Những
luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ
nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng
không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong gần 80
năm qua.
1. Những
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ
chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân
dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu
đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và
xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”.
Sự
thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác
bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.
Sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân
dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1
của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Trong
suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống
quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư
tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Như
vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng
đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định
chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất
cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền
lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm
giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân.
Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao
quyền, ủy quyền của nhân dân.
2. Kế
thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ
trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung
trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai
tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà
nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội.
Trong
lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo
thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến.
Hiến
pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng
dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà
nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
Những
năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực
nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội
được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước
trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu
quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai
trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo
phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ
hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực
thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham
nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu
quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng
cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm,
không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh
an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật
Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt
chẽ.
Với
bước đi có lộ trình, phù hợp và kiên quyết, Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn
trong công tác phòng, chống tham nhũng. Qua đó, xử lý dứt điểm, kịp thời,
nghiêm minh trước pháp luật nhiều vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, trong
đó, có nhiều cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, điều đó cho thấy, sự quyết tâm
của Đảng đối với xử lý tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước,
góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân.
3. Quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội
chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các
chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội
trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.
Như
vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp
quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời
sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai
đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một
sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối
thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối
nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân.
Những
luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ
nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng
không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong gần 80 năm qua.
Mưu đồ sâu xa là lợi dụng bàn luận về những vấn đề dân chủ của đất nước, lợi
dụng việc góp ý vào chủ trương, đường lối, chính sách, nhất là văn kiện của các
kỳ đại hội Đảng để xuyên tạc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với việc xây dựng chế độ và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Những
quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị
thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân
Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ
vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang
và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét