Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

 

Dấu ấn của đồng chí Võ Văn Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

(LLCT) - Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23/11/1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, là nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Cách mạng Việt Nam, người cộng sản mẫu mực, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với 86 năm tuổi đời, 69 tuổi Đảng, cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông luôn nêu cao tấm gương sáng của một đảng viên kiên trung, một lãnh đạo sâu sát thực tiễn, có tầm nhìn chiến lược, có những quyết định mang ý nghĩa chiến lược đối với gây dựng và phát triển phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định, giữ vững và phát triển phong trào Khu 9, góp phần quan trọng vào đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.


1. Đồng chí Võ Văn Kiệt và những quyết định mang ý nghĩa chiến lược

Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng miền Nam ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng tiếp tục bị phá vỡ, nhiều đồng chí hy sinh. Về tổ chức, đây là giai đoạn các đảng bộ bị thiệt hại nặng nề. Hệ thống tổ chức đảng từ cấp xứ xuống đến các chi bộ bị đánh phá ác liệt. Số cán bộ cấp ủy bị thiệt hại lớn, số lượng đảng viên sụt giảm chưa từng thấy. Để các cơ quan lãnh đạo của Đảng có bộ máy tổ chức gọn nhẹ, vững chắc, dễ bám trụ hoạt động trong điều kiện bí mật, Bộ Chính trị quyết định “Bỏ Cục Trung ương miền Nam, thành lập Xứ ủy Nam Bộ và các Khu ủy”(1). Xứ ủy Nam Bộ là cấp trực thuộc Trung ương, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Nam Bộ. Phạm vi lãnh đạo của Xứ ủy gồm các Đảng bộ: Liên tỉnh miền Tây, Liên tỉnh miền Trung, Liên tỉnh miền Đông và Khu bộ Sài Gòn - Chợ Lớn. Theo chủ trương của Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ, Liên tỉnh ủy miền Tây được thành lập. Đồng chí Võ Văn Kiệt giữ chức Phó Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây(2).

Từ cuối năm 1959, đồng chí Võ Văn Kiệt, Xứ ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây được Xứ ủy điều động về Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí giữ chức Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn(3) (sau sáp nhập với Gia Định thành Khu Sài Gòn - Gia Định) thay đồng chí Nguyễn Văn Linh để khôi phục tổ chức.

Đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo xây dựng địa bàn Sài Gòn - Gia Định nhằm khôi phục và phát triển lực lượng, đưa phong trào cách mạng chuyển sang một bước ngoặt mới

Trong những  năm 1958 - 1959, cách mạng miền Nam ở vào thời kỳ đen tối nhất. Các đồng chí cán bộ lãnh đạo vừa phải đối phó với những cuộc ruồng bố, càn quét gắt gao của chính quyền Ngô Đình Diệm, vừa chịu sức ép lớn từ phía cơ sở và những người dân ủng hộ cách mạng. Chưa bao giờ Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định bị tổn thất và khó khăn như giai đoạn này. Hầu hết những cơ sở cũ mà đồng chí Võ Văn Kiệt nhận bàn giao đều vỡ. Nhiều khu ủy viên vừa nối được liên lạc đã bị bắt. Nhiều đồng chí lãnh đạo từ khu ủy, tỉnh ủy đến huyện ủy, quận ủy bị bắt, hy sinh.

Đồng chí Võ Văn Kiệt (lúc này bí danh là Chín Dũng) cùng các đồng chí lãnh đạo nhanh chóng nắm số đảng viên còn lại của Sài Gòn - Chợ Lớn, tiến hành ráo riết công tác giáo dục chính trị tư tưởng và sắp xếp tổ chức. Qua thực tiễn, đồng chí nhận thấy nội thành Sài Gòn không thể tách rời với vùng nông thôn ngoại thành thuộc tỉnh Gia Định, cơ quan lãnh đạo thành phố cũng không thể không có vùng căn cứ ở nông thôn để đứng chân.

Đồng chí Võ Văn Kiệt nhận thấy phương thức đồng khởi kết hợp chính trị, vũ trang giành chính quyền làm chủ nông thôn có mặt không phù hợp với vùng đô thị. Vũ trang ở đô thị không phải chỉ là chuyện "đánh đấm" - muốn đánh một trận hiệu quả ở đô thị thì phải chuẩn bị nhiều năm, với nhiều lực lượng phối hợp, đặc biệt phải dựa vào thế hợp pháp của người dân vùng địch, dựa vào các khu xóm lao động để lập kho vũ khí, phát huy khả năng dân vận của chiến sĩ biệt động. Đánh một đòn hiểm ở đô thị thì ảnh hưởng chính trị gấp nhiều lần một trận đánh ở nông thôn. Thế nhưng nếu địa bàn bị chia cắt, nội đô bị đơn độc trong chiến đấu thì phong trào đô thị khó lên. Nông thôn là nơi cách mạng có cơ sở vững chắc. Có thể tạo thế liên hoàn giữa nông thôn và đô thị nếu phối hợp được nhuần nhuyễn 3 vùng chiến lược: nông thôn, rừng núi và đô thị. Nông thôn ngoại thành từng bước giành được thế làm chủ, sẽ là căn cứ của lực lượng cách mạng khu Sài Gòn - Gia Định, nơi đứng chân và nơi xây dựng đào tạo các loại lực lượng hậu cần, bảo đảm hỗ trợ, xung kích... cho hoạt động vũ trang - chính trị ở vùng ven đô và nội đô. Có được sự hỗ trợ từ thế liên hoàn đó thì xây dựng được lực lượng, tiến hành được những trận đánh ngay trong lòng địch, có tác động chính trị hết sức lớn(4).

Nhanh chóng nắm bắt và đánh giá tình hình, đồng chí kiến nghị với Xứ ủy sáp nhập hai Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định(5)Mục tiêu chiến lược là: lấy Gia Định làm bàn đạp thâm nhập Sài Gòn - Chợ Lớn. Để tạo ra một thế trận mới và điều kiện thực hiện nhiệm vụ mới trên cơ sở thống nhất địa bàn trong và ven đô, từ ý kiến đề xuất thận trọng và sắc sảo của đồng chí Võ Văn Kiệt, đầu năm 1960, Xứ ủy chấp thuận giải thể Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định, hợp nhất thành lập Khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư(6). Với tầm tư duy chiến lược, tác phong sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi, trăn trở, ở mỗi giai đoạn đầy khó khăn, thử thách, đồng chí Võ Văn Kiệt trên những cương vị khác nhau, đã đóng góp quan trọng vào quá trình lãnh đạo cách mạng trên từng địa bàn được phân công, khôi phục, giữ vững và phát triển tổ chức, phong trào cách mạng, hơn nữa là góp phần quan trọng vào đường lối chỉ đạo cách mạng của Đảng trong những thời điểm khó khăn, quyết liệt. Ðồng chí là hình ảnh cao đẹp về một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, một người cộng sản chân chính trong trái tim của nhân dân.

Quyết định này có ý nghĩa chiến lược thúc đẩy sự khôi phục và phát triển của phong trào. Địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định tạo nên một vùng chiến lược có các lợi thế về thiên thời, địa lợi, nhân hòa trong phương châm 3 vùng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cuối năm 1959 đầu 1960, phong trào cách mạng Nam Bộ có những chuyển biến mới quan trọng, bắt đầu chuyển sang thế tiến công. Phong trào đồng khởi ở nông thôn đã tác động mạnh đến khu Sài Gòn - Gia Định. Từ tháng 2-1960, nhân dân nhiều vùng nông thôn ở Gia Định nổi dậy giành quyền làm chủ xóm, ấp. Ở nội thành Sài Gòn - Gia Định, Thành ủy chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, chĩa mũi nhọn vào chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, kết hợp với đòi quyền dân sinh, dân chủ cho quần chúng lao động. 

Qua 2 đợt Đồng khởi, đến giữa năm 1961, vùng nông thôn ngoại thành Sài Gòn - Gia Định đã có 30 xã được giải phóng, giáp liền với vùng giải phóng của Tây Ninh, Bình Dương, tạo ra vùng căn cứ tương đối an toàn cho Khu ủy Sài Gòn - Gia Định và cả Xứ ủy Nam Bộ(7). Địa bàn này thực tế đã trở thành "vành đai đỏ" để đánh địch. Vùng ven Gia Định luôn là bàn đạp để các lực lượng biệt động đứng chân, thường xuyên hoạt động, tập kết quân cho những trận đánh lớn, bí mật chuẩn bị cho các bước, các điều kiện bảo đảm để tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của lực lượng biệt động và các tiểu đoàn mũi nhọn, cùng một lúc tấn công vào nội đô. Địa bàn vùng ven thành phố cũng là nơi triển khai 5 cánh quân tiến vào giải phóng thành phố Sài Gòn mùa Xuân 1975.

Đây là thành công lớn có đóng góp quan trọng của đồng chí Võ Văn Kiệt với tư duy và sự chỉ đạo nhạy bén ở một địa bàn trọng yếu Sài Gòn - Gia Định.

Tích cực, nhanh chóng, kiên quyết chỉ đạo xây dựng lực lượng, cơ sở cách mạng nội thành

Sau khi hợp nhất, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định với sự chỉ đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy, chủ trương rút kinh nghiệm về tổ chức và công tác bí mật, chấn chỉnh phương thức hoạt động bí mật, ngăn cách giữa bí mật và công khai nhằm bảo tồn và tích lũy lực lượng lâu dài.

Tiếp thu sự chỉ đạo của Xứ ủy, quán triệt Nghị quyết Trung ương 15 và Nghị quyết Khu ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt chủ trương: bằng mọi cách, nhanh chóng, kiên quyết đưa nhiều cán bộ, đảng viên, đoàn viên và nòng cốt bí mật có nguy cơ bị giặc bắt vào ngay vùng căn cứ Tây Ninh, Củ Chi. Trong 9 tháng đầu năm 1960, gần trăm cán bộ của phong trào thanh niên học sinh, sinh viên nội thành Sài Gòn được tạm thời điều lắng ra vùng căn cứ.

Đồng chí Võ Văn Kiệt đã tích cực chỉ đạo kết hợp với việc điều hành cơ sở cách mạng nội thành để tổ chức các lớp học chính trị, gấp rút đào tạo một đội ngũ đông đảo cán bộ có trình độ chính trị, năng lực công tác đáp ứng phong trào cách mạng của thanh niên học sinh, sinh viên (TNHSSV) Sài Gòn - Gia Định.

Giữa năm 1960, Khu ủy mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cốt cán cho phong trào đô thị và nông thôn. Các lớp học tại vùng căn cứ "Rừng Già" tại căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), căn cứ "Rừng Xanh" vùng Bời Lời (xã Đông Thuận, Tây Ninh) đã đào tạo cho phong trào những cán bộ ưu tú đầu tiên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Trong quá trình chỉ đạo, tổ chức lớp "Rừng Già", đồng chí Võ Văn Kiệt tích cực chuẩn bị xây dựng lại tập thể lãnh đạo TNHSSV khu Sài Gòn - Gia Định để nhanh chóng thay thế Ban vận động HSSV thành phố Sài Gòn bị đánh phá thiệt hại nghiêm trọng. Đây là sự chỉ đạo kịp thời và có tính chiến lược, quyết định đối với phong trào TNHSSV khu Sài Gòn - Gia Định.

Xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phù hợp thực tiễn cách mạng đô thị Sài Gòn - Gia Định

Qua thực tiễn phong trào, đồng chí Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy nhận thấy cách tổ chức lực lượng vũ trang như ở các tỉnh đồng bằng Nam Bộ có vùng giải phóng rộng lớn chỉ thích hợp với địa bàn huyện Củ Chi, còn các huyện khác phải có hình thức tổ chức du kích, tự vệ thích hợp. Đó là tổ chức du kích mật, tự vệ mật, hoạt động theo phương châm: đánh đau, đánh hiểm nhưng không gây tiếng vang, giấu được mình để tồn tại được lâu dài ở các vùng địch còn chiếm đóng hoặc đang tranh chấp. Sự chỉ đạo kịp thời, phù hợp đã tạo cho phong trào chiến tranh du kích với lực lượng du kích, tự vệ công khai và bí mật phát triển thêm nhanh, đánh địch càng có hiệu quả(8).

Năm 1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập. Đồng chí Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) giữ trọng trách Ủy viên Trung ương Cục miền Nam(9).

Thực hiện chủ trương của Thường vụ Trung ương Cục về uốn nắn những lệch lạc trong và sau đồng khởi, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương lọc lại và củng cố các cơ sở cũ đã có, đồng thời đi sâu nhanh chóng xây dựng và phát triển cơ sở mới. Nhằm khai thác khả năng cách mạng và để thích hợp với từng đối tượng ngành, giới, Khu ủyđã thành lập các Ban vận động, tập trung cho phát triển thực lực cách mạng và công tác nội thành(10).

Đồng chí Lê Đức Anh nhớ về giai đoạn này, năm 1963, khi được cử vào Nam, về Bộ Chỉ huy Miền, sau khi ông báo cáo với Trung ương Cục ý kiến chỉ đạo (đồng chí Lê Đức Anh nhấn mạnh là “Ý kiến của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng”), theo đó: Phải xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang cả trong đô thị và vùng ven. Đồng chíTrần Văn Trà, Tư lệnh Miền nói: “Vấn đề đô thị phải mời anh Sáu Kiệt”(11). Đồng chí Võ Văn Kiệt khi đó đang ở Củ Chi, được mời ngay lên Miền để nghe chủ trương mới.

Thành công trong lãnh đạo cách mạng được đồng chí Võ Văn Kiệt đề ra là phải xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang trong nội thành Sài Gòn - Gia Định. Vũ trang là xây dựng biệt động giữa Sài Gòn. Biệt động hay trinh sát phải là người tại chỗ. Trên cương vị Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo làm và làm kiên quyết. Những đội biệt động Sài Gòn được thành lập và trở thành một lực lượng vũ trang đặc biệt nằm ngày trong sào huyệt địch.

Nhờ chuyển hướng chỉ đạo, trong vài năm, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã xây dựng được 8 tiểu đoàn biệt động, có khả năng tiến công địch ngay trong nội đô, không kể hai tiểu đoàn tập trung của nông thôn Gia Định. Những trận đánh xuất sắc là trận đánh ở khu vực sân bay Tân Sơn Nhất tháng 1-1964, diệt nhiều phi công Mỹ; trận đánh rạp chiếu bóng Kinh Đô dành riêng cho sĩ quan Mỹ ngày 16-2-1964 diệt hàng chục tên; trận đánh chìm chiến hạm Card trọng tải 15.000 tấn ngay trên sông Sài Gòn ngày 1-5-1964... Đặc biệt trận đánh sập khách sạn Brinh, nơi trú đóng của hơn 200 sĩ quan Mỹ, trận đánh tòa Đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi đầu năm 1965 làm Phó Đại sứ Mỹ bị thương. Đó là những đòn phủ đầu quân viễn chinh Mỹ khi chúng đang chuẩn bị vào miền Nam Việt Nam.

Khu ủy dưới sự chỉ đạo sắc sảo của Ban Thường vụ và người đứng đầu là Bí thư Võ Văn Kiệt đã chèo lái cuộc đấu tranh ở đô thị qua nhiều bước ngoặt, phối hợp cùng quân và dân miền Nam tiến vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968(12).

Nhờ tài năng chỉ đạo và tầm nhìn xa của một đồng chí lãnh đạo lớn trong kháng chiến, đặc biệt trong lãnh đạo phong trào đô thị, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã vượt qua thời kỳ mai phục, từ mức độ tiến công lẻ tẻ, đơn tuyến, hoặc với từng tổ nhỏ, đã đạt trình độ đánh được những đòn thối động có ảnh hưởng trong và ngoài nước với những đơn vị qui mô lớn, có các bộ phận trinh sát, hậu cần, xung kích..., có khả năng trở thành những mũi đột phá những điểm hiểm yếu, như đã diễn ra trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

2. Đồng chí Võ Văn Kiệt kiên quyết chỉ đạo giữ đất, giữ dân, chống địch lấn chiếm, kiên định con đường bạo lực cách mạng để giành thắng lợi cuối cùng

Năm 1969, Trung ương Cục cử đồng chí Võ Văn Kiệt về làm Bí thư Khu ủy Khu 9 (T3). Năm 1972, đồng chíVõ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, tiếp tục làm Bí thư Khu ủy Khu 9. Từ sau Hiệp định Paris ký kết đến năm 1975, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều về công tác ở Trung ương Cục, là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam phụ trách Mặt trận, dân vận và binh vận.

Trước khi về căn cứ Khu ủy Khu 9, đồng chí Võ Văn Kiệt đi một số tỉnh vừa nắm tình hình thực tế vừa chỉ đạo trực tiếp, rồi mới về họp với Khu ủy và Quân ủy. Tình hình đã nắm chắc rồi, nghe báo cáo tại cuộc họp chỉ để tham khảo thêm. Đồng chí Phạm Văn Hùng: "Có thể coi đây là một trong những phong cách làm việc của Anh Tám Thuận (tên hoạt động ở Khu 9): sâu sát cơ sở, thực tế, nắm chắc tình hình, từ thực tế và đường lối chủ trương của Đảng mà đề ra chủ trương, nghị quyết sát đúng, phù hợp"(13).

Đồng chí Võ Văn Kiệt nắm tình hình và truyền đạt Nghị quyết 10 của Trung ương Cục. Đồng chí Võ Văn Kiệt cùng các đồng chí trong Khu ủy bằng đường công khai hợp pháp xuống cơ sở để kiểm tra, nắm lại phong trào(14). Đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo “phải mở rộng công tác dân vận. Muốn lôi kéo dân về phải tập trung công tác binh vận, lôi kéo dân, lôi kéo thanh niên cầm súng cho địch trở về. Muốn thắng địch phải đẩy mạnh hoạt động vũ trang"(15).

Nhờ có chủ trương đúng đắn, cán bộ kiên quyết bám cơ sở, đến cuối năm 1971, phong trào Khu 9 hồi phục và phát triển đều.

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, trước tình hình địch vi phạm Hiệp định, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu, một mặt điện xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục, về mặt quân sự xin ý kiến của Bộ Chỉ huy Miền; một mặt quyết tâm đưa phong trào tiến công và phản công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Paris, trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm và bình định Chương Thiện của đối phương.

Đồng chí Võ Văn Kiệt cho rằng: Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân. Đồng chí Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả

Trên thực tế, trong quá trình đấu tranh với địch, nhất là sau khi Mỹ rút quân (29-3-1973), ta đã bộc lộ những thiếu sót khuyết điểm: "Một số ít đồng chí trong cơ quan lãnh đạo đã có xu hướng hoà hoãn, chủ trương ngừng tiến công một thời gian, xoá bỏ hình thái da báo, để ổn định mặt trận. Tuy nhiên, sau các cuộc thảo luận trong Bộ Chính trị và có ý kiến các chiến trường, xu hướng ấy đã không được chấp nhận"(16).

Đặc biệt tại Hội nghị binh vận Miền (họp tháng 4-1973) lại đề ra "5 cấm chỉ"(17) và chỉ đạo không được dùng vũ trang đánh địch... Đây là sai lầm lớn của lãnh đạo, gây ảnh hưởng xấu tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, để mất đất mất dân. Những thiếu sót, khuyết điểm trong nhận thức tình hình và lãnh đạo đấu tranh dẫn đến ở một số địa bàn quan trọng, nhất là các tỉnh thuộc Khu V,VI, VII, để địch đẩy mạnh lấn chiếm, bình định đã giành được một số đất và dân thuộc vùng làm chủ của ta(18).

Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục họp từ ngày 9 đến 10-3-1973, thống nhất nhận định tình hình miền Nam và nhấn mạnh nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam trong giai đoạn trước mắt là ngoài bạo lực vũ trang, chính trị, cần phải phát huy tác dụng của Hiệp định, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và pháp lý; tùy tình hình từng vùng, từng nơi để lựa chọn, vận dụng phương châm, phương thức đấu tranh chính trị hay vũ trang cho thích hợp.

Ở Tây Nam Bộ, ngay từ cuối tháng 1 đầu tháng 2-1973, Ban Thường vụ Khu ủy họp bất thường và sau đó triệu tập Hội nghị mở rộng, thảo luận và nhất trí với nhận định của Ban Thường vụ Trung ương Cục.

Do đặc điểm Khu 9 là vùng đồng bằng đông dân, ta và địch trong thế cài răng lược, nếu ta co lại, địch sẽ lấn tới ngay. Ta mất đất, mất dân là mất thế chiến lược. Khu ủy chủ trương, trong bất cứ tình huống nào cũng không được bỏ đất, bỏ dân. Hội nghị Thường vụ Khu ủy chủ trương tiếp tục tiến công, lấy đấu tranh vũ trang làm nòng cốt cho đấu tranh chính trị và binh vận. Chủ trương này được các cấp từ Khu đến cơ sở nhất trí cao.

Hội nghị Thường vụ Khu ủy nhận thấy Trung ương Cục phần nào chưa sát và chưa nắm chắc tình hình đặc điểm của Khu 9, nên chủ trương của Trung ương Cục (lấy đấu tranh chính trị làm chính - kết hợp đấu tranh vũ trang, rút phần lớn lực lượng vũ trang về tập trung chỉnh huấn) không phù hợp đối với Khu 9(19).

Khu ủy đã rút kinh nghiệm xương máu trong những năm thi hành Hiệp định Giơnevơ, giai đoạn Mỹ lật lọng không chịu ký Hiệp định Paris. Khu ủy yêu cầu các cấp chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của Thường vụ, nơi nào bỏ đất, bỏ dân là cấp ủy nơi đó có tội lớn với Đảng, với dân.

Đồng chí Võ Văn Kiệt đã cùng với Thường vụ đưa ra “Kế hoạch thời cơ” ngay khi Hiệp định Paris đang được chuẩn bị ký kết, kịp thời bẻ gãy Chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ” của Tổng thống Việt Nam cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu.

Theo tinh thần đó, quân và dân miền Tây Nam Bộ vừa đánh địch bình định lấn chiếm, vừa tố cáo địch vi phạm Hiệp định Paris và đã giành được những thắng lợi bước đầu. Sau hai tháng, bằng kinh nghiệm và thực tiễn ở chiến trường, Khu ủy Tây Nam Bộ kiên trì đề nghị Trung ương Cục và Trung ương Đảng chủ trương: "Đẩy mạnh ba mũi tiến công kết hợp pháp lý của Hiệp định Paris, kiên quyết chặn bàn tay hiếu chiến của Mỹ - ngụy" và nêu rõ: "nếu không chống địch lấn chiếm thì không còn đất để ở, mất dân, mất đất thì không còn gì cả".

Khó khăn của Khu 9 lúc đó là làm thế nào để vận dụng được và chấp hành chủ trương của cấp trên. Khu ủy xác định chịu trách nhiệm trước Trung ương về chủ trương của mình. Tháng 4-1973, Trung ương Cục triệu tập Hội nghị rút kinh nghiệm. Đồng chí Võ Văn Kiệt được cử đi dự Hội nghị, với chủ trương và quan điểm đã được thống nhất trong Thường vụ Khu ủy. Sau khi nghe báo cáo, các đồng chí Trung ương Cục tán thành chủ trương của Khu 9.

Bộ Chính trị sau đó đã triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 30-4-1973, đồng chí Võ Văn Kiệt ra Trung ương họp, báo cáo tình hình. Mặc dù lúc đầu còn có những ý kiến trái ngược nhau, nhưng chủ trương và đề nghị của Khu ủy Tây Nam Bộ được đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục ủng hộ và được đồng chí Võ Văn Kiệt phản ảnh trực tiếp thực tế chiến trường tại Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (7-1973). Sau nhiều tuần tranh luận, Chiến trường Khu 9 đã là một thực tế có sức thuyết phục cao, chủ trương sau Hiệp định Paris được Bộ Chính trị xác định lại: Tiếp tục con đường bạo lực cách mạng.

Với tầm tư duy chiến lược, tác phong sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi, trăn trở, ở mỗi giai đoạn đầy khó khăn, thử thách, đồng chí Võ Văn Kiệt trên những cương vị khác nhau, đã đóng góp quan trọng vào quá trình lãnh đạo cách mạng trên từng địa bàn được phân công, khôi phục, giữ vững và phát triển tổ chức, phong trào cách mạng, hơn nữa là góp phần quan trọng vào đường lối chỉ đạo cách mạng của Đảng trong những thời điểm khó khăn, quyết liệt. Ðồng chí là hình ảnh cao đẹp về một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, một người cộng sản chân chính trong trái tim của nhân dân.

_________________

Ngày nhận: 12-11-2022; Ngày bình duyệt: 17-11-2022; Ngày duyệt đăng: 22-11-2022.

 

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.281.

(2) Phó Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây (1954-1960), Phó Bí thư Khu ủy Khu 9 năm 1957-1959. Xem Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Viện Lịch sử Đảng. GS, TS Trịnh Nhu (Chủ biên): Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.1431.

(3) Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định 1960-1964 và 1966-1970.

(4) Theo Nguyễn Trọng Xuất: Đồng chí Võ Văn Kiệt với lực lượng vũ trang đô thị, In trong Dấu ấn Võ Văn Kiệt, Tạp chí Xưa và Nay - Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr.125-127.

(5),(7),(8) Ban Chấp hành Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, tập II (1954-1975) Sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.95, tr.102, tr.101

(6), (10)Lịch sử Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.316-317, tr.334.

(9) Xem Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Viện Lịch sử Đảng. GS, TS Trịnh Nhu (Chủ biên): Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.1385.

(11) Nhiều tác giả: Võ Văn Kiệt người thắp lửa, NXB Trẻ, 2010, tr.21.

(12) Ngày 27-9-1967, đồng chí Lê Đức Thọ điện gửi đồng chí Nguyễn Văn Linh thông báo một số tình hình và chỉ đạo việc bố trí nhân sự cho Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Theo đó, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Phó Bí thư Khu ủy, trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn. Tháng 7-1968, Bộ Chỉ huy Miền quyết định các phân khu giao lại địa bàn các quận nội thành lại cho Phân khu 6. Thành ủy Sài Gòn - Gia Định được tăng cường do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư[1].

