Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân để thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế; tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc gắn với chuyển giao công nghệ. Thúc đẩy mạnh thị trường trong nước, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu, chuỗi cung ứng, khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do (FTA)
đã ký kết và thúc đẩy tích cực hơn nữa trong đàm phán, ký kết các FTA mới với
các nước Trung Đông, châu Phi, thị trường sản phẩm Halal…
Tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ, tạo chuyển
biến về chất trong thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và
kết cấu hạ tầng; trong đó xác định rõ thể chế là “đột phá của đột phá”
vì vừa là nguồn lực, vừa là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục đổi mới tư duy xây dựng thể chế
theo hướng không chỉ tập trung cho quản lý nhà nước mà còn tập trung cho mở
rộng không gian, kiến tạo phát triển; có cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo
đột phá trong tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, khơi thông các nguồn
lực, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện
đại.
Tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, không
ngừng cải thiện vị thế của Việt Nam trong bản đồ kinh tế khu vực, toàn cầu.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
tiếp tục đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, tạo mọi thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp.
Đồng thời, chú trọng phát triển các lĩnh
vực văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân,
bảo vệ toàn diện môi trường; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp
phần phục vụ và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội; bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh, tăng cường đối ngoại, hội
nhập quốc tế, giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển đất nước.
Việt Nam được đánh giá là một trong
những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của thiên tai và biến đổi khí hậu.
Thời gian tới, tình hình thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu được dự báo tiếp
tục diễn biến phức tạp, cực đoan, khó lường với tần suất và cường độ ngày càng
lớn, tác động, ảnh hưởng ngày càng nặng nề. Trong bối cảnh đó, công tác phòng,
chống bão lũ nói riêng và phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai nói
chung cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, thực chất, hiệu quả. Đây
là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa mang tính
chiến lược lâu dài của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa
phương.
Trong đó, cần quán triệt sâu sắc quan
điểm xuyên suốt đặt tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết và không hy
sinh tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh
tế đơn thuần, không để ai bị bỏ lại phía sau trong phòng, chống thiên tai cũng
như trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Xác định rõ phòng, chống, khắc phục
hậu quả thiên tai là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn dân, toàn xã hội; phát
huy cao nhất sự chủ động, tích cực, tinh thần tự lực, tự cường của các cấp ủy
đảng, chính quyền và người dân ở cơ sở; không để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống. Bảo đảm tính khoa học, hợp lý và phù hợp với tình hình thực tiễn;
kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại; chú trọng cả 3 giai đoạn
phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả, trong đó lấy chủ động phòng ngừa là
chính; chuyển hướng quản lý, phòng ngừa rủi ro theo lưu vực, liên vùng, liên
ngành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét