Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

 

Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hải Dương - Kết quả, mục tiêu và giải pháp đến năm 2025

(LLCT) - Trong những năm qua, tỉnh Hải Dương luôn xác định thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân kết hợp với sự tham gia của các thành phần kinh tế để góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp trong thực hiện các mục tiêu, tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Bài viết làm rõ thực trạng, kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hải Dương theo hướng bền vững.


1. Kết quả xây dựng nông thôn mới ở Hải Dương

Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm đa số trong xã hội. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn (NN, ND, NT) luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước và được thể chế hóa bằng các chính sách cụ thể. Bước vào thời kỳ đổi mới, một trong những đột phá khởi đầu là chủ trương, chính sách về thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008, Hội nghị Trung ương 7, khóa X khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(1).

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh, phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới (NTM) là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản...”(2); cần phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh...

Triển khai các quan điểm, chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, cấp ủy, chính quyền tỉnh Hải Dương luôn xác định phát triển NN, ND, NT, trong đó xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt sự phát triển của tỉnh.

Đại hội XV Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2010-2015), Đại hội XVI (nhiệm kỳ 2015-2020)(3) và Đại hội XVII nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM, nâng cao đời sống nông dân là nhiệm vụ quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục, nhất là những nội dung liên quan đến cơ chế hỗ trợ đặc thù cho các xã, huyện để các địa phương có động lực xây dựng NTM.

Nhằm cụ thể hóa các chủ trương trên, HĐND và UBND tỉnh Hải Dương trong thời gian qua đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, đề án, cơ chế, chính sách như: Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, xây dựng hạ tầng nông thôn,  nâng cao đời sống của nhân dân... Các sở, ngành và các đơn vị có liên quan của tỉnh căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, đã ban hành các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các huyện, xã triển khai thực hiện ở cơ sở. Cấp ủy, chính quyền cấp huyện, xã đã thể hiện sự quyết liệt, sáng tạo, có nhiều cách làm hay, hiệu quả, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và nhân dân các chủ trương, chính sách; ý nghĩa, vai trò của Chương trình; đồng thời, trực tiếp giao nhiệm vụ cho các xã, thôn và nhân dân trên địa bàn triển khai thực hiện, hoàn thành 19 tiêu chí NTM, phấn đấu hoàn thành 18 tiêu chí NTM nâng cao(4).

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã phối hợp và tổ chức nhằm cụ thể hóa Nghị quyết, xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế. Đồng thời, chỉ đạo, tổ chức triển khai sâu rộng cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”, thực hiện phong trào thi đua “cả nước chung sức xây dựng NTM” tới các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân.

Kết quả xây dựng NTM giai đoạn 2011-2021 trên địa bàn tỉnh(5)

Thứ nhất, đã thực hiện tốt các đề án, dự án và mô hình phát triển sản xuất, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân và giảm tỷ lệ hộ nghèo. Cụ thể: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP (giá 2010) tăng bình quân 8,1%/năm; giai đoạn 2010 - 2015 (7,7% năm); Quy mô kinh tế của tỉnh năm 2020 gấp 1,6 lần năm 2015; GRDP tăng bình quân 8,8%/năm; tổng thu nhập bình quân đầu người đạt 69,8 triệu đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hưởng tích cực, năm 2020, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chiếm 90,3% GRDP, nông nghiệp chiếm 9,7% GRDP.

Thứ hai, chương trình xây dựng NTM đã thu hút và huy động nguồn lực của toàn xã hội với hơn 58,4 nghìn tỷ đồng trong hơn 10 năm (vốn vay tín dụng: 32,42 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%), đặc biệt là sự đóng góp của nhân dân như tự nguyện hiến hàng triệu m2 đất để làm đường và các công trình phúc lợi. Nhờ đó, hàng nghìn km đường giao thông nông thôn được xây dựng không phải đền bù khi giải phóng mặt bằng.

Thứ ba, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), những năm qua, tỉnh Hải Dương đã tập trung phát triển đa dạng các sản phẩm nông nghiệp, làng nghề với nhiều sản phẩm thế mạnh. Qua đó, tạo động lực để các địa phương phát triển sản phẩm lợi thế theo chiều sâu, tạo dấu ấn riêng cho từng vùng, từng khu vực. Năm 2021, Hải Dương có 128 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP (61 sản phẩm 3 sao và 65 sản phẩm 4 sao, trong đó có 2 sản phẩm đề nghị Trung ương công nhận 5 sao). Năm 2022, Hội đồng đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP của tỉnh đã công nhận, xếp hạng thêm: 36 sản phẩm đạt 4 sao và 79 sản phẩm đạt 3 sao.

Thứ tư, về việc thực hiện Chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Đến tháng 12-2020, toàn tỉnh có 651.701 hộ dân, trong đó còn 8.858 hộ nghèo, chiếm 1,36% và 13.030 hộ cận nghèo, chiếm 2,0% (ở 178 xã có 458.638 hộ, trong đó có 6.397 hộ nghèo - không bao gồm 3.688 hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội); Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu tiêu chí NTM là 0,66%.

Thứ năm, tỉnh Hải Dương hiện có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 09 huyện, 01 thị xã và 02 thành phố; 235 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 178 xã, 47 phường và 10 thị trấn(6). Năm 2021, tỉnh Hải Dương đã hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM với 178/178 xã được công nhận đạt chuẩn NTM và 12/12 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng NTM. Có 43 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 4 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Năm 2022, Hải Dương có 29 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 11 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Cụ thể, tiến độ các xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Hải Dương đạt chuẩn NTM qua các năm như sau:



Một số hạn chế trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh

Thứ nhất, sự kết nối giữa khu vực nông thôn và đô thị còn rời rạc, quá trình NTM chưa hài hòa phù hợp với quá trình đô thị hóa, dẫn đến quy hoạch manh mún, đứt gẫy, các trung tâm đô thị, thị xã, thị tứ chưa phát huy được vai trò đầu tàu về kinh tế, chưa tạo ra được các hiệu ứng lan tỏa đối với nông thôn; có xu hướng “đô thị hóa nông thôn, bê tông hóa miền quê” dẫn đến phá vỡ cảnh quan, không gian văn hóa truyền thống của nông thôn.

Thứ hai, chất lượng đạt chuẩn và công tác duy trì bền vững kết quả của một số xã sau đạt chuẩn còn hạn chế. Chất lượng các công trình, cơ sở hạ tầng sau khi đạt chuẩn ở một số địa phương có dấu hiệu xuống cấp do chưa được quan tâm, duy tu bảo dưỡng thường xuyên.

Thứ ba, môi trường nông thôn tuy được quan tâm nhưng chưa thực sự chuyển biến rõ nét, vẫn còn vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, nhất là xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt, chất thải của các khu, cụm công nghiệp và làng nghề.

Thứ tư, nhiều giá trị văn hóa truyền thống ở một số địa phương đang dần bị mai một, các tệ nạn xã hội (ma túy, cờ bạc, trộm cắp...) ở nông thôn vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp.

Thứ năm, một số địa phương thực hiện xây dựng NTM chưa quan tâm đến tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; tư duy của ngành nông nghiệp và người dân còn chú trọng đến tăng quy mô, sản lượng mà chưa quan tâm nhiều đến phát triển kinh tế nông thôn; tỷ lệ nông sản sản xuất theo các tiêu chuẩn như

VietGap, Global G.A.P hay nông nghiệp hữu cơ theo tiêu chuẩn (TCVN 11041-1:2017)... còn hạn chế; hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại nông thôn, thu mua nông sản, chế biến và cơ giới hóa còn chưa đồng bộ; áp dụng khoa học và công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế; một bộ phận hợp tác xã hoạt động chưa hiệu quả...

Thứ sáu, khó khăn về nguồn lực, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều, nguồn vốn huy động từ ngân sách xã và nhân dân gặp khó khăn, đặc biệt đối với các hạng mục công trình do ngân sách thực hiện như: đường giao thông trục xã, đường huyện, nhà văn hóa và sân thể thao xã; vẫn còn tình trạng nợ đọng trong đầu tư NTM ở cấp xã...

Từ thực tiễn quá trình thực hiện phong trào NTM trên địa bàn tỉnh những năm qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp là yếu tố quan trọng. Để xây dựng NTM đạt mục tiêu về số lượng và chất lượng, đòi hỏi sự quyết tâm, trách nhiệm và quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp. Trong công tác chỉ đạo, điều hành xây dựng NTM, phải phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cấp, ngành; có sự phối hợp nhịp nhàng trong công tác điều phối chung để tạo sức mạnh tổng hợp.

Thứ hai, cần phát huy tốt vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng NTM. Điều này có ý nghĩa quyết định chính đến kết quả xây dựng NTM. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là kim chỉ nam cho quá trình xây dựng NTM bền vững. Đặc biệt, việc lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân khi xét, công nhận đạt chuẩn NTM đã tạo hiệu ứng tốt trong xã hội, giúp cấp ủy, chính quyền các cấp đưa ra giải pháp, cam kết tiến độ xử lý để bảo đảm xây dựng NTM bền vững.

Thứ ba, cách thức, cơ chế khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương về điều kiện tự nhiên và nhân lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng NTM. Trong điều kiện nguồn lực hỗ trợ trực tiếp của ngân sách nhà nước có hạn, phải đa dạng hóa việc huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế (doanh nghiệp, tín dụng, đóng góp của nhân dân,...), nguồn từ đấu giá quyền sử dụng đất.

Thứ tư, chú trọng kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy tham mưu, giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp là một giải pháp quan trọng tạo nên thành công. Việc có bộ máy chuyên trách, chuyên nghiệp mạnh dạn nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách đủ mạnh đã góp phần đẩy nhanh tiến độ, chất lượng và hiệu quả xây dựng NTM ở các địa phương.

Thứ năm, cần thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc nhắc nhở cơ sở, thôn, xóm để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đề xuất giải pháp kịp thời, thực sự coi người dân là chủ thể của Chương trình.

Thứ sáu, trong quá trình triển khai phải thực hiện lồng ghép có hiệu quả và đồng bộ các chương trình, dự án kết hợp giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân với quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển văn hóa - xã hội và môi trường theo quy hoạch và đề án xây dựng NTM. Việc huy động đóng góp của người dân phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bàn bạc dân chủ, không quá sức dân, chỉ đạo lựa chọn những nội dung công việc phù hợp với điều kiện và khả năng của nhân dân từng xã để làm trước, làm điểm tạo tiền đề thuận lợi cho các bước tiếp theo.

2. Mục tiêu và giải pháp

Trên cơ sở các nghị quyết của Quốc hội, quyết định của Chính phủ, tỉnh Hải Dương xác định tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, được đề ra tại Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 27-10-2020 của Đại hội XVII, Đảng bộ tỉnh Hải Dương, nhiệm kỳ 2020-2025; Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy số 700-TB/TU ngày 28-4-2022 và Kế hoạch số 1290/KH-UBND ngày 11-5-2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tỉnh Hải Dương giai đoạn 2021-2025;  Khẳng định quyết tâm của tỉnh trong xây dựng NTM thực sự đi vào chiều sâu và phát triển theo hướng bền vững.

Về mục tiêu cụ thể đến năm 2025:

Một là, các xã tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí, bảo đảm sau khi rà soát 100% số xã đạt các tiêu chí xã NTM giai đoạn 2021-2025, tiếp tục phấn đấu xây dựng NTM nâng cao. Phấn đấu đến hết năm 2025 có ít nhất 60% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao (dự kiến 107 xã), có ít nhất 20% số xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu (dự kiến 36 xã).

Hai là, đối với những xã đạt chuẩn NTM nâng cao, đạt chuẩn NTM kiểu mẫu có đủ điều kiện nâng cấp lên đô thị, đồng thời nằm trong chương trình phát triển đô thị, tiếp tục triển khai, thực hiện xây dựng xã gắn với quá trình CNH, ĐTH theo quy định, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 27-10-2020 của Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã đề ra.

Ba là, đối với các huyện, thị xã, thành phố đã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016-2020 tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí, bảo đảm sau khi rà soát 100% số huyện đạt các chỉ tiêu, tiêu chí huyện NTM giai đoạn 2021-2025. Phấn đấu hết năm 2025 có ít nhất 03 huyện đạt chuẩn NTM nâng cao, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt ít nhất từ 76-80 triệu đồng/người/năm(7).

Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng NTM ở Hải Dương đi vào chiều sâu và bền vững:

Một là, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và cư dân nông thôn, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua xây dựng NTM, phong trào “Cả nước chung sức xây dựng NTM” giai đoạn 2021-2025 phù hợp với địa bàn tỉnh.

Hai là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng NTM, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế; chỉ đạo các địa phương chủ động ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ thực hiện các nội dung của Chương trình theo hướng nâng cao chất lượng, đi vào chiều sâu và bền vững...

Ba là, chỉ đạo quyết liệt phương châm hành động “Chủ động, sáng tạo, quyết liệt, hiệu quả”; “5 rõ”: rõ việc, rõ người, rõ tiến độ, rõ hiệu quả, rõ trách nhiệm; phối hợp thực hiện hiệu quả nội dung các chương trình, dự án chuyên đề trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân nông thôn và giải quyết các vấn đề bức xúc, tồn tại trong xây dựng NTM (môi trường, an toàn thực phẩm, nước sạch nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo, thực hiện Chương trình OCOP; chuyển đổi số trong xây dựng NTM, phát triển du lịch nông thôn...).

Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy động vốn, bảo đảm huy động đầy đủ, kịp thời theo quy định; căn cứ vào tình hình thực tế; huy động tối đa nguồn lực của địa phương để tổ chức triển khai Chương trình xây dựng NTM.

Năm là, thực hiện lồng ghép hiệu quả nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trên địa bàn nông thôn giai đoạn 2021-2025 để hỗ trợ các địa phương hoàn thành các mục tiêu xây dựng NTM.

Sáu là, thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là bổ sung nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, ưu tiên hỗ trợ triển khai Chương trình OCOP, hỗ trợ áp dụng công nghệ chế biến vừa và nhỏ trong nông nghiệp, môi trường và nước sạch nông thôn; khuyến khích cho vay ủy thác qua ngân hàng chính sách xã hội;

Bảy là, tăng cường vận động các tổ chức kinh tế đăng ký hỗ trợ các huyện, xã thực hiện xây dựng NTM; vận động người dân tiếp tục tham gia đóng góp xây dựng NTM theo nguyên tắc tự nguyện cho từng dự án, nội dung cụ thể, do hội đồng nhân dân xã thông qua.

Tám là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Chương trình ở các cấp, các ngành. Có biện pháp phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện.

Trên cơ sở nhận thức xây dựng NTM là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên tục, tập trung xây dựng NTM bảo đảm hiệu quả, toàn diện và bền vững. Trên cơ sở những thành tựu quan trọng đã đạt được, cùng những chủ trương nhất quán, đúng đắn, kịp thời và những giải pháp hợp lý, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025 sẽ mang đến những đổi thay vượt bậc hơn cho nông nghiệp, người nông dân và địa bàn nông thôn, đạt mục tiêu phát triển bền vững, văn minh, tiến bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Để đạt được mục tiêu đó, cần sự nỗ lực, quyết tâm thông qua các việc làm cụ thể của các cấp ủy đảng, chính quyền, của toàn hệ thống chính trị và sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân trong xây dựng NTM. Phấn đấu đến năm 2025 là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, năm 2030 là tỉnh công nghiệp hiện đại, tạo nền tảng để Hải Dương sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)

Ngày nhận bài: 15-1-2023; Ngày bình duyệt:  04-3-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.

 

(1) ĐCSVN: Nghị quyết Số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.107-108.

(3) Các văn bản của tỉnh như: Quyết định số 115-QĐ/TU ngày 15-02-2011 của Tỉnh ủy Hải Dương về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2010-2020; Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24-9-2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến năm 2020; Thông báo số 563-TB/TU ngày 06-6-2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương năm 2017 và giai đoạn 2016-2020.

(4) 12/12 huyện, thành phố, thị xã đã thành lập Ban chỉ đạo; các Văn phòng Điều phối nông thôn mới cấp huyện; 178/178 xã có cán bộ công chức xã phụ trách xây dựng nông thôn mới theo quy định.

(5) Các số liệu kết quả do tác giả tổng hợp, tính toán từ nguồn các báo cáo và khảo sát.

(6) Các đơn vị hành chính cấp huyện, xã sau khi thực hiện Nghị quyết số 788 /NQ-UBTVQH14 ngày 16-10-2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương.

(7) UBND tỉnh Hải dương: Kế hoạch số1290 /KH-UBND ngày 11-5-2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương giai đoạn 2021-2025.

TS PHẠM ĐỨC MINH

Trường Chính trị tỉnh Hải Dương


 

Thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

(LLCT) - Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương là những nội dung quan trọng trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Bài viết góp phần làm rõ cơ sở khoa học, thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam.


1. Cơ sở khoa học về tổ chức chính quyền địa phương

Từ rất sớm, các cộng đồng dân cư đã sinh sống tập trung trên một địa bàn lãnh thổ. Qua thời gian, sự gắn kết giữa các thành viên hình thành các đặc điểm về văn hóa, truyền thống, lịch sử, hoạt động kinh tế... của từng cộng đồng dân cư. Sự phát triển của các cộng đồng dân cư hình thành nên cộng đồng quốc gia - dân tộc. Xét về mặt lịch sử, sự quần cư ban đầu gắn liền với lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn nông thôn và dần mở rộng sang lĩnh vực phi nông nghiệp ở địa bàn đô thị. Nói cách khác, các đơn vị lãnh thổ - dân cư với các yếu tố tự nhiên như điều kiện địa lý và lãnh thổ ban đầu là tác nhân thu hút sự quần tụ của cộng đồng dân cư và dần dần các yếu tố xã hội như huyết thống, nghề nghiệp... gắn kết cộng đồng dân cư càng chặt chẽ.

Sự hình thành và phát triển nhà nước đòi hỏi sự quản lý thống nhất ở tính chất và quy mô lớn, xuất hiện nhu cầu phân chia đơn vị hành chính. Đây là một hiện tượng tự nhiên đối với một tổ chức lớn và phức tạp nhằm tổ chức thực hiện quyền lực của trung tâm tốt hơn. Việc chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành chính - lãnh thổ và quản lý dân cư theo lãnh thổ là dấu hiệu cơ bản của mọi nhà nước nhằm thực hiện chức năng “chia để quản lý”.

Tùy vào điều kiện và đặc điểm của mỗi quốc gia, việc phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ là không giống nhau. Để phân chia lãnh thổ toàn quốc thành các đơn vị hành chính - lãnh thổ một cách khoa học, trước hết cần dựa vào tính chất của lãnh thổ. Theo đó, đơn vị hành chính - lãnh thổ của một nhà nước thường gồm hai loại có tính chất khác nhau, đó là đơn vị cơ bản mang tính tự nhiên và đơn vị trung gian mang tính nhân tạo.

Bên cạnh nền tảng là tính chất lãnh thổ trong phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ, các quốc gia còn chú trọng quyền tự nhiên của lãnh thổ. Quyền lãnh thổ là quyền tự có, được hình thành cùng với sự hình thành cộng đồng lãnh thổ, trong đó trung tâm là quyền cơ bản của cư dân. Theo đó, mỗi cộng đồng lãnh thổ được công nhận là một thực thể tự nhiên, có các quyền năng độc lập với các quyền của nhà nước, nó là quyền tự nhiên không thể bị giới hạn bởi bất kỳ lý do gì. Đây là cơ sở của mô hình chính quyền địa phương tự quản và chính quyền đô thị (CQĐT) ở các nước châu Âu hiện nay.

Cộng đồng lãnh thổ ở đô thị là nơi quần tụ dân cư đông đúc và phát triển mạnh các loại hình thương mại - dịch vụ, đòi hỏi các thể chế pháp lý về tổ chức và vận hành một cách hợp lý. Các đô thị hiện nay đã phát triển khá chuyên biệt và đa dạng về quy mô, chức năng, vai trò... đòi hỏi thể chế quản trị trao quyền tự chủ cao cho cộng đồng đô thị nhằm bảo đảm dân chủ và phát triển kinh tế bền vững.

Lịch sử tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trên thế giới cho thấy, cùng với việc tổ chức chính quyền trung ương (CQTƯ), cần tổ chức chính quyền địa phương (CQĐP) ở các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Khi đã tổ chức ra CQĐP, điều cần thiết để CQĐP hoạt động một cách thực chất là cần phải tiến hành xác định thẩm quyền của CQĐP. Nói cách khác, đây chính là việc phân định thẩm quyền giữa CQTƯ và CQĐP cùng các nguyên tắc, cơ chế giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền này nhằm bảo đảm tính thống nhất và toàn vẹn của chủ quyền quốc gia, bảo đảm việc thực thi quyền lực nhà nước hiệu lực, hiệu quả, chủ động và trách nhiệm của các cấp chính quyền.

Phi tập trung xuất hiện trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa CQTƯ và CQĐP. Theo cách hiểu phổ biến, phi tập trung là sự chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và nguồn lực từ trung ương cho địa phương(1). So với tập trung, phi tập trung đã trở thành xu hướng toàn cầu và được xem là phương thức tổ chức quyền lực nhà nước phù hợp cho một nền quản trị tốt, hiện đại và dân chủ.

Như vậy, quản trị và vận hành cộng đồng địa phương ở Việt Nam cần nghiên cứu các cơ sở lý thuyết mang tính đa dạng nêu trên. Một khi xây dựng được cơ sở lý thuyết rõ ràng và phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia, quản trị địa phương, việc rà soát và điều chỉnh các quy định về tổ chức và hoạt động của CQĐP sẽ đầy đủ và toàn diện.

2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Cho đến nay, mô hình CQĐP ở Việt Nam được thiết kế đồng nhất cho tất cả các địa bàn, các đơn vị hành chính trên phạm vi cả nước. Về cơ bản, CQĐP ở các đơn vị hành chính đều là cấp CQĐP: đều có cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân (HĐND) và cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân (UBND) (ngoại trừ mô hình CQĐT ở Thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai thí điểm từ ngày 01-7-2021)(2).

Thực tiễn đồng nhất cấp chính quyền với cấp đơn vị hành chính có nguyên nhân cốt lõi từ việc xác định vị trí, tính chất và vai trò của từng loại đơn vị hành chính - lãnh thổ. Do không xác định chính xác các đơn vị hành chính - lãnh thổ nên không giải quyết được nội dung cần tổ chức bao nhiêu cấp đơn vị hành chính ở địa bàn nông thôn, bao nhiêu cấp đơn vị hành chính ở địa bàn đô thị, cấp nào có cơ quan đại diện, còn cấp nào chỉ có cơ quan hành chính. Nói cách khác, mô hình đồng nhất hiện nay đã không phân biệt các đơn vị trung gian, mang tính nhân tạo với các cộng đồng lãnh thổ cơ bản, mang tính tự nhiên.

Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp dưới là bản sao của chính quyền cấp trên. Cấp trên có cơ quan gì và hình thức hoạt động thế nào, thì ở cấp dưới cũng có cơ quan và hình thức hoạt động tương ứng. Mô hình này chịu ảnh hưởng từ mô hình tập quyền Xôviết, với các đặc trưng là chính quyền các cấp đều được tổ chức giống nhau: cấp nào cũng có cơ quan quyết nghị do người dân trực tiếp bầu ra, được xác định tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và có thẩm quyền thành lập cơ quan chấp hành cùng cấp. Theo đó, CQĐP là bộ phận cấu thành của hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất. Mô hình như vậy nặng về sự bảo trợ hành chính của chính quyền cấp trên, hạn chế sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp dưới.

Ngoài ra, tổ chức bộ máy CQĐP dù đã trải qua nhiều lần sắp xếp(3) nhưng chưa thật sự tinh gọn, chưa tương ứng với nhiệm vụ, thẩm quyền được giao. Pháp luật hiện hành chưa có nhiều quy định phân biệt sự khác nhau trong cơ cấu tổ chức bộ máy của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện và các chức danh chuyên trách ở cấp xã. Về tổng thể, tổ chức bộ máy CQĐP chưa được hoàn thiện, vẫn cồng kềnh và tầng nấc, còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Hiện nay, CQĐT được tổ chức tương ứng với đơn vị hành chính - lãnh thổ và loại đô thị được xếp tương đương với thứ bậc hành chính của lãnh thổ. Theo đó, CQĐT được tổ chức ở tất cả ba cấp hành chính - lãnh thổ một cách cào bằng, cơ học. Mô hình này tương tự mô hình CQĐP ở nông thôn, bao gồm: cấp 1 (tương đương tỉnh) là thành phố trực thuộc Trung ương; cấp 2 (tương đương huyện) là quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã và thành phố thuộc thành phố; cấp 3 (tương đương xã) là phường và thị trấn.

Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp CQĐT về cơ bản giống nhau. Cụ thể như, thành phố trực thuộc trung ương (cấp 1) gồm 7 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn; quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã và thành phố thuộc thành phố (cấp 2) gồm 6 nhóm; phường, thị trấn (cấp 3) chỉ còn 5 nhóm(4). Ngoài ra, nếu so sánh với với CQĐP ở nông thôn cùng cấp thì nhiệm vụ và quyền hạn của CQĐT nhìn chung không quá khác biệt(5).

Do chưa có mô hình CQĐT phù hợp nên khi gặp vướng mắc trong quá trình hoạt động, các đô thị đều xin Trung ương cơ chế đặc thù. Gần đây, cả 05 đô thị trực thuộc Trung ương đều đã được Quốc hội ban hành các nghị quyết thí điểm cơ chế đặc thù. Cơ chế đặc thù của các thành phố này đòi hỏi nhiều quyền hơn về mặt hành chính - nhân sự, về huy động vốn đầu tư và được phân bổ ngân sách lớn hơn từ Trung ương. Với cơ chế đặc thù cho đô thị, cả Trung ương và địa phương đều đang hướng đến sự an toàn trong trách nhiệm(6). Hệ quả là, các đô thị thay vì tập trung vận hành chính sách để phát triển lại dành thời gian và nguồn lực cho việc xin cơ chế. Đối với Trung ương, thay vì tập trung vào chính sách vĩ mô lại vướng vào việc xem xét chấp nhận hay không một cơ chế nào đó cho các đô thị. Tình trạng “xin - cho” cơ chế đặc thù đang có xu hướng lan rộng trên cả nước(7).

Nguyên tắc thống nhất quyền lực và tập trung dân chủ vẫn chi phối đáng kể đến việc phân định thẩm quyền giữa CQTƯ và CQĐP. Thể chế pháp lý về phân định thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương đã thể hiện sâu sắc hơn tinh thần dân chủ và đề cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CQĐP. Nhờ đó, CQĐP đã chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tại chỗ để phát triển kinh tế - xã hội, tăng nguồn thu ngân sách trên địa bàn; khắc phục từng bước sự ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo, điều hành của Trung ương, cấp trên; phát huy được tính năng động, sáng tạo của đội ngũ công chức địa phương.

Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền giữa CQTƯ và CQĐP vẫn còn một số hạn chế. Đó là “việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ”(8); “chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng”(9). Các quy định về phân quyền, phân cấp chủ yếu dừng lại ở nguyên tắc, thiếu vắng cơ chế và phương thức thực hiện, đặc biệt là các chế tài xử lý; khá nhiều nội dung còn mang tính đại trà, không thật cụ thể cho từng cấp chính quyền, chỉ khác về cấp độ và khu vực địa lý trong khi năng lực và nguồn lực của từng cấp chính quyền là khác nhau. Trong khá nhiều trường hợp, việc giao nhiệm vụ chưa thật gắn với quyền hạn, trách nhiệm và các điều kiện thực hiện. Phân quyền, phân cấp chủ yếu diễn ra giữa cấp trung ương với cấp tỉnh; giữa cấp tỉnh với cấp huyện, xã chưa được quan tâm thỏa đáng.

3. Giải pháp góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

Thứ nhất, đa dạng hóa mô hình tổ chức CQĐP phù hợp với tính chất của từng loại hình đơn vị hành chính, đặc điểm của cộng đồng dân cư và yêu cầu quản trị địa phương ở từng địa bàn cụ thể. Đặc biệt, cần khẩn trương xây dựng mô hình CQĐT hiện đại và hiệu quả. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý về mô hình CQĐT. Khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về CQĐT, nhất là trên lĩnh vực tài chính - ngân sách, quy hoạch đô thị, xây dựng, đất đai... nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của các văn bản.

Cần đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của UBND phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của CQĐT. Với ba thành phố đang thực hiện mô hình CQĐT, UBND nên được tổ chức và hoạt động theo mô hình Thị trưởng. Bởi trên thực tế, vai trò của Chủ tịch UBND trong điều hành thường xuyên, trực tiếp các hoạt động của UBND, có tiếng nói chi phối, quyết định trong tập thể lãnh đạo UBND. Với mô hình Thị trưởng, tên gọi UBND nên đổi thành Tòa Thị chính do Thị trưởng đứng đầu, Thị trưởng có quyền quyết định các chức danh cấp phó và bộ máy tham mưu giúp việc. Theo đó, chức năng chủ yếu của Tòa Thị chính là quản trị đô thị, cung cấp dịch vụ công thiết yếu, triển khai thực hiện các văn bản của HĐND thành phố và chịu trách nhiệm trước HĐND thông qua cơ chế bãi miễn.

Thứ hai, tiếp tục điều chỉnh hợp lý đơn vị hành chính. Trong đó, cần chú trọng việc phân định đơn vị hành chính cơ bản, mang tính tự nhiên và đơn vị hành chính trung gian, mang tính nhân tạo. Muốn vậy, quan niệm “xã, tỉnh” ở địa bàn nông thôn và “thành phố” ở địa bàn đô thị là đơn vị hành chính cơ bản, mang tính tự nhiên. Theo đó, xác định các đơn vị hành chính này là cấp CQĐP, bao gồm hai thiết chế là HĐND và UBND. Với các đơn vị hành chính còn lại nên khẳng định là đơn vị hành chính trung gian, thực hiện một số nhiệm vụ quản trị địa phương theo sự ủy quyền của cấp trên và cung ứng dịch vụ công trên địa bàn.

Thứ ba, tiếp tục sắp xếp và kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và huyện theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu lực và hiệu quả. Việc sắp xếp và kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc CQĐT cần trả lời thấu đáo các câu hỏi sau: (i) dựa trên cơ sở khoa học nào? (nhằm tránh sự chủ quan, tùy tiện và duy ý chí); (ii) mục đích thật sự là gì? (nhằm xác định rõ giá trị hay lợi ích đóng góp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội); (iii) thẩm quyền quyết định việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy? (nhằm tránh tư duy nhiệm kỳ). Theo đó, giải quyết bài toán sắp xếp, kiện toàn các cơ quan chuyên môn phải đặt trong bối cảnh tổng thể của xây dựng CQĐT và đổi mới quản trị địa phương theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về phân định thẩm quyền giữa CQTƯ và CQĐP trong bối cảnh mới. Khẩn trương rà soát, điều chỉnh và bổ sung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm liên quan trực tiếp đến các cơ quan Trung ương và CQĐP các cấp. Trước mắt, cần tập trung xác định các nhóm cơ bản: (i) công việc thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở Trung ương; (ii) công việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan trung ương, nhưng được tổ chức thực hiện ở địa phương, cần có sự phối hợp với CQĐP các cấp; (iii) công việc gắn liền với nhu cầu của các địa phương, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi địa phương thì cần phải đẩy mạnh chuyển giao cho địa phương; (iv) công việc hoàn toàn thuộc về địa phương, do CQĐP các cấp thực hiện trong khuôn khổ của chế độ tự quản địa phương(10). Việc định chế hóa các nhóm công việc nêu trên là tiền đề quan trọng trong việc bảo đảm thống nhất quản lý của CQTƯ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của CQĐP.

Thứ năm, đổi mới phương thức kiểm soát của CQTƯ đối với CQĐP. Trong đó, chú ý đến cơ chế kiểm soát tư pháp thông qua tòa án. Trước mắt, cần nghiên cứu trao cho tòa án thẩm quyền xem xét và phán quyết văn bản quy phạm pháp luật của CQĐP.

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), HĐND có thẩm quyền ban hành nghị quyết, UBND có thẩm quyền ban hành quyết định. Đây là khuôn khổ pháp lý trong thực hiện thẩm quyền riêng của CQĐP và là một nội dung cần được quan tâm kiểm soát(11). Về lâu dài, cần nghiên cứu áp dụng cơ chế tài phán hành chính đối với những tranh chấp về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở Trung ương với CQĐP các cấp hoặc giữa các cấp CQĐP với nhau trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được các luật quy định.

Thứ sáu, đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền thông minh, hướng đến chính quyền số. Trước hết, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy chính quyền điện tử, chính quyền số; chú trọng thể chế pháp lý về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, quản trị và giám sát CQĐP hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm an toàn thông tin. Xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của địa phương để phục vụ chính quyền điện tử trên hạ tầng nền tảng điện toán đám mây; thực hiện chia sẻ thông tin qua hệ thống mạng giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan trong CQĐP các cấp. Sớm hình thành trung tâm thông tin và an toàn thông tin địa phương; tập trung vận hành hiệu quả cổng dịch vụ công trực tuyến, tăng cường ứng dụng công nghệ số vào hoạt động cung ứng dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần xây dựng chính sách ưu đãi thích hợp đối với nhân lực công nghệ thông tin trong hệ thống CQĐP; tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động vận hành và phát triển công nghệ cao; bảo đảm chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm cho nhân lực công nghệ thông tin; có cơ chế thu hút nhân tài công nghệ, bồi dưỡng và tạo điều kiện tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về công nghệ cao.

Như vậy, tổ chức và hoạt động của CQĐP ở Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cải cách mạnh mẽ, nhất là dưới tác động to lớn của xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP nằm trong định hướng tổng thể về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 540 (tháng 02-2023)

Ngày nhận bài: 08-01-2023; Ngày bình duyệt: 08-02-2023; Ngày duyệt đăng: 21-02-2023.

 

(1) Võ Công Khôi: Phi tập trung trong quản lý nhà nước ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học (Luật học), Đại học quốc gia Hà Nội, số 3 (37) - 2021.

(2) Ngày 27-11-2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội; ngày 19-6-2020, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 119/2020/QH14 về việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; ngày 16-11-2020, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

(3) Tính từ Nghị định số 171 và 172/2005/NĐ-CP đến Nghị định số 107 và 108/2020/NĐ-CP (trong vòng 15 năm), các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và cấp huyện đã trải qua 4 lần sắp xếp. Chưa kể việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả”, một số địa phương đã thí điểm hợp nhất cơ quan chuyên môn thuộc UBND với cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, cụ thể: Văn phòng, Nội vụ và Tổ chức, Thanh tra và Kiểm tra.

(4) Xem các Điều 38, 45, 52, 59 và 66 - Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi năm 2019).

(5) So sánh Điều 17 với Điều 38 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi năm 2019) về chính quyền tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; tương tự là Điều 24 với Điều 52, Điều 31 với Điều 59, 66 cho các cấp chính quyền còn lại.

(6) Nguyễn Thị Thiện Trí: Cơ chế đặc thù để phát triển đô thị Việt Nam: Giải pháp hay vòng luẩn quẩn, https://tiasang.com.vn/dien-dan/co-che-dac-thu-de-phat-trien-do-thi-viet-nam-giai-phap-hay-vong-luan-quan-29865, truy cập ngày 02-12-2022.

(7) Bích Liên: Quốc hội thông qua cơ chế đặc thù phát triển 4 tỉnh, thành, https://dangcongsan.vn/phap-luat/quoc-hoi-thong-qua-co-che-dac-thu-phat-trien-4-tinh-thanh-596856.html, truy cập ngày 02-12-2022.

(8) ĐCSVN: Nghị quyết số 18-NQ/W ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.89.

(10) Trần Thị Diệu Oanh: Về tác động của phân cấp quản lý đến địa vị pháp lý của chính quyền địa phương trong đổi mới tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.231-234.

(11) Theo Báo cáo số 78/BC-BTP ngày 10-5-2020 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, năm 2020, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) kiểm tra 4.702 văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh, có 62 văn bản chứa đựng các quy định trái pháp luật, và 225 văn bản quy phạm pháp luật sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày.

TS VÕ CÔNG KHÔI

Học viện Chính trị khu vực III

 

Tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo

(LLCT) - Tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động hợp quy luật của các chủ thể, các lực lượng nhằm làm cho những phẩm chất, năng lực của đoàn viên, thanh niên được khơi dậy, phát triển và lan tỏa trong thực tiễn, làm gia tăng hiệu quả hoạt động tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo, từ đó tạo sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, hành động của toàn đảng, toàn quân, toàn dân trong tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.


Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, luôn xem “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”(1)

Thanh niên Việt Nam là lực lượng đông đảo trong dân số cả nước, có mặt ở tất cả các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Năm 2020, thanh niên Việt Nam có khoảng 22,609 triệu người (chiếm gần 1/4 dân số)(2). Thanh niên, với độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình, là lực lượng có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

1. Vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Ngày 24-7-2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 với nhiều mục tiêu, trong đó chú trọng phát huy tinh thần cống hiến, xung kích, tình nguyện và nâng cao trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (3). Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là việc làm thường xuyên, liên tục và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng đoàn viên, thanh niên có vai trò quan trọng. Thời gian qua, đoàn viên, thanh niên trong cả nước đã phát huy vai trò trong công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thể hiện nổi bật trên một số phương diện:

Một là, tăng cường tuyên truyền, phát huy vai trò tiên phong, xung kích của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”(4). Mục đích nhằm củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong hệ thống chính trị và nhân dân về các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, trên cơ sở đó: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(5).

Quán triệt chủ trương trên, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo đã được các cấp, các ngành, trong đó có Đoàn thanh niên từ Trung ương tới địa phương tích cực, chủ động triển khai. Trong các phong trào, hoạt động của đoàn viên, thanh niên, nhiều chương trình, hoạt động có ý nghĩa được lực lượng đoàn viên, thanh niên tổ chức quy mô, có sức lan tỏa lớn, như: “Chung sức bảo vệ chủ quyền Biển Đông”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Ngày thanh niên vì biên cương Tổ quốc”, Ngày hội “Tuổi trẻ với biển, đảo quê hương”, “Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam”, Chiến dịch “Hãy làm sạch biển”, Hành trình “Tôi yêu Tổ quốc tôi”; “Thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam”; cuộc thi viết, thi vẽ với chủ đề “Xuân về trên biển, đảo”…  

Hai là, qua các hoạt động tuyên truyền, đoàn viên, thanh niên nâng cao nhận thức và lan tỏa các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo tới mọi tầng lớp nhân dân 

Qua các chương trình, hoạt động tuyên truyền, hệ thống chính sách, pháp luật và tập quán quốc tế về bảo vệ chủ quyền biển, đảo, như: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Biển Việt Nam, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045… được lực lượng đoàn viên, thanh niên lan tỏa đến mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo; vai trò, tầm quan trọng của biên giới, biển, đảo trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; chính sách đối ngoại của nước ta với các nước láng giềng; những thành quả trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh khu vực biển, đảo.

Ba là, qua các hoạt động tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển đảo, đoàn viên, thanh niên nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Với nhiều hình thức, nội dung tuyên truyền phong phú, các hoạt động tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã giáo dục sâu sắc về ý thức, trách nhiệm, tinh thần xung kích, tình nguyện của đoàn viên, thanh niên trong tham gia bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; góp phần giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nâng cao nhận thức, hiểu biết, ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ với biển đảo quê hương; cổ vũ, động viên thế hệ trẻ tích cực Để tuyên truyền phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phân định rõ vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức, lực lượng và phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng đó. Từng tổ chức, lực lượng phải xác định rõ tầm quan trọng, mục đích, nội dung. phương châm, phương pháp phối hợp tuyên truyền bảo đảm hiệu quả.

tham gia các hoạt động tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng; nâng cao ý thức trách nhiệm trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển một cách hiệu quả, bền vững.

Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy, mặc dù các hoạt động tuyên truyền khá đa dạng, có nhiều đổi mới về hình thức, phương pháp và chất lượng đã ngày càng tốt hơn, song vai trò của các chủ thể trong công tác tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong đoàn viên, thanh niên còn chưa được phát huy mạnh mẽ. Chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở nhiều tổ chức Đoàn còn mang tính hình thức, chưa có chiều sâu và sức lan tỏa lớn. Một bộ phận đoàn viên, thanh niên hạn chế trong nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển; cập nhật thông tin chưa kịp thời.

Trong khi đó, hiện nay, tình hình Biển Đông luôn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định và khả năng xuất hiện những động thái mới trong việc tranh chấp chủ quyền; đặc biệt là tham vọng độc chiếm Biển Đông, thôn tính Trường Sa và giành giật “biên giới mềm” của một số nước lớn bằng cách tăng cường hoạt động quân sự, ngoại giao, leo thang về yêu sách chủ quyền. Các loại tội phạm, xâm phạm trái phép, buôn lậu ma túy, chất nổ... trên biển, đảo ngày càng gia tăng với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn… Trước những diễn biến ngày càng phức tạp trên Biển Đông, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo trong thanh niên giai đoạn hiện nay cần phải tiếp tục được đổi mới, nâng cao hiệu quả nhằm tạo sự đồng thuận, đoàn kết, củng cố vững chắc lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo. 

2. Yêu cầu bảo đảm phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Tuyên truyền, phát huy vai trò đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển đảo là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động hợp quy luật của các chủ thể, các lực lượng nhằm làm cho những phẩm chất, năng lực của đoàn viên, thanh niên được khơi dậy, phát huy và lan tỏa trong thực tiễn, làm gia tăng hiệu quả hoạt động tuyên truyền về biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tạo sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, hành động cho mọi đối tượng, lực lượng và người dân trong tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Theo đó, để tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần tuân thủ các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp

Đây là yêu cầu cơ bản, có tính nguyên tắc, xuyên suốt trong quá trình tuyên truyền phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Theo đó, đoàn viên, thanh niên cần được tuyên truyền để có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, quan điểm Đại hội XII, XIII về bảo vệ Tổ quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. 

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là chủ thể quyết định phương hướng, mục tiêu, chủ trương, biện pháp tuyên truyền phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Do đó, trong quá trình lãnh đạo, cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên bổ sung nội dung, biện pháp lãnh đạo bám sát sự vận động, phát triển của tình hình, nhất là thực trạng và kết quả phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Từ đó có những biện pháp thích hợp trong giáo dục, quán triệt, động viên đoàn viên, thanh niên tích cực thực hiện nhiệm vụ, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm lan tỏa sức mạnh ý chí, niềm tin của toàn dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đội ngũ cán bộ chủ trì và các cấp theo chức trách, nhiệm vụ cần quản lý chặt chẽ số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ đoàn viên, thanh niên, nắm bắt được tinh thần, ý thức, trách nhiệm tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của từng đoàn viên, thanh niên. Chủ động, kịp thời tham mưu đề xuất với cấp ủy, tổ chức đảng chủ trương, biện pháp lãnh đạo; kế hoạch công tác của cơ quan, đơn vị cần xác định nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền cho đoàn viên, thanh niên phù hợp, hiệu quả.

Hai là, tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị và địa phương

Tham gia tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, cơ sở của các tổ chức, các lực lượng. Trong đó, đoàn viên, thanh niên là lực lượng quan trọng đảm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức và mỗi địa phương. Do đó, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo không thể tách rời với quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và từng địa phương, nơi đoàn viên, thanh niên sinh sống, công tác.

Nội dung, biện pháp tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho đoàn viên, thanh niên phải được xác định trên cơ sở đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương; đồng thời có sự kết hợp hài hòa giữa bồi dưỡng nhận thức, lập trường chính trị với nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần quyết tâm vượt khó để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. 

Ba là, tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải tiến hành thường xuyên, liên tục trên cơ sở kết hợp sức mạnh của các tổ chức, lực lượng

Yêu cầu này xuất phát từ tính chất, đặc điểm của nhiệm vụ tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay. Theo đó, tuyên truyền phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện gắn kết trong tất cả lĩnh vực hoạt động, các nhiệm vụ của lực lượng đoàn viên, thanh niên. Nội dung phát huy cần được xây dựng, bổ sung kịp thời, bảo đảm tính cập nhật, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và địa phương. Trọng tâm là hướng đến giúp đoàn viên, thanh niên không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, cống hiến công sức, trí tuệ cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 

Để tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phân định rõ vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức, lực lượng và phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng đó. Từng tổ chức, lực lượng phải xác định rõ tầm quan trọng, mục đích, nội dung. phương châm, phương pháp phối hợp tuyên truyền bảo đảm hiệu quả. Cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo; thủ trưởng chủ động triển khai chủ trương lãnh đạo của tổ chức đảng về phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên và lập kế hoạch để tổ chức đoàn, tổ chức quần chúng xây dựng chương trình hành động cụ thể. Mọi hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải gắn với quá trình giáo dục, nâng cao ý thức tự giác của mỗi đoàn viên, thanh niên. Việc kết hợp phải được nêu rõ trong nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy đảng, trong kế hoạch công tác, chương trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức địa phương. Việc phối hợp giữa các tổ chức, lực lượng cần được thực hiện trên cơ sở quy chế cụ thể, rõ ràng.

Bốn là, tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải coi trọng động viên tinh thần trách nhiệm, sáng tạo, tích cực, tự giác của từng đoàn viên, thanh niên 

Để thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi mỗi đoàn viên, thanh niên cần nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể, khách quan những ưu điểm, hạn chế của bản thân trong tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trên cơ sở đó xác định động cơ đúng đắn, xây dựng ý chí quyết tâm cao trong tự học tập, rèn luyện nâng cao chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Cùng với đó, đoàn viên, thanh niên phải thường xuyên nắm vững các quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, pháp luật về biển để chủ động trong tham gia tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo trước yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong tình hình mới... Từ đó, đoàn viên, thanh niên phải chủ động đề cao ý thức trách nhiệm, tích cực, sáng tạo trong tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

3. Giải pháp tuyên truyền, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sự phối hợp của các tổ chức, các lực lượng về vai trò và phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo 

Nhận thức là sự phản ánh tích cực, chủ động hoạt động thực tiễn và có vai trò chỉ đạo, định hướng hành động của con người. Theo đó, nếu các tổ chức, các lực lượng tham gia phát huy có nhận thức đúng đắn, đầy đủ sẽ là cơ sở quan trọng để xác định đúng đắn các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, các chiến lược, kế hoạch tổ chức thực hiện; tạo sự thống nhất ý chí và hành động, phát huy được sức mạnh tổng hợp, khắc phục được những biểu hiện lệch lạc, sai trái cả về nhận thức và hành động. Hơn nữa, việc phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay luôn chịu sự tác động sâu sắc của nhiều yếu tố, cả thuận lợi và khó khăn. Vì vậy, tiếp tục nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng về vai trò của đoàn viên, thanh niên và sự cần thiết phát huy vai trò của lực lượng này trong tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định, là “chìa khóa” bảo đảm cho hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo được tiến hành thường xuyên, đạt chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức hoạt động tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo 

Đổi mới nội dung, hình thức hoạt động tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần theo hướng đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền. Ngoài việc tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng, tuyên truyền lưu động thông qua các hoạt động văn hóa - văn nghệ, băng rôn, khẩu hiệu, panô, áp phích... các nội dung về chủ quyền biển, đảo cần được tuyên truyền thông qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học của đoàn viên, thanh niên. Cùng với việc đa dạng hóa hình thức, cần chú trọng đổi mới phương pháp bằng cách lựa chọn nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng thời điểm, quy mô, cấp độ, địa bàn cụ thể. Đặc biệt, cần chú trọng phát huy lợi thế của các phương tiện truyền thông hiện đại, có sức lan tỏa lớn trên nền tảng internet, mạng xã hội... Qua đó góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Ba là, tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong các phong trào của đoàn viên, thanh niên

Đây là giải pháp quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả việc thực hành phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay. Đoàn viên, thanh niên được tham gia các hoạt động thực tiễn bảo vệ chủ quyền biển, đảo sẽ góp phần nâng cao nhận thức về vị trí vai trò của biển, đảo và vai trò, trách nhiệm của mình. Từ đó, có những hành động cụ thể, hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động tuyên tuyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo với nội dung, chương trình giáo dục chính trị cho đoàn viên, thanh niên. Đồng thời, tăng cường công tác giao lưu, phối hợp giữa các tổ chức đoàn ở các cơ quan, địa phương có biển, đảo; phát huy hiệu quả hoạt động dân vận, kết nghĩa góp phần xây dựng đoàn kết gắn bó quân dân, tạo môi trường, điều kiện để đoàn viên, thanh niên khẳng định và phát huy vai trò trong tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.

Bốn là, khơi dậy tính tích cực, tự giác, chủ động của đoàn viên, thanh niên trong tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo 

Đây là giải pháp trực tiếp phát huy nhân tố chủ quan, phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên với tư cách là chủ thể tự phát huy. Thực chất của việc phát huy vai trò là tính chủ động, tích cực, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên trong tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo là để chuyển hóa những yêu cầu khách quan thành nhân tố chủ quan, tạo tiền đề làm cho nhân tố này được mở rộng, góp phần làm tốt hơn việc tuyên truyền. 

