cản thuộc về nhân tố chủ quan từ chính mỗi cán bộ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ ngại học, ngại rèn luyện, ngại va chạm, chậm đổi mới, không dám sáng tạo, luôn duy trì cách nghĩ cũ, cách làm cũ, tôn sùng kinh nghiệm, ẩn mình vào tập thể, dựa vào tập thể, ỷ lại tập thể. Một số cán bộ có tư tưởng “bình quân chủ nghĩa”; thậm chí, có những công việc cơ quan, đơn vị, địa phương giao cho thì không biết làm như thế nào, không biết triển khai từ đâu, không biết tham khảo xin ý kiến như thế nào..., nên không dám nhận, viện mọi lý do để né tránh, đùn đẩy, thoái thác nhiệm vụ.

Để xóa bỏ những rào cản trên và tiếp tục đẩy mạnh xây dựng phẩm chất “dám làm” ở đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, trước hết tự bản thân mỗi cán bộ cần luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, không dao động trước khó khăn, kiên định với mục tiêu lý tưởng, con đường cách mạng của Đảng và dân tộc; có tinh thần cầu tiến bộ, ham học hỏi, không bảo thủ, gia trưởng, luôn lắng nghe ý kiến phê bình, tham mưu, góp ý của quần chúng nhân dân. Tinh thần, thái độ, tác phong làm việc của cán bộ cần thường trực sự đổi mới sáng tạo, quyết đoán, bứt phá; luôn nuôi dưỡng trong mình dũng khí vì Tổ quốc, vì nhân dân.

Mỗi cán bộ phải có ý thức tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên hết, trước hết; nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp tác phong công tác gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nói và làm phải thống nhất; đặc biệt, phải vượt qua được trạng thái tâm lý “sợ làm sai”, “sợ bị xử lý trách nhiệm”, “sợ bị gánh hậu quả”, nhất là cán bộ giữ trọng trách ở cơ quan, đơn vị, địa phương.

Cần nghiên cứu, mạnh dạn và đột phá trong việc tạo ra hành lang pháp lý, có chế độ, chính sách đặc biệt để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho cán bộ “dám làm”, “cả gan làm việc”, đổi mới sáng tạo trong làm việc. Trong điều kiện cho phép, với chức trách, quyền hạn, cần thường xuyên động viên, khuyến khích cán bộ có cách nghĩ, cách làm đổi mới sáng tạo; hỗ trợ nhân lực, vật lực, huy động những điều kiện cần thiết để cán bộ có điều kiện thuận lợi làm việc, đem lại hiệu quả cao, lợi ích cho tập thể, nhân dân.

Cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, cần thống nhất và tạo sự đồng thuận nhất trí cao trong cơ quan, đơn vị, địa phương về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung(16); từ đó, khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, Nhà nước, nhân dân của đội ngũ cán bộ trong bối cảnh mới. Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, cấp ủy các cấp cần gắn chặt nội dung này với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời, kiên quyết chống lại tư tưởng, quan điểm xuyên tạc, hành động sai trái đi ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc khuyến khích, động viên cán bộ “dám làm”.

Phẩm chất “dám làm” là sự kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về người cán bộ phải “cả gan làm việc” trong điều kiện hiện nay. Đó là một trong những phẩm chất không thể thiếu trong chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hy sinh vì lợi ích chung, khi được tập hợp, đoàn kết lại trong một tập thể thống nhất chắc chắn sẽ tạo ra sức mạnh, biến thách thức thành cơ hội để đạt tới những mục tiêu tốt đẹp; thể hiện bản chất và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã kiên định lựa chọn./.

---------------------

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030 xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu này, một trong những biện pháp quan trọng là xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp trong Quân đội làm nòng cốt với phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính ủy, chính trị viên trong Quân đội
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những tổ chức mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng. Người nhấn mạnh: “Về mặt chính trị, cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”. Từ đó đến nay, ở các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng (lúc đầu từ cấp trung đội, sau là từ cấp đại đội trở lên) bên cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị - người tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng, được tổ chức đảng lựa chọn và giao nhiệm vụ chỉ đạo, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách mạng của đơn vị vũ trang mà mình được phân công đảm nhiệm. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật Đảng, nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thật sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh. Người chỉ rõ: “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới. Trách nhiệm của người chỉ huy quân sự và người chính trị viên phải định rõ ràng”. Theo đó, chính ủy, chính trị viên không chỉ chấp hành nghiêm túc và triệt để mọi đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà phải thường xuyên chăm lo củng cố, giữ gìn và tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ đơn vị, đoàn kết quân dân. Mỗi chính uỷ, chính trị viên phải là hạt nhân, là trung tâm xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong cơ quan, đơn vị.
Chính ủy, chính trị viên cũng cần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Bác Hồ cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Sự nỗ lực học tập vươn lên là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát triển của xã hội. Với người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên, người làm công tác lãnh đạo, công tác giáo dục, xây dựng “hướng dẫn, dìu dắt quần chúng trên con đường đấu tranh” càng phải tích cực học tập phấn đấu để không ngừng tiến bộ.
Là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hằng ngày tiếp xúc với bộ đội, chính uỷ, chính trị viên phải trong sáng, gương mẫu về đạo đức lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”. Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân; sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin yêu mãnh liệt đối với bộ đội và Nhân dân; có lối sống trong sáng, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, khiêm tốn, giản dị với mọi người; kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để luôn luôn xứng đáng với lời dạy: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc”.
Nhiệm vụ và giải pháp
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức dùng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm lung lạc niềm tin, lý tưởng, ý chí chiến đấu và lòng trung thành của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Xuất phát từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ vị trí, vai trò của chính uỷ, chính trị viên và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một tất yếu khách quan. Trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Quân đội cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn. Chú trọng làm tốt việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phổ biến, tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm, Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, làm cơ sở cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng thời làm cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị.
Hai là, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt nội dung quan điểm về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Gắn chặt chẽ giữa bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính trị viên với việc xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực toàn diện, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó với Nhân dân, lời nói đi đôi với việc làm.
Ba là, làm tốt công tác kiểm tra sơ tổng kết, đánh giá đúng thực trạng kết quả bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, kịp thời nhắc nhở, xử ký các trường hợp vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng.
Bốn là, mỗi chính uỷ, chính trị viên cần nêu cao ý thức, trách nhiệm, tân tụy với công việc, thực sự là tấm gương mẫu mực cả trong chiến đấu cũng như trong lao động và học tập, công tác. Phải thực sự là tấm gương, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kịp thời ngăn chặn sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong đơn vị và ngoài xã hội./.
ST