Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

TIỂU ĐOÀN 668 VÀ MỘT THỜI HOA LỬA

 Ngày 17-8-1968, Tiểu đoàn 668-Tiểu đoàn đường ống xăng dầu đầu tiên của Quân đội ta được thành lập, thuộc Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần với nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử: Tiếp nhận, quản lý, vận hành tuyến ống X42 cùng với kho ngầm trữ lượng 500m3 xăng dầu.

Tuyến ống X42 dài 42km, nằm dưới lòng đất, từ TP Vinh, vượt qua sông Lam (Nghệ An) và sông La đến Nga Lộc (Hà Tĩnh). Hai đầu tuyến sẽ được tiếp nối ra Bắc, vào Nam để thực hiện phương thức vận chuyển xăng dầu hiện đại và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu của các đoàn vận tải cơ giới đưa hàng ra tiền tuyến.
Suốt gần hai tháng rưỡi kể từ khi thành lập cho đến ngày Mỹ tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc (1-11-1968), Tiểu đoàn 668 nằm trong vùng “tam giác lửa” Vinh-Nam Đàn-Linh Cảm, là trọng điểm không quân Mỹ đánh phá ngăn chặng đường tiếp tế của ta từ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Những buổi đầu thành lập, cơ sở vật chất rất thiếu thốn, bộ đội được bà con địa phương giúp đỡ từ nơi ăn, chốn ở cho đến củi đuốc, rau xanh... Quân dân “quên mình chia lửa, cứu nhau chia hầm”, tất cả để tuyến ống vận hành thông suốt.
Đại đội 2 của Tiểu đoàn 668 do Chuẩn úy Phạm Văn Nhận làm Đại đội trưởng kiêm Chính trị viên đảm nhiệm quản lý, vận hành đoạn đường ống từ địa phận xã Nam Sơn (nay là xã Khánh Sơn), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, vượt sông Lam, sông La lên xã Đức Trường (nay là xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Trong thời gian Đại đội vận hành tuyến mới, không quân Mỹ đánh phá suốt ngày đêm.
Do phải hoạt động ban đêm quá nhiều nên cơ số pin dùng cho đèn pin từ trên cấp xuống luôn bị thiếu so với nhu cầu. Những khi tối trời, bộ đội thường phải cho con đom đóm vào lọ thủy tinh, làm đèn soi đồng hồ đo áp suất dòng chảy trên các phương tiện của tuyến ống.
Nửa đêm về sáng 31-8-1968, Mỹ ném bom xã Nam Sơn, khiến hàng chục người dân thương vong. Tại gia đình đồng chí Phạm Văn Nhận ở, sân và nhà đều có bom nổ và khiến chiến sĩ trong đơn vị bị thương. Anh Nhận chỉ huy bộ đội vận hành tuyến ống, cấp cứu đồng đội; đồng thời cử đồng chí y tá và một số chiến sĩ đưa bà con bị thương xuyên đêm vượt sông bằng thuyền nan, đến trạm quân y của Quân khu 4 kịp thời cứu chữa.
Ít ngày sau đó, địch ném bom làm đứt đường ống xăng dầu ở xã Đức Trường. Xăng phụt lên bắt lửa đạn, khói đen mù mịt. Nối đoạn ống bị đứt dưới những làn bom đạn địch, phải sử dụng kỹ thuật kích, đẩy, dồn ép để khớp tuyến, rất khó khăn, cực nhọc. Trong làng có gia đình 5 người đang trú chung một hầm thì bị trúng bom, các nạn nhân bị đất cát vùi lấp. Đại đội phải báo cáo cấp trên cho tạm ngừng vận hành, khẩn trương vừa cứu ống, vừa cứu dân.
Đêm 31-10-1968, địch vẫn đánh phá tuyến ống X42 bằng bom đào và bom phát quang, kết hợp thả bom bi ở các xã Nam Sơn, Đức Trường, Khánh Lộc... Bộ đội quên mình, xông pha bảo vệ đường ống và cứu hộ bà con bị sập hầm, giúp các gia đình lo hậu sự cho người dân bị bom giết hại.
Giữa những ngày tháng giữ cho dòng xăng liên tục tuôn chảy dưới bom đạn địch ấy, Đại đội trưởng Phạm Văn Nhận cùng các đồng chí: Nguyễn Văn Trung-Trung đội trưởng và Nguyễn Văn Kiện-Tiểu đội trưởng tuyến ống; Nguyễn Văn Lan-Thợ máy đẩy được cấp trên cử làm đại diện cho Tiểu đoàn 668 dự Hội nghị mừng công xây dựng và vận hành Đường ống X42, do Cục Xăng dầu tổ chức tại Hà Nội. Các báo cáo thành tích của Đại đội 2 được hội nghị nhiệt liệt hoan nghênh, ghi nhận. Sau hội nghị ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xét đề nghị của các cấp có thẩm quyền, ký quyết định tặng đồng chí Nguyễn Văn Lan Huân chương Chiến công hạng Nhì, tặng đồng chí Phạm Văn Nhận Huân chương Chiến công hạng Ba.
Thành tích của Đại đội 2 trong thực hiện nhiệm vụ thi công, quản lý vận hành tuyến ống X42 trong những ngày đầu tiên vô cùng gian khó và cả thời gian sau đó, đã góp phần quan trọng cùng các bộ phận khác làm nên danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của Tiểu đoàn 668-đơn vị duy nhất ở cấp tiểu đoàn trong ngành đường ống xăng dầu Quân đội được nhận phần thưởng cao quý này./.
St

BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG CỦA NHÀ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

 Tại sao trong cùng hoàn cảnh lịch sử, nhiều người Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình đối với Tổ quốc và đồng bào. Từ góc nhìn chính trị học, bài viết phân tích, luận giải các sự kiện và minh chứng lịch sử, làm rõ bí quyết thành công của nhà chính trị Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giành lại độc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.

TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC TRÊN NỀN TẢNG TƯ DUY MỚI
♦️
Thứ nhất, không theo con đường cũ của những bậc tiền bối.
Trước sự thất bại của các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (từ năm 1958 đến những thập niên đầu thế kỷ XX), nhiều người Việt Nam trăn trở tìm chọn, thử nghiệm con đường giành độc lập cho dân tộc và một số người đi ra nước ngoài mong tìm sự giúp đỡ của chính phủ các nước cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm(1). Sự khủng hoảng về con đường cứu nước và sự thất bại của các phong trào đấu tranh lúc này đã phản ánh sự bất lực của những “kịch bản” cứu nước theo con đường “cải lương”, “bạo động”, “cầu viện” ngoại bang…
Trong bối cảnh đó, nhận thức được yêu cầu lịch sử, người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước(2). Từ kết quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh những năm qua cho thấy, ngay từ lúc rời Tổ quốc ra đi, nền tảng tư duy chính trị của Nguyễn Tất Thành khác cơ bản với những người yêu nước đương thời. Một trong những biểu hiện tư duy mới là “trong lúc những thanh niên Việt Nam cùng lứa tuổi say sưa với phong trào Đông Du sang Nhật Bản thì Hồ Chủ tịch đã khước từ sự lựa chọn của Phan Bội Châu đối với mình và rời Tổ quốc ra đi về phía Tây”(3); nhận thức của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc về thế giới và đối tượng của cách mạng Việt Nam cũng trên lập trường và quan điểm mới so với các nhà yêu nước khác. Người không ảo tưởng trông chờ sự giúp đỡ từ các nước đế quốc thực dân. Trong một bức thư gửi những người bạn cùng làm việc trong toà báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta”(4).
Dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã nhận ra những hạn chế của họ trong việc xác định nhiệm vụ lịch sử, mục tiêu, đối tượng cách mạng; nhận ra những hạn chế về phương thức, phương pháp đấu tranh, về nhận thức “bạn - thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Do đó, Nguyễn Tất Thành đến nước Pháp không phải để cầu viện hay cầu học, mà “xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(5). Một sự khác biệt lớn giữa Nguyễn Ái Quốc với các nhà yêu nước lúc đó là xác định phương pháp cách mạng không phải là “bạo động” hay “cải lương” mà “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(6). Như vậy, trên nền tảng tư duy mới, Nguyễn Ái Quốc đã xác định phương hướng hành động và phương pháp hành động cách mạng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Như vậy, “Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử, Anh đã thấy rõ con đường của các bậc cha anh là cũ kỹ, không đem lại kết quả, Anh phải đi tìm một con đường mới”(7).
♦️
Thứ hai, cứu nước trên nền tảng tư duy chính trị thực tiễn.
Tìm đến văn minh Phương Tây (trong lúc chủ trương “Hướng Đông” đang rất phổ biến) là lựa chọn có tính bước ngoặt thể hiện “sự nhạy cảm chính trị” đặc biệt. Nguyễn Tất Thành kể lại “Vào trạc tuổi 13 lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp - thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp”(
😎
.
Nguyễn Tất Thành đến Pháp là để tìm hiểu nước Pháp, để từ đó lý giải về sự xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam. Điều này phản ánh tư duy thực tiễn của nhà cách mạng trẻ tuổi: Muốn tìm hiểu tận gốc kẻ thù đang áp bức nô dịch đất nước mình, để từ đó có phương pháp và vũ khí thích hợp đánh đuổi chúng.
Khi bàn về con đường cứu nước của Phan Bội Châu, có ý kiến cho rằng, mặc dù Cụ đã nhìn thấy “muốn cứu nước phải có lực lượng, phải xây dựng sự đồng tâm hiệp lực của đồng bào cả nước. Cụ ra sức thức tỉnh mọi người để xây dựng khối đoàn kết dân tộc và cũng thấy rõ năm, mười nghìn tên thực dân không thể nào đương đầu lâu dài với cả một dân tộc đồng tâm nhất trí. Nhưng Cụ không thể nào xốc cả một dân tộc đứng dậy được... Phan Bội Châu cũng đã thấy được tầm quan trọng của sự viện trợ quốc tế, nhưng nếu có thoát khỏi quan niệm đồng văn đồng chủng hoặc đồng bệnh tương liên thì Cụ cũng chưa thể nhìn thấy đâu là lực lượng có thể tranh thủ được. Cụ mong lợi dụng sự mâu thuẫn giữa bọn đế quốc, nhưng chính Cụ và tổ chức yêu nước của Cụ đã bị sự câu kết giữa chúng làm cho khốn quẫn”(9).
Thực tế cho thấy, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tất Thành từ lúc còn trẻ và xuyên suốt hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, không phải là sự tiếp tục - tiếp nối tư duy chính trị đương thời để giải quyết vấn đề đặt ra từ những “thất bại” của các nhà yêu nước tiền bối, mà là một hình thái tư tưởng chính trị mới dựa trên nền tảng tư duy chính trị có tính thực tiễn cao. Từ đó hình thành nhiều quan điểm chính trị khác những nhà cách mạng thế hệ trước như: yêu nước gắn liền với thương dân - “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (10); học hỏi các nền văn minh để chống lại hành động xâm lược của các nước văn minh; đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc gắn liền với xây dựng một xã hội mới, một nhà nước mới tiến bộ và tốt đẹp hơn... Tư duy chính trị mới của Nguyễn Tất Thành là nền tảng, lập trường chính trị để Người thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình và trở thành Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, “để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại và trong lịch sử của đất nước”./.
St

“HÒA BÌNH VÀ TỰ VỆ”: TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC VÀ ĐÚNG ĐẮN TRONG ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH CỦA VIỆT NAM

 Đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong các thời kỳ cách mạng. Đường lối đó đã được khẳng định và thực hiện nhất quán, phù hợp với thực tiễn nước ta cũng như thế giới. Mọi âm mưu tuyên truyền của các thế lực thù địch, phản động hòng bóp méo, xuyên tạc đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam đều thể hiện sự sai lầm, phiến diện, thiếu căn cứ.

NHỮNG LUẬN ĐIỆU LẠC LÕNG, XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH CỦA VIỆT NAM
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Chúng ta đã khẳng định rất rõ và thể hiện mong muốn, quyết tâm trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; đồng thời, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn tính chất cơ bản của nền quốc phòng - an ninh Việt Nam là “hòa bình và tự vệ”.
Tuy vậy, bất chấp sự thật đó, nhiều cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, thù địch, phản động vẫn ra sức tuyên truyền, rêu rao, tung tin thất thiệt, hòng dẫn dắt dư luận cả trong và ngoài nước hướng vào ý đồ của họ. Họ cố tình phủ nhận những thành tựu của đất nước, tỏ vẻ quan tâm, lo lắng khi hiện nay, thế giới có những biến chuyển sâu sắc và khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đã tác động mạnh mẽ đến an ninh của các quốc gia và quốc tế. Từ đó, họ rêu rao rằng, Việt Nam “không thể” giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bởi theo họ, khả năng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quân sự, an ninh của Việt Nam hiện nay là “quá yếu” và “lạc hậu”, không đủ sức để tự bảo vệ. Họ “khuyên” Việt Nam nên “liên minh”, “chọn bên”, dựa vào nước lớn có thực lực quân sự, an ninh mạnh để nhận được sự bảo trợ, kể cả cung cấp, trang bị vũ khí; đưa lực lượng quân đội, an ninh đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia; rằng “chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”?
Ở một chiều cạnh khác, họ rêu rao rằng đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam rất “mơ hồ”, “không rõ ràng quan điểm” và “phi thực tế”. Thậm chí, họ nhấn mạnh đây là “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, không phù hợp với xu thế hiện nay. Đối với cuộc xung đột Nga - Ukraine, Việt Nam luôn thể hiện quan điểm, lập trường rõ ràng, xuyên suốt, đó là kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, và điều này được thể hiện qua những lần Việt Nam bỏ phiếu thông qua các nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về tình hình Ukraine. Nhưng một số kẻ lại trắng trợn xuyên tạc rằng, Việt Nam phản đối sử dụng vũ lực, nhưng không bỏ phiếu ủng hộ; Việt Nam vì lợi ích mà bỏ qua “công lý và đạo lý”, khiến nhiều người “phải suy nghĩ lại” về lập trường chọn chính nghĩa của Việt Nam(!). Cá biệt, có luận điệu rêu rao rằng, Việt Nam đang thể hiện quan điểm theo kiểu “chung chung”, rằng Việt Nam ngụy tạo về “đứng về lẽ phải, công lý”... Họ tung tin thất thiệt, suy diễn thiếu căn cứ rằng Việt Nam, một mặt, nói là tự vệ; mặt khác, lại đang đẩy mạnh các hoạt động tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, hiện đại hóa lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang với việc trang bị nhiều loại vũ khí để dụng ý răn đe, đe dọa, chống lại một nước thứ ba. Từ đó, họ quy kết Việt Nam khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, tạo nguy cơ bất ổn trong khu vực.
Thực chất của những luận điệu phiến diện, phản động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị khi xuyên tạc đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là hòng phủ nhận đường lối quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước ta, với dã tâm muốn phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng - an ninh tự chủ, tự lực, tự cường của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, hòng làm suy yếu nền quốc phòng - an ninh của Việt Nam, dẫn đến sự lệ thuộc vào các lực lượng bên ngoài, gây nên những hệ quả xấu tới sức mạnh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Việt Nam. Mặt khác, họ mưu toan hướng lái Việt Nam vào tình thế đối đầu với nước khác để chia rẽ, làm mất lòng tin, phủ nhận truyền thống yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam cũng như thiện chí và sự đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy hòa bình trên thế giới.
SỰ NHẤT QUÁN VÀ TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC TRONG ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH "HÒA BÌNH TỰ VỆ" CỦA VIỆT NAM
Cho dù các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị liên tục công kích, song sự thật vẫn là sự thật, Việt Nam luôn khẳng định sự nhất quán đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” và thực hiện một cách nghiêm túc, có trách nhiệm. Đây là sự thể hiện tầm cao trí tuệ, đúc kết tài thao lược quân sự, quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, phù hợp với thực tiễn đất nước cũng như bối cảnh quốc tế. Đồng thời, thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta; khẳng định sự nhất quán và tầm nhìn chiến lược nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Đây là những yếu tố hết sức quan trọng để bảo đảm hòa bình thực sự không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới.
Đối với Việt Nam, “hòa bình” là sự bình an, ổn định và phát triển, không để xảy ra xung đột giữa các quốc gia, không có chiến tranh, khủng bố, cướp bóc; con người được sống một cuộc sống an ninh, an toàn, yên bình và hạnh phúc. Hơn nữa, “hòa bình” còn là khát vọng, là giá trị thiêng liêng, là mục tiêu của cả dân tộc Việt Nam. Là quốc gia đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh tự vệ, chịu nhiều đau thương, mất mát, khi Tổ quốc bị xâm lăng, hòa bình bị hủy hoại, hơn ai hết, người Việt Nam thấu hiểu sâu sắc giá trị của hòa bình, mong muốn duy trì và quyết tâm gìn giữ hòa bình đất nước, quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, lợi ích quốc gia - dân tộc. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển, nhưng phải gắn với bảo vệ hòa bình, và hòa bình được coi là một giá trị thiêng liêng của đất nước”. Vì vậy, Việt Nam luôn mong muốn thế giới, khu vực, mọi quốc gia, dân tộc đều được hưởng hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đường lối quốc phòng - an ninh mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định nhất quán. “Hòa bình” ở đây là không “mơ hồ, ảo tưởng”, “phi thực tế” như giọng điệu lạc lõng mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã rêu rao. “Hòa bình” không chỉ là thông điệp, mà còn là cam kết của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam gửi đến các quốc gia trên thế giới, với phương châm “chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân”, đồng thời, “giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển” và “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Điều đó càng thể hiện sự yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo và thiện chí của Việt Nam. Đường lối đó không chỉ góp phần xây dựng, củng cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước, mà còn đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.
“Tự vệ” trong đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là “kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”, “có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”, “nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh”. Mục tiêu xuyên suốt của đường lối quốc phòng - an ninh Việt Nam là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việt Nam cam kết và đã thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế cao cả, đóng góp cho hòa bình, thịnh vượng, hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới bằng những hành động cụ thể, thiết thực với phương châm “thêm bạn, bớt thù”. Điều đó cho thấy, sự thật hoàn toàn trái ngược với luận điệu rêu rao, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.
Trong thời gian qua, Việt Nam chủ trương “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, theo đó hiện đại hóa vũ khí, trang bị, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng để bảo vệ Tổ quốc đúng như tinh thần của đường lối quốc phòng “bốn không” của Việt Nam, không nhằm dụng ý răn đe sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực chống lại nước khác. Mặt khác, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh không đơn thuần là mua sắm, sản xuất, hiện đại hóa vũ khí trang bị, mà còn nâng cao sức mạnh quốc phòng - an ninh trên nhiều phương diện; xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh theo chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khả năng tác chiến và trình độ, năng lực của lực lượng vũ trang cách mạng. Trước các cuộc xung đột, đối đầu diễn ra trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam luôn lên án, phản đối các hành động gây hấn, tạo cớ, xung đột, chạy đua vũ trang, với quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tránh những va chạm không cần thiết, không để các đối tượng nước ngoài khiêu khích, kích động, thỏa hiệp xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc hoặc lôi kéo, khống chế, gây sức ép với nước khác phát động chiến tranh; kiên quyết đấu tranh, kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, dù Việt Nam chủ trương không đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế, nhưng Việt Nam sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược, phá hoại an ninh quốc gia với phương châm “nếu đất nước có chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì cũng là vì hòa bình”.
Như vậy có thể khẳng định, “hòa bình và tự vệ” là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong đường lối quốc phòng - an ninh; cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề an ninh khu vực và thế giới, gắn với thực tiễn cùng những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt về quốc phòng - an ninh, đặc biệt là trong bối cảnh sự tranh giành ảnh hưởng, cạnh tranh chiến lược ngày càng sâu sắc, các hoạt động tập hợp lực lượng giữa các nước lớn theo xu hướng phân cực và tối đa hóa quyền lực tiếp tục được đẩy mạnh, nhiều quốc gia đã bị cuốn vào vòng xoáy, nhất là các nước vừa và nhỏ đang chịu tác động của lực “kéo - đẩy” ngày càng mạnh từ cuộc cạnh tranh này. Do vậy, để giữ vững độc lập, tự chủ, vừa giữ được mối quan hệ, vừa tránh bị cuốn vào “cuộc chơi” giữa các nước lớn, đòi hỏi sự xử lý hài hòa, cân bằng mối quan hệ nước lớn trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều đó càng cho thấy tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”. Đề cập đến vấn đề này, nhiều học giả, chuyên gia nước ngoài đã đánh giá cao về đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam. Tiến sĩ Olli Pekka Suorsa thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam, Singapore (RSIS) nhận định: Chính sách “bốn không” của Việt Nam tăng thêm sự minh bạch và giúp xây dựng lòng tin trong khu vực và quốc tế. Còn theo Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean, Việt Nam mong muốn thể hiện chính sách quốc phòng hòa bình, không chỉ giúp khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, mà còn cho thấy Việt Nam là một đối tác có tinh thần xây dựng đối với an ninh khu vực và quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam gia tăng hợp tác quốc phòng với các nước.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn đường lối quốc phòng - an ninh đã đề ra. Việt Nam đã và đang thực hiện những hành động thiết thực và cụ thể để xây dựng môi trường hòa bình không chỉ cho đất nước Việt Nam, mà còn đối với khu vực và thế giới. Đường lối quốc phòng - an ninh mà Việt Nam đang thực hiện là nhằm bảo vệ đất nước, giữ nước “từ sớm, từ xa”, “từ khi nước chưa nguy”, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, vì hòa bình, an ninh, an toàn và phát triển. Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh cũng chính là yếu tố để tự vệ, không ngoài mục đích giữ gìn hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, bình đẳng, cùng có lợi; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Minh chứng rõ nét nhất là việc Việt Nam đã cử sĩ quan liên lạc công tác ở Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi... Đối với Việt Nam, hòa bình, ổn định và phát triển không tách rời hòa bình của khu vực và thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta”. Trước sự đối đầu giữa các nước, nhất là các nước lớn, Việt Nam không đứng về bên nào, Việt Nam đứng về lẽ phải và chính nghĩa, Việt Nam tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đối với Việt Nam, việc sử dụng vũ lực và liên minh quân sự không phải là phương thức tối ưu trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong giải quyết những bất đồng, Việt Nam luôn thực hiện hiệu quả đấu tranh hòa bình, trong đó sử dụng tổng hợp các biện pháp, như đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý, đấu tranh bằng phương tiện truyền thông và dư luận xã hội trong nước cũng như quốc tế, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình ngoài thực địa... Song song với các biện pháp đấu tranh hòa bình, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chủ động đề ra kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động nhận diện, ngăn ngừa, triệt tiêu những nhân tố bất lợi, tiềm ẩn nguy cơ trở thành xung đột. Cùng với đó, các lực lượng vũ trang luôn đề cao cảnh giác, không để bị bất ngờ, thụ động; nhanh chóng, kịp thời phát hiện mọi âm mưu của nước ngoài đe dọa sử dụng vũ lực và sử dụng vũ lực xâm phạm chủ quyền, an ninh đất nước. Nếu điều đó xảy ra thì Việt Nam sẽ sử dụng quyền tự vệ chính đáng của mình bằng tất cả sức mạnh của một dân tộc yêu chuộng hòa bình kết hợp sức mạnh của thời đại để đánh bại mọi âm mưu, quy mô, hình thái chiến tranh từ kẻ thù, bảo vệ vững chắc chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Chính nhờ đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” mà Việt Nam, một mặt, tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế; mặt khác, vẫn kiên định không tham gia liên minh quân sự hay liên kết với quốc gia này chống quốc gia khác. Hiện tại, Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không để nảy sinh xung đột và xảy ra chiến tranh. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước, cùng 13 nước đối tác toàn diện; là nước duy nhất tại khu vực Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả năm nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước lớn, góp phần định vị vững chắc hơn vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác, như châu Phi, Mỹ La-tinh... Có thể nói, đây là điều chưa từng có tiền lệ với Việt Nam; là cơ hội thuận lợi để Việt Nam ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
TIẾP TỤC KIÊN ĐỊNH, KIÊN TRÌ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH "HÒA BÌNH TỰ VỆ" TRONG BỐI CẢNH MỚI
Từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới, trước tình hình thế giới, khu vực thường xuyên có những biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đã và đang đặt ra những thách thức mới. Vì vậy, kiên định, kiên trì đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” trong bối cảnh mới là vấn đề hết sức quan trọng, cần tiếp tục được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Muốn vậy, thời gian tới cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”, tạo sự thống nhất cao nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm củng cố vững chắc lòng tin vào sự lãnh đạo, chỉ đạo và những quyết sách của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an trong giải quyết các tình huống xảy ra. Thực hiện giải pháp này, các cấp, các ngành, các lực lượng cần đa dạng những hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục; mở rộng đối tượng tham gia, chú trọng luận giải rõ vì sao phải gắn kiên định với kiên trì đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”. Chống tư tưởng chần chừ, do dự hoặc nóng vội, chủ quan, thiếu cân nhắc, tính toán, dẫn đến những ứng xử sai lầm, gây hậu quả nghiêm trọng.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược. Công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống nảy sinh, sự gia tăng chống phá của các thế lực thù địch, phản động,... công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược cần quán triệt sâu sắc quan điểm Đại hội XIII của Đảng và Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Đại hội đại biểu Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VII, đó là: “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược; giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Việc nghiên cứu, dự báo phải hướng vào tư duy, phân tích những động thái, biểu hiện mang tính “bất thường” của các nước có liên quan, nhất là những điều chỉnh về chiến lược quốc phòng - an ninh, đối ngoại và sự thay đổi bố trí lực lượng của các nước lớn, từ đó dự kiến những “kịch bản”, phương án đối phó chính xác, kịp thời. Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, các lực lượng liên quan trong nước và quốc tế để nắm bắt, thu thập, cung cấp, trao đổi thông tin, trên cơ sở đó nghiên cứu, dự báo và tham mưu kịp thời, chính xác. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu chiến lược bảo đảm đủ năng lực khai thác, phân tích và xử lý thông tin; kết hợp nâng cấp với đầu tư mua sắm bảo đảm cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện phục vụ công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược.
Ba là, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”. Lực lượng vũ trang giữ vai trò nòng cốt để vừa bảo vệ Tổ quốc, vừa giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Vì thế, cần phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân và công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ được giao, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường khả năng phòng thủ, giữ vững môi trường an ninh, an toàn và duy trì cơ quan, đơn vị sẵn sàng chiến đấu cao; chủ động nghiên cứu, nắm vững, đánh giá, dự báo chính xác các tình huống chiến lược, có phương án xử lý kịp thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc; đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng - an ninh, xây dựng lòng tin chiến lược, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về tôn giáo, dân tộc, các mục tiêu, tuyến, lĩnh vực, địa bàn trọng yếu về quốc phòng - an ninh, “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”.
Bốn là, tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh, đối ngoại, góp phần nâng cao thế và lực để thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”. Hội nhập về quốc phòng - an ninh, đối ngoại là quan điểm nhất quán của Đảng ta và đã trở thành một bộ phận quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và các nghị quyết có liên quan; tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, phát huy các cơ chế hợp tác song phương, đa phương, xây dựng lòng tin chiến lược, phát huy hiệu quả sự đồng thuận của các quốc gia trong Cộng đồng ASEAN, tăng cường mối quan hệ với các nước trên thế giới. Hội nhập về quốc phòng - an ninh, đối ngoại cần gắn kết chặt chẽ với hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Vì vậy trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả hơn nữa Nghị quyết; tăng cường hợp tác tạo thế đan cài lợi ích với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc.
“Hòa bình và tự vệ” trong đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là quan điểm nhất quán, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trước tình hình mới. Nhận thức đúng đắn về quan điểm này là cơ sở để phản bác, đập tan các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ đường lối quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước ta, góp phần quan trọng tạo sự thống nhất ý chí và hành động của cả hệ thống chính trị và nhân dân, thực hiện hiệu quả, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp quốc gia, vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong thực tiễn bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, mạnh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
St

XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TRƯỚC SỰ CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong 93 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn đó cũng khẳng định một cách chắn chắn: Ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi đến những thắng lợi to lớn trong thời gian vừa qua.
Thời gian qua, với dã tâm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đã đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc, trong đó tập trung xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nền tảng tư tưởng; chủ trương, đường lối và các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng...
Thực tế đó tiếp tục đặt ra yêu cầu cần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo đó, cần chú trọng một số nội dung như sau:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch đã thông qua nhiều phương thức nhằm xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng với lập luận về thực trạng (số lượng và trình độ) hạn chế của giai cấp công nhân và cho rằng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay chỉ là một nhóm lợi ích, không còn đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng cần phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng, bản chất giai cấp công nhân của Đảng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và trình độ của giai cấp công nhân trong Đảng mà chủ yếu phụ thuộc vào tôn chỉ, mục đích của Đảng là tôn chỉ, mục đích của giai cấp công nhân; nền tảng tư tưởng của Đảng là nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của giai cấp công nhân... Do đó, để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta phải kiên định con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới; xây dựng đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn, phù hợp; giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân; củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân; trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân…
Thứ hai, xây dựng đường lối, chính sách lãnh đạo đúng đắn.
Với tư cách đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện xã hội thông qua đường lối, chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội... Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hòa của đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước đặt ra nhằm đạt được mục tiêu phát triển. Do vậy, việc xây dựng đường lối, chính sách đúng đắn, khoa học của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trước việc các thế lực thù địch “khuyên” Việt Nam cần từ bỏ con đường mà Đảng và dân tộc đã lựa chọn hơn 93 năm qua - đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, cần tiếp tục khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng đắn, con đường đó được xây dựng trên nền tảng lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phù hợp với thực cách mạng Việt Nam; đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân Việt Nam; phù hợp với quy luật và xu thế vận động, phát triển của thế giới.
Tuy nhiên, đường lối đó phải được cụ thể hoá ở mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn nhất định. Do đó, Đảng phải luôn dựa trên những điều kiện thực tế của đất nước, tình hình trên thế giới, phải dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng đường lối, chính sách trong từng thời kỳ; đặc biệt, trù bị những tình huống bất ngờ xảy ra; không bảo thủ, trì trệ nhưng cũng không được chủ quan, duy ý chí; vừa phải kịp thời nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, vừa phải tính toán từng bước đi thận trọng trong các thời kỳ, giai đoạn cụ thể. Từ vị trí của đảng cầm quyền và để chống nguy cơ sai lầm về đường lối, thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục thực hiện quan điểm thực tiễn cũng như phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, xem xét kỹ lưỡng những ưu điểm, khuyết điểm…”. Đó là cơ sở quan trọng cho những quyết sách đúng đắn, khoa học.
Muốn lãnh đạo đúng, theo Hồ Chí Minh còn phải “tổ chức thi hành cho đúng”, “kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai, ba mươi” bởi chương trình, kế hoạch có hay đến mấy nhưng tổ chức thi hành không đúng, thiếu biện pháp thích hợp, cán bộ, đảng viên thiếu quyết tâm, hoặc không biết biến quyết tâm của lãnh đạo thành quyết tâm của nhân dân thì mọi chương trình, kế hoạch đều không trở thành hiện thực. Khi đường lối đúng đắn, phù hợp của Đảng đem lại hiệu quả trong thực tiễn thì uy tín của Đảng sẽ được nâng cao, niềm tin của nhân dân vào Đảng sẽ củng cố và đó cũng là minh chứng hùng hồn đánh bại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu và học tập lý luận chính trị.
Trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhưng chưa có tiền lệ, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển, cùng với đó là những căn bệnh khó chữa như coi thường lý luận, lười học lý luận làm cho một số cán bộ, đảng viên thiếu nhận thức đúng đắn dẫn đến hoang mang, dạo động, thiếu niềm tin... Do đó, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm góp phần cung cấp luận cứ cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, đồng thời tạo niềm tin vững chắc cho cán bộ đảng viên và nhân dân.
Trong lĩnh vực giáo dục lý luận chính trị, cần khắc phục sự lạc hậu, trùng lặp trong nội dung của các chương trình, sự đơn điệu trong phương pháp giảng dạy. Thực hiện cải cách chương trình giáo dục lý luận chính trị theo mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo truyền thụ có hiệu quả kiến thức lý luận cơ bản, hệ thống, đồng thời sát hợp và gắn với thực tiễn Việt Nam. Triển khai mạnh mẽ nhiệm vụ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ khoa học, chính trị, phẩm chất đạo đức của giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là một giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Thay đổi cách đánh giá chất lượng đào tạo, đảm bảo thực chất, chống chủ nghĩa hình thức và bệnh thành tích, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các môn lý luận chính trị hiện nay. Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị giỏi, có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cao. Chúng ta phải nhanh chóng khắc phục được những hạn chế, bất cập như thiếu về số lượng, sự hụt hẫng giữa các thế hệ, sự giảm sút chất lượng khoa học, sự hạn chế trong hiểu biết thực tế… của đội ngũ này.
Sức sống của tư tưởng không phải là khả năng tự thân mà là từ con người, do con người và trong xã hội. Để góp phần đảm bảo tính khoa học trong lãnh đạo, cầm quyền, chống lại các luận điệu xuyên tạc, Đảng phải tổ chức nghiên cứu lý luận để làm rõ và khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những vấn đề cần tiếp tục bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với triển khai sâu rộng, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần phân tích sự trung thành về nguyên tắc và những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm lật ngược quan điểm xuyên tạc khi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không còn giá trị trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh là “vay mượn”, là “ảo tưởng”, hoặc tách tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chủ nghĩa Mác - Lênin…
Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về tình hình, nhiệm vụ cách mạng và hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Khẳng định “lẽ phải của chúng ta” để “vững bước trên con đường đã chọn”. Nhận diện, phát hiện và giải quyết kịp thời, triệt để những nhận thức sai lầm từ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Bởi những thông tin xấu và độc hại nếu không được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và tỉnh táo thì có thể làm cho nội bộ Đảng xuất hiện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
Thứ tư, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Một trong những luận điệu của các thế lực thù địch đó là vu cáo, xuyên tạc rằng, chế độ và thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền chính là mảnh đất tốt cho sự nảy sinh, dung dưỡng và phát triển tư tưởng và hành vi chuyên quyền, độc đoán. Chúng xuyên tạc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, cho rằng, “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ dẫn đến tập trung quan liêu, độc tài, mất dân chủ!”.
Đảng phải nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoat Đảng, cần phải mở rộng và phát huy dân chủ, đánh giá đúng, tôn trọng và bảo vệ quyền dân chủ của mỗi cán bộ, đảng viên, tạo không khí cởi mở, chân thành để mọi cán bộ, đảng viên bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng. Người đứng đầu tổ chức đảng cần lắng nghe, cân nhắc với tinh thần thật sự cầu thị những ý kiến góp ý của nhân dân và của cán bộ, đảng viên cấp dưới, cân nhắc, xem xét để tìm ra những vấn đề đúng đắn, khoa học, tránh mắc phải những sai lầm, khuyết điểm do sự độc đoán, chuyên quyền sinh ra.
Tăng cường đối thoại trong Đảng là những điều kiện quan trọng và cần thiết. Qua đó, nhiều vướng mắc của cán bộ, đảng viên được giải đáp trực tiếp và kịp thời, khó khăn được tháo gỡ, bức xúc trong tư tưởng cán bộ, đảng viên được giải tỏa. Đây cũng là dịp để cán bộ lãnh đạo cấp trên và cán bộ, đảng viên hiểu nhau, chia sẻ những khó khăn và thuận lợi, tạo được không khí đoàn kết, phấn khởi, tạo sự ổn định trong tập thể. Cùng với phát huy dân chủ là kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi trong Đảng, làm lành mạnh các quan hệ trong Đảng và trong xã hội.
Tự phê bình và phê bình không những là nghệ thuật, văn hóa trong Đảng, mà còn là quy luật phát triển của Đảng, là biện pháp hữu hiệu để xây dựng Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức và thực hành hiệu quả việc tự phê bình và phê bình bằng những hình thức cụ thể, thiết thực, hiệu quả, tuân thủ tính mục đích và nguyên tắc trong tự phê bình và phê bình.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ trong nhân dân, do nhân dân xây dựng, ủng hộ, giúp đỡ và bảo vệ. Đảng mạnh ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm tròn được sứ mệnh của mình.
Thứ năm, thực hiện tốt công tác cán bộ.
Thời gian vừa qua, các thế lực thù địch lợi dụng một số cán bộ cố ý làm trái các quy định của pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng và việc xử lý đôi khi còn chưa kịp thời để tung ra những luận điệu chống phá Đảng, tập trung hướng vào nội bộ, tìm mọi hình thức tinh vi hoặc trắng trợn, công khai hoặc bí mật, ráo riết làm cho nội bộ mất ổn định, gieo rắc sự ngờ vực, nghi kỵ, giảm sút lòng tin hòng gây chia rẽ nội bộ.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định, phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài... Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”. Công tác cán bộ của Đảng phải được làm tốt ngay từ khâu lựa chọn. Đó là một mắt xích quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ, đặc biệt là những người cán bộ đảm nhận những vị trí quan trong trong cơ quan Đảng, Nhà nước cần đảm bảo tính toàn diện về phẩm chất, bản lĩnh chính trị, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, khả năng đoàn kết, tập hợp quần chúng, tác phong làm việc...
Trên cơ sở đảm bảo yêu cầu, tiêu chuẩn, việc lựa chọn cán bộ cần phải kiên quyết không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài, đủ tiêu chuẩn; đồng thời không để lọt vào cơ quan lãnh đạo của Đảng những người có một trong các khuyết điểm như: Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị; không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút; kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.
Mặt khác, việc lựa chọn cán bộ phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải “có con mắt tinh đời” trong việc đánh giá, giới thiệu, lựa chọn; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác, uy tín của bản thân và gia đình làm thước đo chủ yếu.
Đánh giá cán bộ là khâu rất quan trọng để phát huy tính tích cực của cán bộ, đảng viên. Đánh giá đúng sẽ bố trí, sử dụng đúng, phát huy được khả năng, sở trường của cán bộ, sẽ tạo cho cán bộ, đảng viên phấn khởi, tin tưởng và tích cực trong công tác. Ngược lại, cán bộ, đảng viên không được đánh giá đúng, không được tôn trọng, không được bảo vệ sẽ xa lánh tổ chức, tiêu cực trong hoạt động chính trị, nghĩ khác, làm khác, thậm chí dẫn đến những vấn đề về tư tưởng như: chán nản, tự ty, bi quan, tiêu cực… là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, mất đoàn kết, tổn hại cho tổ chức hoặc dễ bị các phần tử cơ hội chính trị lợi dụng lôi kéo, mua chuộc.
Bên cạnh cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân chúng ta cần xây dựng chính sách đãi ngộ và chính sách tiền lương công bằng, hợp lý, bảo đảm cho cán bộ, công chức đủ sống và sống tốt bằng đồng lương chân chính. Đời sống được đảm bảo, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ; quyền dân chủ được phát huy, đời sống tinh thần được thỏa mãn... là điều kiện để mỗi người cán bộ, đảng viên gắn bó với công việc, tập thể và xã hội, yên tâm, vững vàng thực hiện nhiệm vụ được giao./.
ST

Trung tướng Trần Duy Giang: Tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác hậu cần quý IV năm 2023

Sáng 28-9, Tổng cục Hậu cần tổ chức Hội nghị giao ban công tác hậu cần toàn quân quý III năm 2023 theo hình thức trực tuyến từ điểm cầu Sở chỉ huy Tổng cục đến 34 điểm cầu trong toàn quân. Trung tướng Trần Duy Giang, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chủ trì hội nghị.


Dự hội nghị tại điểm cầu trung tâm có các đồng chí: Trung tướng Đỗ Văn Thiện, Chính ủy Tổng cục Hậu cần; Thiếu tướng Nguyễn Hùng Thắng, Phó chủ nhiệm, Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần; các đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần: Thiếu tướng Phạm Mạnh Cường; Thiếu tướng Hà Như Lợi; Thiếu tướng Huỳnh Tấn Hùng; đại biểu chỉ huy một số cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng; chỉ huy các cơ quan, cục chuyên ngành thuộc Tổng cục Hậu cần…Báo cáo trung tâm tại hội nghị do Đại tá Vũ Quang Miên, Phó tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần trình bày cho thấy, quý III năm 2023, với tinh thần chủ động, tích cực khắc phục khó khăn, ngành hậu cần Quân đội đã bám sát Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; triển khai toàn diện các mặt công tác, bảo đảm kịp thời hậu cần cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên và đột xuất; theo dõi, giám sát, chỉ đạo hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, giữ vững, ổn định đời sống bộ đội.ổng cục Hậu cần đã chỉ đạo tốt nội dung hậu cần và bảo đảm hậu cần cho các cuộc diễn tập quan trọng; toàn ngành duy trì nghiêm nền nếp, chế độ công tác; quản lý chặt chẽ cơ sở vật chất hậu cần, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm. Đồng thời, tiếp tục phát huy hiệu quả Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, tạo động lực thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác hậu cần…Tại phần thảo luận, đại biểu tại các điểm cầu đã phát biểu, đóng góp, bổ sung nhiều ý kiến, tập trung nêu bật những kết quả đạt được trong công tác hậu cần của cơ quan, đơn vị mình; đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hậu cần quý IV và cả năm 2023.

Phát biểu kết luận hội nghị, Trung tướng Trần Duy Giang nhấn mạnh, những kết quả đạt được trong công tác hậu cần của toàn quân quý III năm 2023, chỉ ra những hạn chế, tồn tại yêu cầu các cơ quan, đơn vị tập trung chấn chỉnh, khắc phục trong thời gian tới. Về nhiệm vụ công tác hậu cần quý IV năm 2023, Trung tướng Trần Duy Giang xác định, trước hết, toàn ngành cần nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng dự báo, chủ động tham mưu, chỉ đạo duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; quản lý chặt chẽ vật chất, trang bị hậu cần dự trữ; bảo đảm đầy đủ, kịp thời mọi mặt hậu cần cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và đột xuất.Tập trung làm tốt công tác hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị triển khai xây dựng hệ thống văn kiện hậu cần-kỹ thuật theo quy định; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoạt động hậu cần phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ; chủ động lực lượng, phương tiện, vật chất hậu cần, sẵn sàng bảo đảm cho các nhiệm vụ và tham gia phòng, chống hiệu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.Trong công tác hậu cần thường xuyên, Trung tướng Trần Duy Giang yêu cầu toàn ngành tập trung phát huy tốt nội lực, các nguồn lực, thực hiện hiệu quả chủ đề công tác hậu cần năm 2023 đã xác định; chỉ đạo, tổ chức tốt công tác nuôi dưỡng bộ đội; tạo nguồn, bảo đảm đủ, kịp thời tiêu chuẩn quân trang năm 2023 cho các đối tượng.Cùng với đó, hướng dẫn, chỉ đạo, chủ động phòng, chống dịch bệnh mùa Đông-Xuân 2023-2024; thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bộ đội, giữ vững tỉ lệ quân số khỏe đạt trên 98,5%. Các đơn vị quản lý, sử dụng đất quốc phòng bảo đảm chặt chẽ, đúng mục đích; ngành doanh trại tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp, xử lý nhà, đất; triển khai xây dựng Đề án “Quy hoạch, đầu tư, quản lý, sử dụng nhà ở công vụ toàn quân giai đoạn 2023-2030”. Công tác xăng dầu tập trung đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch mua sắm, tạo nguồn, bảo đảm đủ, kịp thời cho các nhiệm vụ; công tác vận tải chú trọng khai thác, sử dụng hiệu quả phương tiện hiện có; hoàn thành kế hoạch mua sắm, bảo đảm vật tư, trang bị, phương tiện vận tải năm 2023.Ngoài các nội dung trên, Trung tướng Trần Duy Giang yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động xây dựng kế hoạch, bảo đảm tốt hậu cần cho các nhiệm vụ trọng điểm, lễ kỷ niệm lớn của đất nước, quân đội trong năm 2024; toàn ngành tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số công tác hậu cần; đề xuất tổ chức, biên chế cơ quan hậu cần-kỹ thuật cấp chiến dịch; chỉ đạo thực hiện sáp nhập, tổ chức lại cơ quan hậu cần-kỹ thuật các đơn vị còn lại cấp chiến thuật; triển khai hoàn thành nội dung, chương trình huấn luyện hậu cần cho các đối tượng; tiếp tục phát huy hiệu quả Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, phấn đấu hoàn thành toàn diện các mặt công tác hậu cần năm 2023.

NGĂN CHẶN "SÓNG NGẦM" TÀ ĐẠO

 Nếu như trước đây, các tà đạo thường có triết lý đơn giản, chủ yếu hướng đến các đối tượng nhẹ dạ, cả tin, dân trí thấp hoặc người dân sống tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện tiếp cận thông tin bị hạn chế thì hiện nay, những tà đạo “thế hệ mới” lại chủ yếu khoác cho mình những vỏ bọc được tính toán, nghiên cứu rất kỹ, thông qua việc vay mượn giáo lý của các tôn giáo chính thống, đồng thời thực hiện các chiêu thức truyền đạo tinh vi, triệt để tận dụng sự phát triển của mạng xã hội nhằm lôi kéo đông người tham gia. Sự xâm nhập của hoạt động tôn giáo bất hợp pháp vào các đô thị lớn ngày càng gia tăng, gây hậu quả khó lường đòi hỏi cần phải kịp thời nhận diện và ngăn chặn.

Mới đây, Bộ Nội vụ đã ban hành văn bản đề nghị ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác nắm tình hình, phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh, xóa bỏ về phương diện tổ chức đối với Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ.
Yêu cầu cụ thể là chính quyền các địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp: Giải tán, thu hồi giấy phép đối với các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, không để tổ chức này tái nhóm, hình thành các tụ điểm hoạt động mới; không chấp thuận đăng ký hoạt động dưới mọi hình thức.
Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ đề nghị các địa phương tổ chức thông tin, tuyên truyền các hoạt động vi phạm pháp luật, tác hại do Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ; cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc và chính quyền, đoàn thể... tăng cường thông tin, quán triệt cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đoàn viên, hội viên và tuyên truyền cho học sinh, sinh viên nhận thức rõ bản chất, hành vi, thủ đoạn, phương thức hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ để nâng cao cảnh giác, không bị lôi kéo...
Từ đây cho thấy, mặc dù đã có nhiều vụ việc bị phát giác, sau những cảnh báo liên tiếp của Bộ Công an, Ban Tôn giáo Chính phủ và một số ngành, đoàn thể, địa phương, tưởng chừng hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ sẽ bị loại bỏ khỏi đời sống nhưng tổ chức tôn giáo bất hợp pháp này vẫn tồn tại dai dẳng, diễn biến phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa của các ngành, các địa phương cũng như cả cộng đồng.
Sự xuất hiện của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ nói riêng và các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp nói chung không phải là vấn đề mới xuất hiện tại Việt Nam, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn lại có những biểu hiện khác nhau, mức độ ngày càng tinh vi hơn.
Không chỉ co cụm ở một khu vực, nhiều tà đạo nuôi tham vọng tỏa đi khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước để lôi kéo nhiều người tham gia, gây những hệ lụy tiêu cực.
Đáng chú ý gần đây một số tà đạo tìm mọi cách xâm nhập, len lỏi sâu vào khu vực đô thị - vốn là nơi thường được coi là có trình độ dân trí cao hơn mặt bằng chung cả nước. Việc xây dựng “triết lý” của một số tà đạo hiện nay cũng hết sức tinh vi, thể hiện bằng việc vay mượn hoặc dựa trên những giáo lý của các tôn giáo chính thống và hướng lái người nghe theo ý đồ của mình. Đây chính là lý do nhiều người có trình độ học vấn vẫn có thể sa vào “vòng tay” tà đạo. Như một hội nhóm tà đạo tuyên truyền việc chữa bách bệnh dựa vào nguyên lý của “y học năng lượng”, với các phương pháp như yoga, thiền, khí công... vốn là những phương pháp rèn luyện thân thể, tâm trí được nhiều người biết đến.
Việc vay mượn những khái niệm, nguyên lý của các phương pháp vốn có lịch sử hàng nghìn năm đã giúp hội nhóm này dễ dàng tạo dựng niềm tin với người tham gia.
Tương tự việc vay mượn, dựa vào những tôn giáo, những phương pháp đã được thừa nhận cũng là cách mà Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ thực hiện nhằm gây dựng niềm tin với đối tượng họ muốn dẫn dụ. Cụ thể hội nhóm này đã khai thác, sử dụng giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Công giáo và hệ phái Tin lành Cơ đốc Phục lâm. Các bài giảng, các “tuyên truyền viên” của Hội Thánh trích dẫn nhiều câu trong Kinh Thánh khiến người nghe dễ tin theo. Tuy nhiên, bản chất việc trích dẫn đã bị tách rời khỏi bối cảnh khiến nội dung câu trích không còn mang nghĩa nguyên gốc.
Nhìn chung, để dễ lừa mị, dẫn dụ người tham gia, tà đạo “thế hệ mới” hiện nay đều vay mượn những nguyên lý, phương pháp, kinh điển của những tôn giáo, tín ngưỡng, những hiện tượng văn hóa đã được thừa nhận, rồi “cải biến” để phục vụ những mưu đồ không trong sáng. Đáng chú ý, các tà đạo triệt để tận dụng phương thức truyền bá mới thông qua ứng dụng công nghệ để xây dựng, quảng bá và “đánh bóng” hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh về các hoạt động từ thiện, cứu trợ, hành động vì môi trường...
Mạng xã hội là kênh chủ lực để họ tìm kiếm, phát triển hệ thống “tín đồ”. Đây chính là một trong những lý do khiến những tà đạo “thế hệ mới” bám rễ và phát tán nhanh chóng tại đô thị. Phương thức tiếp cận đối tượng thường “đánh” vào nhu cầu tâm lý của con người như việc cần sự chia sẻ, cảm thông trong cuộc sống; trao đổi về vấn đề sức khỏe, hoặc căn cứ theo câu chuyện của đối tượng để dẫn dụ… Với những người dân thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, bị tà đạo lôi kéo, việc “giải thoát” họ có phần thuận lợi hơn.
Bởi khi được cung cấp đủ thông tin, kiến thức, họ dễ nhận ra những sai lầm để thay đổi. Ngược lại, việc tà đạo len lỏi vào nhóm người có trình độ học vấn cao gây nên những hệ lụy xã hội khó lường. Bởi đây thường là những người có uy tín trong gia đình, xã hội nên khi họ thực hiện trách nhiệm của tín đồ là truyền bá tư tưởng, phát triển thành viên mới sẽ có nhiều ưu thế, dễ lôi kéo người tham gia, do đó hậu quả cũng rất phức tạp.
Sau khi đã lôi kéo được đông người tham gia, các tà đạo dần bộc lộ tính chất mê tín, dị đoan, phản khoa học, đi ngược văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, như phỉ báng tục thờ cúng tổ tiên, hiếu kính ông bà cha mẹ. Đồng thời, nếu ban đầu việc đi theo một số hội nhóm tà đạo là miễn phí, nhưng dần dần, người tham gia sẽ phải đóng phí, càng lên lớp cao, mức phí càng nhiều.
Cùng với đó là các hoạt động với danh nghĩa “thiện nguyện”, ủng hộ “giáo hội” song lại có hình thức như bán hàng đa cấp, có tính chất ép buộc khiến người tham gia tốn kém rất nhiều tiền. Thậm chí đã có những người bỏ hàng chục triệu đồng bay ra nước ngoài để gặp gỡ “giáo chủ”, rút hết tiền tiết kiệm để đóng góp cho “giáo chủ”... Như Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ, việc tuyên truyền về “ngày tận thế” khiến nhiều người rơi vào sầu não, suốt ngày chỉ nghĩ đến “nước Chúa”, có nhu cầu phải dựa vào hoạt động của những người đại diện cho Hội Thánh để rửa sạch mọi tội lỗi.
Hậu quả là tín đồ phải nộp 10% thu nhập cho Hội Thánh hay những khoản tiền không nhỏ để thực hiện các nghi lễ... Nhiều người sau khi đi theo tà đạo đã rơi vào cảnh “tiền mất, tật mang”; xung đột với gia đình, bạn bè; sống bi quan, phụ thuộc vào các buổi giảng đạo; phủ nhận các tiến bộ khoa học, tin tưởng vào các dạng “bùa phép” để chữa bệnh thay vì đến các cơ sở y tế...
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo và không theo tôn giáo của người dân; bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng.
Tuy nhiên, các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, Đảng, Nhà nước cũng kiên quyết ngăn chặn tà đạo và những đối tượng lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để xâm phạm an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, xâm phạm lợi ích hợp pháp của nhân dân. Ngăn chặn tà đạo “thế hệ mới” không phải nhiệm vụ dễ dàng, đòi hỏi phải có những cách tiếp cận mới phù hợp thực tiễn hiện nay. Theo đó, các cơ quan chức năng cũng như chính quyền các cấp cần đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động bất hợp pháp của các tà đạo, nhất là trên không gian mạng để xử lý nghiêm, làm cơ sở cảnh báo người dân.
Song song với đó, các cấp, các ngành cần có biện pháp giúp nâng cao “sức đề kháng” của cộng đồng. Để làm được điều này, cần sự phối hợp đồng bộ trong công tác tuyên truyền, vận động giữa các cấp, ngành, Trung ương đến địa phương. Người dân cần được thông tin sớm về các tà đạo, cũng như âm mưu của các đối tượng thù địch, cực đoan muốn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi cá nhân, chống phá Nhà nước, gây mất trật tự xã hội.
Song song đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường phổ biến về hoạt động của những tôn giáo, tín ngưỡng hợp pháp; những nét đẹp trong truyền thống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc để cộng đồng nhận thức được đúng-sai, từ đó hình thành tính tự giác trong công tác phòng ngừa, tham gia đấu tranh chống hoạt động vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo.
Ngoài những biện pháp chung, đối với cộng đồng dân cư tại các đô thị, cần có thêm biện pháp phù hợp trình độ, thói quen sinh hoạt của cộng đồng. Trước hết, công tác tuyên truyền, vận động phải được triển khai mạnh mẽ trên phương tiện thông tin đại chúng cũng như không gian mạng. Cần thiết lập các trang thông tin vạch trần âm mưu, thủ đoạn của những tổ chức tôn giáo bất hợp pháp nói chung, nhất là tà đạo “thế hệ mới”.
Đối với cư dân đô thị có mặt bằng trình độ dân trí cao, cần đa dạng hình thức tuyên truyền, thường xuyên có những clip, những buổi livestream trình bày một cách khoa học, dễ hiểu về cách phân biệt giữa tôn giáo, tín ngưỡng được phép hoạt động và các tà đạo; những biểu hiện thường thấy của tà đạo, tác hại của tà đạo với đời sống. Đặc biệt, các trang thông tin cần tạo sự tương tác, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của cộng đồng.
Các tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... phải nâng cao trách nhiệm với thành viên, hội viên của mình trong ngăn chặn tà đạo thông qua công tác nắm bắt dư luận, tuyên truyền, phổ biến pháp luật./.
ST

NGUY HIỂM NẾU GIỚI TRẺ KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN LỊCH SỬ

 Đòi lật lại, xét lại lịch sử, đó là một trong những chiến lược chống phá Đảng và Nhà nước ta. Và để có thể trang bị cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ tấm áo giáp vững chắc trước những ngón đòn thâm độc ấy, thì giáo dục lịch sử là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Có hiểu được, nhớ được lịch sử nước nhà thì mới nhìn thấu được những giọng điệu đổi trắng thay đen, biến có thành không, xuất hiện hàng ngày, hàng giờ trên không gian mạng ấy là nhằm mục đích gì. Nhìn lại quá khứ, trong những thời kỳ khó khăn, gian khổ, nước sôi lửa bỏng, lịch sử hào hùng đã luôn là chỗ dựa, là niềm tự hào để toàn dân tộc vươn lên.

Thế nhưng, ngay trong thời bình, ấm no, hạnh phúc, đáng buồn là đã có sự xao nhãng nhất định trong câu chuyện giáo dục lịch sử. Để dẫn đến kết quả là giới trẻ không nhớ về sử, hiểu sai lịch sử và thậm chí là không quan tâm đến lịch sử. Mà không có kiến thức lịch sử thì làm sao hiểu được dân tộc, đất nước mình, làm sao hình thành nên bản lĩnh, bản sắc. Một đất nước mà không có bản lĩnh, bản sắc thì hòa nhập sẽ trở thành hòa tan. Và cùng với tác động những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử thâm độc thì nhiều hệ quả nguy hiểm có thể thấy rõ.
Trong khi việc truyền thụ kiến thức lịch sử trong nhà trường chưa hấp dẫn, giới trẻ vẫn tìm tới lịch sử qua các kênh khác như phim ảnh, sách báo.
Lấy ví dụ như phim lịch sử. Đây là dòng phim không thể thiếu đối với bất kỳ nền điện ảnh nào. Những sự kiện lịch sử của Hoa Kỳ là nguồn đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà làm phim Hollywood. Trung Quốc nổi tiếng với các phim lịch sử cả ở mảng điện ảnh và truyền hình. Hàn Quốc những năm gần đây cũng nỗ lực khai thác đề tài phim lịch sử, dã sử trên màn ảnh.
Còn Việt Nam, trong hơn 6 thập kỷ qua, tất nhiên là tính cả thời gian bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, nhưng Việt Nam chỉ có hơn 20 bộ phim về lịch sử. Một con số ít đến ngỡ ngàng khi nói về thành tích của phim lịch sử ra rạp. Có phim thậm chí còn bị đánh giá là thảm họa.
Trong khi trước đó, chúng ta đã từng gây tiếng vang với thế giới với hàng loạt các tác phẩm Bao giờ cho đến tháng mười, Cánh đồng hoang, Em bé Hà Nội… Có một thực tế, đó là với các quốc gia thành công trong dòng phim lịch sử, thì đòi hỏi sự đầu tư của các hãng phim, thậm chí là một chiến lược từ phía Chính phủ.
Không thích học lịch sử, không được nghe, đọc, hay xem lịch sử. Hậu quả không chỉ dừng lại ở những điểm số.
Khi lịch sử chính thống chưa tiếp cận được người trẻ, thì đồng nghĩa với việc chúng ta đang vô tình tạo ra một khoảng trống cho những thông tin thiếu chính xác, sai sự thật lịch sử mặc nhiên tung hoành mỗi ngày trên mạng.
Bức tranh về giáo dục lịch sử tại Việt Nam cũng không phải hoàn toàn chỉ là màu xám. Đã có một số điểm tích cực được ghi nhận thời gian gần đây qua việc một số dự án của những người trẻ nhằm truyền tải kiến thức lịch sử đến cộng đồng đã nhận được sự ủng hộ.
Lịch sử thường thức – phục chế màu và âm thanh của những hình ảnh lịch sử đen trắng, mỗi clip thu hút hàng triệu lượt xem.
Vietnam Centre - phục dựng phục trang cổ Việt đi kèm với các hoạt động tuyên truyền trong và ngoài nước. Cuốn sách do nhóm xuất bản: Dệt nên triều đại đã được 1 số trường đại học nước ngoài đưa vào thư viện.
Hay Việt Sử Kiêu Hùng - dự án phim dã sử phi lợi nhuận tái hiện những nhân vật lịch sử, trận đánh của dân tộc.
Dù vậy, đa số những dự án như thế này thường có quy mô nhỏ, phổ biến trong một nhóm hay cộng đồng những người yêu lịch sử. Vẫn cần một chiến lược tổng thể, từ nhiều phía, nhất là những cơ quan có trách nhiệm, để lịch sử đến gần hơn với đông đảo người dân, nhất là những người trẻ./.
St