(13) Nhiều tác giả: Võ Văn Kiệt người thắp lửa, Nxb Trẻ, 2010, tr.23.

(14), (19) Bài nói chuyện của đồng chí Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) Bí thư Thành ủy Sài Gòn, nguyên là Bí thư Khu ủy Khu 9 cũ, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30-12-1975. Tài liệu lưu Phòng tư liệu Viện Lịch sử Đảng.

(15) Theo cuốn Dấu ấn Võ Văn Kiệt, Tạp chí Xưa và Nay - Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr231.

(16) Võ Nguyên Giáp: Đồng chí Lê Duẩn - Người cộng sản trung kiên, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam (trong cuốn Lê Duẩn - Một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.39-40).

(17) "5 cấm chỉ": Cấm tiến công địch; cấm đánh địch đi càn quét, lấn chiếm; cấm bắn pháo vào đồn địch; cấm bao vây đồn bốt địch; cấm xây dựng xã ấp chiến đấu. Ngoài 5 cấm chỉ trên, Trung ương Cục còn chỉ đạo các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari, không được dùng vũ trang đánh địch và dùng đấu tranh chính trị làm chính. (Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến, xuất bản 12-2000, tr.707).

(18) Tính đến giữa năm 1973, ở Khu V, địch đã lấn chiếm 320 ấp, 26 vạn dân; Khu VI và VII ta mất 308 ấp, 29 vạn dân; Khu VIII mất 120 ấp và 10 vạn dân.

Nguồn: PGS, TS TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH 

Viện Lịch sử Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc

 Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã  vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.

1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.

Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.

Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.

Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngòai của Hồ Chí Minh.

a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam

Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.

Bác Hồ với các cháu thiếu nhi vùng cao Việt Bắc (1960)

Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.

b- Thực tiễn cách mạng thế giới

Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:

“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.

LHQ-ST

 

 

Kết quả bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII

(LLCT) - Sáng 28-1-2016, tại phiên bế mạc Đại hội XII của Đảng, thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Đinh Thế Huynh đã báo cáo kết quả Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII. Tạp chí Lý luận chính trị trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

 

I. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thực hiện quy trình bầu cử theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế bầu cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, thảo luận dân chủ, thống nhất cao số lượng ủy viên Bộ Chính trị khóa XII gồm 19 đồng chí, tiến hành bầu Bộ Chính trị một lần đủ số lượng 19 đồng chí: 

1. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư 
2. Đồng chí Trần Đại Quang 
3. Đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân 
4. Đồng chí Ngô Xuân Lịch 
5. Đồng chí Tô Lâm 
6. Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc 
7. Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân 
8. Đồng chí Đinh Thế Huynh 
9. Đồng chí Phạm Minh Chính 
10. Đồng chí Tòng Thị Phóng 
11. Đồng chí Vương Đình Huệ 
12. Đồng chí Trần Quốc Vượng 
13. Đồng chí Phạm Bình Minh 
14. Đồng chí Trương Thị Mai 
15. Đồng chí Trương Hòa Bình 
16. Đồng chí Nguyễn Văn Bình 
17. Đồng chí Võ Văn Thưởng 
18. Đồng chí Đinh La Thăng 
19. Đồng chí Hoàng Trung Hải 

II- Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất rất cao bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tái cử Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. 

III- Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị phân công một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị tham gia Ban Bí thư. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 3 đồng chí vào Ban Bí thư gồm : 

1. Đồng chí Lương Cường 
2. Đồng chí Nguyễn Văn Nên 
3. Đồng chí Nguyễn Hòa Bình 

IV- Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII gồm 21 đồng chí: 
1. Đồng chí Trần Quốc Vượng 
2. Đồng chí Mai Trực 
3. Đồng chí Nguyễn Đức Hải 
4. Đồng chí Sa Như Hòa 
5. Đồng chí Bùi Thị Minh Hoài 
6. Đồng chí Nguyễn Thanh Sơn 
7. Đồng chí Nguyễn Văn Nhân 
8. Đồng chí Tô Quang Thu 
9. Đồng chí Trần Cẩm Tú 
10. Đồng chí Nguyễn Công Học 
11. Đồng chí Võ Minh Khương 
12. Đồng chí Nguyễn Văn Doanh 
13. Đồng chí Nguyễn Thị Bích Ngà 
14. Đồng chí Hà Quốc Trị 
15. Đồng chí Cao Văn Thống 
16. Đồng chí Vũ Khắc Hùng 
17. Đồng chí Nghiêm Phú Cường 
18. Đồng chí Nguyễn Thế Toàn 
19. Đồng chí Nguyễn Quốc Hiệp 
20. Đồng chí Huỳnh Thị Xuân Lam 
21. Đồng chí Trần Tiến Hưng 

Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, làm Chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII

(Nguồn: http://daihoi12.dangcongsan.vn/)

Xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc, cuội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam

 Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Đảng luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

Vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống nhất bởi hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh kéo dài chưa kịp được khắc phục, đất nước bị bao vây, cấm vận, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết… Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên.

Chỉ thị số 17-CT/TW của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của Mặt trận, đề cao vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, có ý nghĩa thiết thực đối với việc tạo ra sức mạnh nội sinh để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng; tạo điều kiện, tiền đề để phá bỏ bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần động viên Nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp mở rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch Covid-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động Nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...

Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thể của Việt Nam trên trường quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn phát triển mới, cao hơn, sâu sắc hơn.

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

LHQ-ST

KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG CÁN BỘ NÉ VIỆC


Thời gian qua, tình trạng cán bộ né việc, né trách nhiệm diễn ra khá phổ biến ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế-xã hội đất nước, gây bức xúc trong xã hội.
Mặc dù lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo quyết liệt để khắc phục, tuy nhiên tình trạng trên vẫn chưa chấm dứt. Do đó, cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để làm thay đổi nhận thức, thái độ của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đồng thời kiên quyết thay thế những cán bộ thiếu trách nhiệm, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Nguy hiểm từ nhận thức “không làm thì không sai”
Hiện tượng cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám thực thi công vụ không phải là hiện tượng đơn lẻ mà diễn ra ở nhiều địa phương, kể cả một số bộ, ngành Trung ương. Tâm lý sợ sai thể hiện rõ trong giải ngân vốn đầu tư công, quản lý đất đai, bất động sản, mua sắm trang thiết bị khu vực công, cung cấp dịch vụ liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp, đã được báo chí phản ánh.
Tâm lý sợ sai từ những lĩnh vực nhạy cảm có dấu hiệu lan rộng sang nhiều lĩnh vực, thậm chí xuất hiện hiện tượng né việc, cán bộ không muốn ký bất cứ văn bản nào.
Đặc biệt, cán bộ trong quá trình luân chuyển công tác càng có biểu hiện ngại việc, có tâm lý thủ thế, tránh sai sót, để chờ hết thời gian luân chuyển. Có đơn vị phản ánh họ rất nản lòng với một vị cán bộ thuộc diện này, bởi bất cứ văn bản nào trình lên cũng bị vị cán bộ này hỏi ngược lại rằng: “Tôi có đủ thẩm quyền ký không?”, rồi lưu văn bản đó lại để nghiên cứu, gây ách tắc công việc, mặc dù những văn bản trên hoàn toàn đúng thẩm quyền và theo thông lệ thường kỳ.
Điều này làm trì trệ và chậm trễ nền công vụ, bào mòn và giảm niềm tin của người dân, ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế-xã hội; cản trở nguồn lực và động lực phát triển, nhất là trong tình hình khó khăn hiện nay.
Đáng lo ngại là đang có lối nghĩ khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức là "không làm thì không sai". Đây là dấu hiệu "tự diễn biến" trong tư tưởng chính trị của cán bộ, công chức, gây cản trở nghiêm trọng tới kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và sự phát triển chung của đất nước.
Phát biểu tại Quốc hội, đại biểu Quốc hội Nguyễn Hữu Thông cho biết, có tình trạng bất an, sợ sai, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, có cán bộ đã tâm sự rằng "thà đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước hội đồng xét xử".
Thực tế diễn biến tư tưởng này cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đang phân tách việc vi phạm kỷ luật với vi phạm pháp luật. Họ cho rằng vi phạm kỷ luật công vụ thì bị kỷ luật đảng (với các hình thức: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ), kỷ luật hành chính với các hình thức: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm (đối với cán bộ) hay khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, buộc thôi việc (đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý), hoặc là khiển trách, cảnh cáo, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc (với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý). Nhưng nếu vi phạm pháp luật thì cán bộ, công chức có thể sẽ phải chịu án hình sự, có thể phải ngồi tù.
Theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, có 4 nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến tâm lý sợ sai, trong đó năng lực chuyên môn của bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; người đứng đầu một số đơn vị chưa nêu gương nghiêm túc; thể chế về kinh tế-xã hội còn bất cập, chồng chéo hoặc có vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa được sửa kịp thời.
Công cuộc chống tham nhũng đang được đẩy mạnh, nhiều cán bộ, công chức sai phạm nghiêm trọng bị kỷ luật, khởi tố dẫn đến một bộ phận có tâm lý sợ sai. Nhìn nhận với góc độ tư tưởng chính trị, đồng chí Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh rằng, dù vì nguyên nhân nào thì cán bộ sợ sai, không dám làm là vi phạm quy định, có biểu hiện suy thoái, cần nghiêm khắc phê phán và phải có giải pháp để triệt tiêu hiện tượng tiêu cực này.
Đổ lỗi cho việc sợ sai phạm pháp luật để né việc, đùn đẩy trách nhiệm chỉ là một cách ngụy biện, bởi thực tế, cùng quy định pháp luật, cùng cơ chế nhưng một số địa phương vẫn thực hiện tốt đầu tư công, tăng trưởng kinh tế, phát triển doanh nghiệp, cán bộ vẫn năng động, sáng tạo, dám làm và làm tốt. Do đó, không thể đổ lỗi hoàn toàn do vướng mắc về quy định, cơ chế để không thực thi công vụ.
Thủ thuật để chây ì công việc
Nhìn ở khía cạnh luật pháp, đồng chí Lê Thanh Vân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội cho rằng, hành vi không làm gì cả là vi phạm pháp luật bởi không thực hiện bổn phận, nghĩa vụ mà Nhà nước trao. Như vậy là vô trách nhiệm và vi phạm pháp luật, phải xử lý.
Tuy nhiên, tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện nay chưa thấy những quy định cụ thể để xử lý cán bộ, công chức né việc, chỉ thấy các quy định xử lý khi cán bộ không chấp hành giờ làm việc, nghỉ việc không đúng quy định, làm việc riêng trong giờ hành chính... Còn khi cán bộ, công chức vẫn ở cơ quan theo đúng quy định thì không dễ để xử lý khi công việc chưa hoàn thành.
Thời gian qua, xuất hiện một kiểu hành xử khá "cù nhầy" trong thực thi công vụ, ấy là cứ gửi văn bản lên hỏi cấp trên, hỏi các cơ quan quản lý ngành, mặc dù theo quy định của pháp luật thì cơ quan, địa phương ấy đủ thẩm quyền để quyết định, xử lý công việc và chịu trách nhiệm. Cơ quan quản lý ngành khi nhận được văn bản lại trả lời rất chung chung là: “Đề nghị thực hiện theo đúng quy định của pháp luật”.
Như vậy là "quả bóng" trách nhiệm cứ được đá qua đá lại giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương. Công việc cứ bị đình trệ, thiệt hại thì rất lớn, nhưng cũng không thấy ai phải chịu trách nhiệm. Bởi thực tế là với một cán bộ không tham mưu hay ký quyết định bị phát hiện là sai phạm pháp luật thì cũng không dễ để xử lý, kỷ luật họ. Công việc chưa thông nhiều khi được cán bộ giải thích rằng chưa đủ căn cứ pháp luật để giải quyết và việc gửi các văn bản hỏi lòng vòng một cách không cần thiết cũng được giải thích là quá trình thực thi nhiệm vụ, không dễ để bắt lỗi.
Giao nhiệm vụ, chỉ tiêu, thời hạn rõ ràng và thay thế cán bộ
Để giải quyết tình trạng chây ì, né việc, né trách nhiệm trong cán bộ, công chức hiện nay, nên nghiên cứu thực hiện một số giải pháp sau:
Trước hết, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực chất của công tác cán bộ. Cần phải chọn bằng được những cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh, dám làm, dám chịu trách nhiệm để giao trọng trách. Muốn vậy thì phải thực hiện tốt quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Công tác cán bộ có sạch thì Đảng mới mạnh, tổ chức mới mạnh, công việc mới thông, quốc gia mới phát triển.
Thứ hai, cần thường xuyên xem xét, sửa đổi các luật, các quy định không phù hợp với thực tiễn, để luật mang tính khả thi cao, tránh rủi ro cho đội ngũ cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ.
Thứ ba là phải quy trách nhiệm cho người đứng đầu. Chọn cán bộ tốt đồng thời cũng phải có phương pháp và quy định để đánh giá đúng chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ. Một cán bộ tốt nhưng được giao vào một vị trí công việc chưa phù hợp cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ đó. Nếu cán bộ giữ vị trí chủ trì thì sẽ ảnh hưởng tới chất lượng công việc của cơ quan, đơn vị.
Do vậy, cần giao nhiệm vụ, giao chỉ tiêu cho cơ quan, đơn vị và cho cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị ấy một cách rõ ràng. Nếu không hoàn thành chỉ tiêu thì cần xem xét điều chuyển cán bộ ấy sang một vị trí khác, chọn người khác phù hợp hơn. Việc giao chỉ tiêu và quy trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ cho người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị có tác dụng rất lớn đến việc đốc thúc để công việc chạy.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo rất quyết liệt là: “Ai không dám làm thì mạnh dạn đứng sang một bên cho người khác làm”, tỏ rõ thái độ đối với những cán bộ trì trệ, sợ trách nhiệm, né việc. Do vậy, những đơn vị, địa phương nào bị phản ánh nhiều về sự trì trệ, biểu hiện né tránh trách nhiệm thì cần xem xét trách nhiệm của người đứng đầu và có giải pháp thay thế phù hợp. Phải đả phá để thay đổi hẳn quan niệm “không làm thì không sai” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thấy rằng: Không làm mà gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị quy trách nhiệm, bị xử lý.
Thứ tư là đối với cán bộ trong diện quy hoạch, được luân chuyển công tác, cần xem xét kỹ chất lượng hoàn thành nhiệm vụ ở vị trí luân chuyển. Không nên để tồn tại tâm lý “án binh bất động” trong một bộ phận cán bộ thuộc diện quy hoạch được luân chuyển để thử thách. Chính thời gian luân chuyển này là cơ hội để cán bộ thể hiện rõ năng lực, nhiệt huyết cống hiến của mình, từ đó tổ chức mới sắp xếp cán bộ theo quy hoạch.
Thứ năm là cần xây dựng và áp dụng các công cụ để định lượng, đánh giá một cách chính xác, khoa học chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Hiện nay, công tác đánh giá cán bộ còn cảm tính, chưa có các công cụ để đo lường hiệu quả chất lượng hoàn thành nhiệm vụ. Ở những nơi công việc bị tắc nghẽn, chậm trễ thì cán bộ vẫn có thể được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ở các nước phát triển, có rất nhiều công cụ để đo lường hiệu quả làm việc của nhân sự, ví dụ như chỉ số KPI mà hiện nay nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã áp dụng khá hiệu quả. Chỉ số này có tiêu chuẩn chung, dựa vào đó, mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp sẽ xây dựng, điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù lĩnh vực của mình. Tuy nhiên, muốn đánh giá được hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức thì các chỉ tiêu, nhiệm vụ, thời hạn hoàn thành được giao cho các bộ, ngành, địa phương cũng phải hết sức cụ thể, rõ ràng.
Thứ sáu là cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tinh thần “7 dám: Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Hiện nay đã có Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Thế nhưng, Kết luận số 14-KL/TW cần được thể chế hóa thành các quy định cụ thể của pháp luật, từ đó cán bộ có chỗ dựa mới tự tin khi thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung.
Thứ bảy là đối với cá nhân cán bộ, đảng viên, phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh, đạo đức cách mạng, năng lực, trình độ. Khi người cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình sẽ luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng.
Đồng thời, đạo đức cách mạng sẽ thúc đẩy người cán bộ, đảng viên nhiệt huyết trong thực hiện nhiệm vụ, không thể đành lòng nhắm mắt làm ngơ trước một núi công việc, không thể làm ngơ trước sự trông mong, tin tưởng của tổ chức, xã hội và nhân dân. Bản lĩnh của người cán bộ được thể hiện ở ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ, kiên cường, dũng cảm, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung.
Cùng với đó, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Người cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tiễn sẽ tạo ra niềm tin và chỗ dựa vững chắc cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền, làm cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền không hoài nghi, dao động trước những quyết định của mình. Từ đó, tổ chức, cơ quan, đơn vị luôn có bầu không khí sôi nổi, tự tin trong mọi hoạt động.
Khi những yếu tố nêu trên được tích lũy đầy đủ, người cán bộ sẽ luôn phát huy tốt tinh thần “7 dám”, không sợ trách nhiệm, không né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm.
Nguồn QĐND

XEM XÉT LỘ TRÌNH CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG TẠI PHIÊN HỌP THÁNG 10


Tại phiên họp thường kỳ tháng 10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về các vấn đề kinh tế - xã hội, tài chính ngân sách và lộ trình cải cách tiền lương sau khi Trung ương đã xem xét và có kết luận nội dung này.
Chiều 28.9, phát biểu bế mạc phiên họp thứ 26 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, phiên họp đã hoàn thành 18 nhóm nội dung của chương trình phiên họp; trọng tâm là các nhóm nội dung chuẩn bị cho kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho ý kiến bằng văn bản đối với một số báo cáo khác. Trong đó trọng tâm toàn bộ phiên họp tháng này để cho ý kiến vào các nội dung trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, tại phiên họp thường kỳ tháng 10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến với một số nội dung rất quan trọng.
Trong đó, phiên họp tháng 10 sẽ cho ý kiến về các vấn đề kinh tế - xã hội, tài chính ngân sách và lộ trình cải cách tiền lương sau khi Trung ương đã xem xét và có kết luận nội dung này.
"Đây là nội dung quan trọng nhất phải chờ Trung ương họp xong thì chúng ta mới có căn cứ để xem xét, quyết định", Chủ tịch Quốc hội nói.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho ý kiến về công tác chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn tại kỳ họp thứ 6.
Đồng thời cho ý kiến đối với báo cáo kết quả rà soát hệ thống văn bản pháp luật theo yêu cầu tại Nghị quyết 101/2023/QH15. Đề nghị tổ công tác phối hợp với Chính phủ để có báo cáo thẩm tra sơ bộ về nội dung này.
Trong tháng 10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến đối với phương án sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương 2022; việc sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương 2021 đã bố trí cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện chính sách hỗ trợ ưu tiên nhà ở cho người lao động còn dư.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, đây là nội dung rất quan trọng liên quan đến phân bổ sử dụng dự phòng ngân sách với một số nội dung thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo Chủ tịch Quốc hội, riêng số tiền tăng thu của ngân sách năm 2021 rất lớn, của ngân sách Trung ương là 196.000 tỉ đồng, trong đó dự kiến dành 78.000 tỉ đồng cho cải cách chính sách tiền lương, bổ sung 65.000 tỉ đồng cho các dự án đầu tư trọng điểm...
Chủ tịch Quốc hội một lần nữa nhấn mạnh, đây là nội dung rất quan trọng, các Ủy ban của Quốc hội phải phối hợp chặt chẽ với nhau để thực hiện.
Tại buổi tiếp xúc cử tri mới đây, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung chia sẻ, thời gian qua, nhiều cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phải bỏ việc vì lương thấp.
Để tạm thời bù đắp một phần thu nhập, đảm bảo đời sống cho người dân, ngày 1.7.2023, Chính phủ đã thực hiện điều chỉnh tiền lương cơ sở và đang thực hiện lộ trình cải cách chính sách tiền lương.
“Cải cách chính sách tiền lương là việc không thể không làm và sẽ có nhiều điểm mới, lộ trình bắt đầu từ việc bãi bỏ lương cơ sở. Đây là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thông tin thêm, bên cạnh việc bỏ lương cơ sở, Chính phủ sẽ thiết kế song song 5 bảng lương mới, gồm: bảng lương đối với lãnh đạo, cán bộ quản lý; bảng lương của đối tượng làm chuyên môn nghiệp vụ; bảng lương đối với lực lượng vũ trang...
Riêng lực lượng vũ trang có 3 bảng lương gồm mức lương cho sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp; quân nhân quốc phòng và quân nhân của lực lượng công an./.
Báo Lao động

KHÔNG TÔN GIÁO, TÍN ĐỒ TÔN GIÁO NÀO ĐƯỢC ĐỨNG NGOÀI PHÁP LUẬT.


Đã từ lâu, trong thực hiện “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam. Họ thường căn cứ vào việc chính quyền, cơ quan chức năng của Việt Nam xử lý các cá nhân, tổ chức tôn giáo vi phạm hành chính trên các lĩnh vực như đất đai, xây dựng, môi trường hay vi phạm trong các hoạt động tôn giáo để thông qua một vài trang mạng thiếu thiện chí ở hải ngoại lu loa tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo rằng ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, chính quyền Việt Nam hạn chế, thậm chí đàn áp tôn giáo. Ví dụ như, mới đây, trang “Bàn Tròn Đa Tôn Giáo Việt Nam” phát video trực tiếp với nội dung xuyên tạc, nói xấu, vu cáo chính quyền Việt Nam đàn áp các tổ chức tôn giáo của người dân tộc thiểu số; ngăn cấm quyền tự do tôn giáo của người dân, bắt giữ trái pháp luật các nhà hoạt động chính trị...
Chúng ta chẳng lạ gì cái “điệp khúc” đã cũ mèm này. Dù bằng luận điệu, chiêu thức gì, tinh vi, biến ảo đến đâu đi chăng nữa các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được sự thật, không thể đánh lừa được dư luận.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định bảo đảm tự do tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc…”. Tại Khoản 1, Ðiều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng đầy đủ hơn nguyện vọng và nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Chính phủ Việt Nam cũng ban hành các Nghị định và nhiều văn bản luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ngày càng tốt hơn.
Cùng với hoàn thiện hệ thống pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân nói chung và của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói riêng luôn được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm trên thực tế. Đến năm 2021, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân, với khoảng 27 triệu tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm bảo đảm hoạt động bình thường về tín ngưỡng, tôn giáo của người dân nói chung và của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Dù có đức tin, hệ thống giáo lý và giáo luật khác nhau, nhưng các tôn giáo ở Việt Nam có chung điểm tương đồng đó là luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, theo phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”. Đồng bào các tôn giáo luôn là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đó là điều đã được thực tiễn khẳng định. Đồng bào các tôn giáo nói chung và cộng đồng tôn giáo của người dân tộc thiểu số nói riêng đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, huy động nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ngày nay.
Các “tổ chức tôn giáo...”, “nhà hoạt động chính trị”... mà trang “Bàn Tròn Đa Tôn Giáo Việt Nam” đề cập đến trong video nói trên thực chất đó là những cá nhân, tổ chức, hội, nhóm tôn giáo trá hình, hoạt động trái pháp luật, lợi dụng tôn giáo để gây rối an ninh trật tự, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Thời gian qua, ở Việt Nam xuất hiện tình trạng một số tổ chức, hội, nhóm tôn giáo trá hình, hoạt động trái pháp luật núp bóng tôn giáo để trục lợi. Mục đích chính của các tổ chức, hội, nhóm này không phải vì tự do tôn giáo đúng nghĩa mà là nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam; chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức, hội, nhóm này thường xuyên kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ nội bộ các tôn giáo, phá hoại sự ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc; kích động các hoạt động gây phức tạp về an ninh, trật tự; móc nối với các tổ chức phản động bên ngoài nhằm mục đích chính trị. Mang danh nghĩa tôn giáo, các tổ chức, hội, nhóm trái pháp luật luôn tận dụng mọi cơ hội có thể để quốc tế hóa, chính trị hoá những vấn đề trong nước nhằm thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế từ đó gây sức ép với chính quyền. Chưa dừng ở đó, các cá nhân, tổ chức, hội, nhóm này còn mưu toan tập hợp lực lượng, quy tụ những phần tử cực đoan trong các tôn giáo, xây dựng tổ chức, hình thành các cơ sở, mạng lưới để khi cần là có ngay lực lượng... Như vậy, có thể thấy mục đích của các cá nhân, tổ chức, hội, nhóm này không gì khác là thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá Việt Nam.
Việc các cơ quan của chính quyền tiến hành các biện pháp đấu tranh ngăn chặn, xử lý đối với những hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức, hội, nhóm nói trên là việc làm bình thường. Hoàn toàn không có chuyện Việt Nam “ngăn cấm quyền tự do tôn giáo” của người dân, không bắt giữ các “nhà hoạt động chính trị” trái pháp luật. Những trường hợp mà trang “Bàn Tròn Đa Tôn Giáo Việt Nam” đề cập đến thực chất đó là các hội, nhóm, điểm sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật; là những công dân đã lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật. Để giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, các cơ quan chức năng của Việt Nam buộc phải áp dụng các biện pháp quản lý theo đúng thẩm quyền. Việc bắt giữ, xử lý đối với các đối tượng được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự và xét xử đúng người, đúng tội, thể hiện tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Ở Việt Nam mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tất cả những ai không xuất phát từ lý do tôn giáo, không vì mục đích tự do tôn giáo đúng nghĩa, mà lợi dụng tôn giáo để gây mất ổn định xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước là vi phạm pháp luật Việt Nam và họ sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật.
Cũng như các quyền tự do khác của công dân, việc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đều phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Tôn trọng và bảo đảm tự do tôn giáo nhưng pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm các hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá, xâm phạm quyền, lợi ích của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, cá nhân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ các tôn giáo. Bên cạnh việc thực hiện các quyền tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng, tôn giáo mỗi tổ chức, tín đồ tôn giáo còn phải thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. Không tôn giáo, tín đồ tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật và lợi ích quốc gia, dân tộc. Cũng như các quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động tôn giáo ở Việt Nam đều cần phải có sự quản lý của chính quyền. Mục đích của việc làm này là nhằm tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân. Ở Việt Nam không có chỗ cho những hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật.

ĐỂ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM THỰC SỰ GÓP PHẦN TRỰC TIẾP VÀO SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI” TRONG THỜI KỲ MỚI


Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức của Đảng ta về văn học nghệ thuật và nhất là về vị trí vai trò của văn học nghệ thuật đối với xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam đã được thể hiện tập trung trong Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khóa VI, được phát triển toàn diện và sâu sắc trong Nghị quyết TW5 khóa VIII, Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X và Nghị quyết TW9-Khóa XI.
Tại các nghị quyết này, Đảng ta đã xác định: Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt nhạy cảm và tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người, có tác dụng đặc biệt trong việc vun trồng, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân cách, đạo đức, trí tuệ bản lĩnh cho các thế hệ con người.
Khi khẳng định vị trí vai trò quan trọng này là để nhấn mạnh tính đặc thù, ưu thế đặc biệt của văn học nghệ thuật so với các lĩnh vực khác như gia đình, nhà trường, xã hội trong sự nghiệp trồng người. Từ sự nhận thức toàn diện, sâu sắc này cùng với kết quả đổi mới tư duy cách nghĩ cách làm văn nghệ, Đảng ta đã có Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới – nghị quyết chuyên đề này là Đường lối, chiến lược phát triển lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt nhạy cảm và tinh tế của văn hóa trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế.
Lao động nghệ thuật từng bước được cải thiện, tự do sáng tạo nghệ thuật
Nhìn lại gần 24 năm thực hiện nghị quyết chuyên đề này, chúng ta có quyền tự hào nhận thấy rằng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, sự nghiệp phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc đã mở rộng không gian sáng tạo cho văn học nghệ thuật; cùng những tác động mạnh mẽ của tư tưởng đổi mới, điều kiện lao động nghệ thuật từng bước được cải thiện, tự do sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng phong phú về đề tài chủ đề, loại hình phương pháp sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng; tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ được khơi dậy và phát huy, “Văn học nghệ thuật vượt qua nhiều thách thức khó khăn, tiếp tục phát triển, nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống đấu tranh, lao động sáng tạo của nhân dân, bước đầu tạo dựng nên diện mạo mới của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại, trong đó một mặt tiếp tục phát huy các giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa văn nghệ dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn sâu sắc, giàu bản sắc dân tộc, mặt khác cố gắng bám sát hiện thực đời sống trong cuộc đấu tranh phong phú, phức tạp ngày hôm nay và nỗ lực vươn lên phát triển toàn diện ngày càng hiện đại đa dạng hóa về nội dung và phương tiện thể hiện… Nhiều anh chị em văn nghệ sĩ đã kiên trì tìm tòi, tự vươn lên chính mình âm thầm lao động, sáng tạo để khẳng định các giá trị mới của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế”. Bên cạnh những thành tựu rất đáng trân trọng, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào một số yếu kém, bất cập, hạn chế chủ yếu sau:
- Một biểu hiện rất đáng lo ngại và kéo dài đó là tình trạng số lượng tác phẩm ngày càng nhiều nhưng lại tỷ lệ nghịch với chất lượng và hiệu quả tích cực. Nhiều tác phẩm xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, những vấn đề mới nảy sinh trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, mà chạy theo các đề tài nhỏ nhặt tầm thường chiều theo thị yếu thấp kém của một bộ phận công chúng, hạ thấp, thậm chí vứt bỏ chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí. Trong một số trường hợp có biểu hiện cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại, thậm chí xuyên tạc bóp méo lịch sử hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại đi ngược lợi ích của nhân dân và đất nước.
- Hoạt động lý luận phê bình còn nhiều bất cập hạn chế trong chức năng đồng hành, điều chỉnh và định hướng cho sáng tác cũng như giáo dục nâng cao năng lực thẩm mỹ cho công chúng. Một hạn chế bất cập còn kéo dài là chậm rút ngắn khoảng cách hưởng thụ văn hóa đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Văn hóa, văn học nghệ thuật cũng phải chịu trách nhiệm đối với tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên và quần chúng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí và tình trạng tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội, ô nhiễm môi trường sinh thái có chiều hướng gia tăng cả về tính chất và quy mô.
Cần phân tích sâu sắc hai nguyên nhân chủ quan, chủ yếu của tình trạng trên. Nguyên nhân hàng đầu là vấn đề nhận thức và trách nhiệm. Văn hóa, văn nghệ chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc, chưa được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tương xứng như chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt là vai trò của văn hóa, văn học nghệ thuật trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm và đúng mức; và do chưa coi trọng và thiếu hiểu biết về tính đặc thù của văn học nghệ thuật cho nên: Rất chậm trễ trong việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn học nghệ thuật, nhiều cấp ủy, chính quyền chưa đưa hoặc đưa một cách phiến diện nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật vào quy hoạch và kế hoạch phát triển của từng địa phương, từng ngành, nhất là chưa coi trọng xây dựng và thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học nghệ thuật (văn học sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, điện ảnh, văn nghệ dân gian, văn nghệ các dân tộc thiểu số), nhiều hạn chế bất cập trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật. Một yếu kém bất cập kéo dài là đầu tư cho văn hóa, văn học nghệ thuật còn thấp so với định mức, chưa tương xứng với yêu cầu mới, chưa hợp lý và kém hiệu quả. Còn nhiều hạn chế bất cập trong xây dựng và thực hiện chủ trương chính sách phát triển, bồi dưỡng phát triển và trọng dụng tài năng văn học nghệ thuật. Còn nhiều hạn chế, bất cập trong việc xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật.
Nguyên nhân chủ quan tiếp theo là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều hạn chế, bất cập: Chương trình, nội dung đào tạo còn lạc hậu và thiếu toàn diện, nhất là chưa chú trọng đúng mức tính đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng văn học nghệ thuật.
Đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều khó khăn, hạn chế trong hoạt động đi thực tế để được sống trực tiếp, sống một thời gian cần thiết ở những mũi nhọn của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có thể tạo được cảm hứng sáng tạo và hình tượng nghệ thuật.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển toàn diện con người Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng đã quyết định đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới- Thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc, phấn đấu đến giữa thế kỳ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN. Một trong những quan diểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt trong thời kỳ mới này là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam… Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII).
Giữ vị trí trung tâm và xuyên suốt trong các đường lối, chủ trương phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc là vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đảng ta tiếp tục khẳng định: Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân thiện mỹ của con người, là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Do đó cần phải tập trung mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn học nghệ thuật Việt Nam làm tròn sứ mệnh và chức năng cao quý trong việc vun trồng tâm hồn, nhân cách, đạo đức, lẽ sống cao đẹp cho các thế hệ con người Việt Nam. Trong phương hướng nhiệm vụ phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, Đảng ta đã xác định mục tiêu: Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người.
Các tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Đó là quá trình khách thể hóa những nhận thức chủ quan của văn nghệ sĩ. Gía trị của tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến sự nhận thức về đời sống và sự miêu tả phản ảnh, thể hiện hiện thực sinh động cuộc sống của văn nghệ sĩ. Sự phản ảnh này không chỉ là sự phản ảnh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan. Giá trị của tác phẩm văn học nghệ thuật được đánh giá bằng chiều cao của lý tưởng xã hội, thẩm mỹ và chất lượng của hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật mà người nghệ sĩ thể hiện, theo quy luật của tình cảm, quy luật của cái đẹp. Các giá trị của văn học nghệ thuật sẽ tác động có hiệu quả đến công chúng tiếp nhận theo hướng vừa đáp ứng khát vọng chân thiện mỹ vừa vun trồng bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, lẽ sống cho con người. Xin gợi mở một số tiêu chí chuẩn mực cơ bản của một tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Về giá trị tư tưởng của tác phẩm: Đó là giá trị khám phá, sáng tạo, phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống, phản ánh chân thực có chiều sâu từ trong bản chất của nó, phản ánh chân thực, sinh động cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân, phản ánh rõ nét, sâu sắc chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân văn, dân chủ của dân tộc ta, chế độ ta. Tiếp cận và phản ánh được bản chất cuộc đấu tranh lên án cái ác, cái xấu, sự biến chất thoái hóa về nhân cách đạo đức lối sống của một bộ phận xã hội vì mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người, lành mạnh hóa xã hội. Đưa ra được sự kiến giải, thông điệp có giá trị tư tưởng cao, phù hợp với lợi ích của nhân dân, đất nước.
Về giá trị nghệ thuật của tác phẩm đó là: Xây dựng được hình tượng nghệ thuật hấp dẫn có sức truyền cảm; có phong cách, cá tính sáng tạo độc đáo, có sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức; sử dụng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, đi vào lòng người.
Khi nhận định, thời gian qua văn học nghệ thuật có một phần trách nhiệm về tình trạng một bộ phận cán bộ Đảng viên và quần chúng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội gia tăng, cũng là nói đến trách nhiệm của văn học nghệ thuật 35 năm qua đã đưa ra xã hội quá nhiều tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng; quá nhiều tác phẩm tầm thường cả về giá trị tư tưởng và nghệ thuật với những. Biểu hiện chủ yếu là xa lánh những vấn đề lớn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường, chiều theo thị yếu thấp kém của một bộ phận công chúng, buông bỏ chức năng giáo dục, đã có không ít tác phẩm truyền bá những lối sống vô văn hóa, phản văn hóa, một số tác phẩm truyền bá những tư tưởng độc hại, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đất nước. Về mặt nghệ thuật, một số không ít tác phẩm nhân danh đổi mới, cách tân nghệ thuật với tiếp thu không chọn lọc một số khuynh hướng, trường phái lạc hậu, suy đồi, tạo nên những sản phẩm yếu kém về nghệ thuật. Biểu hiện nổi bật trong một bộ phận không nhỏ ca khúc trẻ, một số phim, kịch xã hội hóa, một số tiểu thuyết, thơ khi công bố đã gây ảnh hưởng xấu, tác động tiêu cực đến tư tưởng thẩm mỹ của công chúng, nhất là giới trẻ.
Nguyên nhân của yếu kém, hạn chế
Khi phân tích nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế bất cập của chủ thể lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và chủ thể sáng tạo văn học nghệ thuật, đã có khá nhiều ý kiến cho rẳng:
- Lãnh đạo, quản lý các cấp thực hiện nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X về tiếp tục phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới còn nhiều hạn chế, bất cập trong khâu giáo dục nhận thức và trách nhiệm chưa đúng tầm, đúng mức trong lãnh đạo phát triển lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa. Biểu hiện nổi bật là rất chậm trễ trong việc thể chế hóa Nghị quyết 23 – nghị quyết được coi như chiến lược của văn học nghệ thuật của Đảng trong thời kỳ mới; Trong khâu quy hoạch bồi dưỡng, bố trí lãnh đạo quản lý lĩnh vực này còn quá nhiều hạn chế bất cập, cho nên không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế này nhưng lại hạn chế về năng lực và phương pháp lãnh đạo do thiếu tâm huyết và trách nhiệm dẫn đến bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập trong lãnh đạo quản lý các lĩnh vực sáng tác, thẩm định, phê bình, quảng bá, quần chúng tiếp nhận; Còn quá nhiều bất cập, kém hiệu quả trong lĩnh vực phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng tài năng văn học nghệ thuật.
- Sau 35 năm đổi mới văn học nghệ thuật, chúng ta mới có những văn nghệ sĩ có năng khiếu, có tài nhưng vẫn thiếu vắng tài năng lớn, thiên tài. Đáng chú ý, còn nhiều văn nghệ sĩ chưa có tư tưởng lớn (cả triết học và mỹ học), chưa thực sự đam mê, quyết liệt dấn thân vào đời sống, nhất là ở những mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sống chết với tác phẩm của mình, nhân vật của mình. Thiếu bản lĩnh, tự bó mình trước những quan niệm mơ hồ về “vùng cấm”, “vùng nhạy cảm” và nhất là thiếu tài năng nghệ thuật thể hiện tri thức khách quan, chân lý cuộc sống. Hoạt động phê bình chưa đóng được vai trò đồng hành, thẩm định, định hướng, kích thích sự sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Mặt khác lý luận phê bình chưa làm tốt vai trò góp phần giáo dục thẩm mỹ, định hướng cho công chúng tiếp nhận, chưa quảng bá có hiệu quả cái mới, cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn nghệ cho đông đảo công chúng tiếp nhận.
Những yếu kém bất cập trong lãnh đạo, quản lý và những yếu kém bất cập trong chủ thể sáng tạo, trong lý luận phê bình và trong công chúng tiếp nhận là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đáng buồn kéo dài trên đây.
Để có những tác phẩm văn học nghệ thuật đỉnh cao
Từ những điều trình bày trên, cho phép chúng ta thấu triệt luận điểm sau: Để văn học nghệ thuật thực sự góp phần vào sự nghiệp giáo dục, vun trồng tâm hồn, tình cảm, nhân cách đạo đức, tri thức, bản lĩnh, lẽ sống cao đẹp thì văn học nghệ thuật phải sáng tạo và quảng bá sâu rộng nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật đến đông đảo nhân dân.
Muốn sáng tạo ra và quảng bá sâu rộng có hiệu quả những tác phẩm văn nghệ đỉnh cao thì nền văn học nghệ thuật nước ta phải được phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Vì chỉ trên cái nền của sự phát triển mạnh mẽ toàn diện mới thực sự tạo điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện những tài năng xuất chúng, những thiên tài văn học nghệ thuật và ra đời các tác phẩm có giá trị đỉnh cao về tư tưởng nghệ thuật.
Thực tiễn đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam trong 35 năm qua cho chúng ta câu trả lời sáng tỏ: Cần tổng kết 25 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X để Bộ chính trị ban hành một nghị quyết mới về phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở nghị quyết mới này và chiến lược phát triển văn hóa con người Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, xây dựng chiến lược phát triển mạnh mẽ và toàn diện nền văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả nghị quyết – chiến lược phát triển một lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế, nhạy cảm của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân thiện mỹ của con người, là một trong những nguồn lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam, kiến nghị Ban Bí thư thành lập Ban chỉ đạo trung ương xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới do đồng chí Bí thư trung ương, Trưởng Ban tuyên giáo trung ương làm trưởng ban, đại diện của Chính phủ làm Phó trưởng ban, đồng chí ủy viên trung ương phó trưởng ban thường trực Ban tuyên giáo trung ương là ủy viên thường trực. Các thành viên tham gia Ban chỉ đạo: Thứ trưởng Bộ văn hóa thể thao du lịch, Thứ trưởng Bộ nội vụ, Thứ trưởng Bộ tài chính, Thứ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư, Phó chủ nhiệm ủy ban văn hóa giáo dục Quốc hội, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, Thứ trưởng Bộ công an, Chủ tịch liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tích các hội văn học nghệ thuật chuyên ngành, Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương. Trên cơ sở tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới cách tiếp cận, cách làm, Ban chỉ đạo trung ương tập trung chỉ đạo phối hợp các cơ quan ban ngành tổ chức thực hiện đồng bộ, tạo hiệu quả rõ rệt các quan điểm, chủ trương, giải pháp của nghị quyết nhằm phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn học nghệ thuật Việt Nam. Ban chỉ đạo tập trung đột phá một số khâu sau:
- Trong 3 năm tới phải căn bản hoàn thành việc thể chế hóa quan điểm đường lối, chủ trương, định hướng phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam thành luật, nghị định, cơ chế chính sách: Sớm ban hành luật về tự do sáng tạo trong văn học nghệ thuật, luật sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền các tác phẩm, tác giả văn học nghệ thuật. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển các loại hình văn học nghệ thuật. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật; khuyến khích phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trọng dụng các tài năng văn học nghệ thuật; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn cuộc sống ở những mũi nhọn, của sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống cơ chế chính sách nhằm hoàn thiện thị trường văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hoàn thiện cơ chế chính sách để xây dựng và phát triển “Quỹ phát triển văn học nghệ thuật”.
- Đột phá vào khâu quy hoạch đào tạo bồi dưỡng để thực sự nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và nhà nước đối với văn hóa văn học nghệ thuật: Đổi mới, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc, đồng bộ việc đưa vào chương trình đào tạo cán bộ thuộc các trường Đảng nội dung văn học nghệ thuật. Đảm bảo từ nhiệm kỳ XIII, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo quản lý lĩnh vực này phải có nhận thức đúng về vị trí vai trò, đặc trưng của văn hóa, văn học nghệ thuật, có phương pháp lãnh đạo, quản lý lĩnh vực đặc thù này. Đảm bảo cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển hài hòa với quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương, từng ngành.
- Đột phá xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, coi trọng xây dựng phát triển công nghiệp các nghệ thuật biểu diễn như âm nhạc, múa, sân khấu, điện ảnh… gắn chặt với xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa nghệ thuật./.
PGS.TS Đào Duy Quát - Nguyên Phó Trưởng ban thường trực, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
Báo Chính Phủ