Hiện nay các thế lực thù địch đang xuyên tạc, tuyên truyền sai sự thật, vu khống Việt Nam vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, đưa ra những căn cứ không đúng sự thật, phi lịch sử, kích động tư tưởng nước lớn, lợi ích dân tộc nhằm độc chiếm Biển Đông. Do đó, cần khơi dậy tính tích cực, chủ động, tự giác; xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm, niềm tin, ý chí quyết tâm đoàn viên, thanh niên; đồng thời chủ động nhận diện những âm mưu, thủ đoạn xâm lấn, vi phạm chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa. 

_________________

Ngày nhận bài: 15-6-2023; Ngày bình duyệt: 19-6-2023; Ngày duyệt đăng: 30-6-2023.

 

(1) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghị quyết số 25-NQ/TW, Hà Nội, ngày 25-7-2008.

(2) Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê về dân số thanh niên năm 2018 -2020.

(3) https://thuvienphapluat.vn: Quyết định số 1331-QD/TTg ngày 24-7-2021 ban hành chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2021-2030.

(4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.161, 110.

ĐỖ THÀNH TRUNG

TRẦN NGỌC TRUNG 

Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng

 

Vận dụng quan điểm đổi mới sáng tạo trong cuốn sách của Tổng Bí thư, tạo động lực mới đưa Quảng Nam phát triển nhanh và bền vững

ThS NGUYỄN THANH BÌNH
Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam

(LLCT) - Đổi mới sáng tạo để tạo động lực mới phát triển nhanh và bền vững đất nước là một trong những quan điểm cốt lõi, nổi bật trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Bài viết phân tích những định hướng, tư tưởng chỉ đạo để đưa quan điểm đổi mới sáng tạo thành động lực mới của sự phát triển và đưa ra những giải pháp nhằm vận dụng vào thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
 


1.       Đổi mới sáng tạo để tạo động lực mới phát triển nhanh và bền vững đất nước

Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(1) là một trong những động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước. Từ quan điểm trên, bài viết phân tích, làm rõ các định hướng, tư tưởng chỉ đạo nhằm biến đổi mới sáng tạo thành động lực mới của sự phát triển nhanh và bền vững đất nước ở các nội dung sau:

Thứ nhất, gắn đổi mới sáng tạo với phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam

Tổng Bí thư gắn liền vấn đề “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam” với nội dung “thúc đẩy đổi mới sáng tạo”, khi Đảng ta siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm những vi phạm thì đâu đó trong hệ thống chính trị có xu hướng co lại, không dám đổi mới sáng tạo, thậm chí có hiện tượng bảo thủ, trì trệ và suy thoái. Hơn nữa, trong hệ thống văn bản của Đảng chưa có quy định bảo vệ những cán bộ dám đột phá, đổi mới sáng tạo. Trong khi đó, bản chất công cuộc đổi mới ở nước ta là kết quả của một quá trình dám làm, dám sửa và đổi mới sáng tạo, luôn là những việc khó, việc mới, chưa từng có tiền lệ, nên khi khai phá, thực hiện gặp rất nhiều khó khăn.

Trước thực trạng đó, Tổng Bí thư đã chỉ rõ cần “Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(2). Bộ Chính trị cũng đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 “về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”, đây là một chủ trương đúng đắn, kịp thời để cán bộ và nhân dân có động lực vượt qua trở ngại, chủ động phát hiện bất hợp lý trong cuộc sống, dám đổi mới sáng tạo.

Khẳng định nền văn hóa, con người Việt Nam là động lực của sự phát triển đất nước, Tổng Bí thư đã đặt ra yêu cầu phải tạo nguồn lực nội sinh, “phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam”(3). Trong bài viết Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Tổng Bí thư đã coi “tự cường”, “sáng tạo” là giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc cần giữ gìn và phát huy(4). Mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp, con người Việt Nam sẽ có năng lực chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao năng lực trong hội nhập, đổi mới sáng tạo. Đổi mới sáng tạo, với tư cách là động lực mới của sự phát triển sẽ khơi dậy ý chí, khát vọng để con người vươn tới các giá trị nhân văn, tiến bộ. Mục tiêu của đổi mới sáng tạo là nhằm giải phóng, phát triển toàn diện con người. Mục tiêu ấy thống nhất với định hướng xây dựng, phát huy nền văn hóa, con người Việt Nam và với mục tiêu phát triển đất nước. Tổng Bí thư đặt đổi mới sáng tạo với phát huy nền văn hóa, con người Việt Nam trong một chỉnh thể khi đề cập đến nguồn lực của đất nước không chỉ là sự sắp xếp về mặt câu chữ mà còn thể hiện rõ quan điểm phát triển toàn diện con người Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thứ hai, coi đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm, xuyên suốt trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Trong sắp xếp các nguồn lực phát triển của đất nước, Tổng Bí thư đặt vấn đề thúc đẩy đổi mới sáng tạo trước nội dung “ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Qua đó, không chỉ nhấn mạnh vai trò của đổi mới sáng tạo đối với quá trình phát triển mà còn đề cao tính chủ động, tối ưu hóa nguồn lực từ cuộc Cách mạng công nghiệp mang lại. Cuộc cách mạng này đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới mọi lĩnh vực cuộc sống con người, tạo động lực cho phát triển bền vững. Tất nhiên nó chỉ trở thành động lực phát triển khi được định hướng, quản lý, ứng dụng một cách chủ động, sáng tạo vì mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, cùng với tiếp thu, ứng dụng có chọn lọc những thành tựu của khoa học và công nghệ thì việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo là yêu cầu căn bản, đầu tiên để bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Để đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN, Tổng Bí thư đã nêu ra 7 định hướng lớn trong 10 năm tới với nhiều vấn đề mới, nổi bật. Trong đó, trước tiên là định hướng liên qua trực tiếp đến nội dung đổi mới sáng tạo. Cùng với tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển bền vững đất nước, cần “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số(5). Đây là định hướng rất quan trọng khi đất nước đang triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030.

Để đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới CNH, HĐH như các nước tiên tiến trên thế giới, nước ta phải tận dụng được cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bởi, thông qua cuộc cách mạng này, những nước công nghiệp hóa sau có thể nỗ lực để đi cùng các nước đã đi trước, một số lĩnh vực có thế mạnh có thể phấn đấu “đi trước, vượt trước”. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải tự điều chỉnh, bổ sung đường lối chiến lược về CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Trước sự tăng tốc cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tổng Bí thư không chỉ nhấn mạnh coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, mà còn đề cao yêu cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm, xuyên suốt trong chiến lược CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa, cần chủ động tham gia, có sự bứt tốc trong chuyển đổi số để theo kịp những lĩnh vực mới của kinh tế số, xã hội số. Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo sẽ trở thành động lực quyết định tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế(6).

Thứ ba, đổi mới sáng tạo phải toàn diện, đồng bộ, do nhân dân, vì nhân dân

Đổi mới sáng tạo là thuộc tính của phát triển bền vững và luôn đòi hỏi cao về tính đồng bộ, toàn diện. Bởi bất kỳ quốc gia nào, thời kỳ nào, lĩnh vực nào cũng cần đổi mới sáng tạo, có đổi mới sáng tạo mới có phát triển. Nghiên cứu những điểm bổ sung, phát triển ở ba nhiệm vụ đột phá chiến lược ở Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện rõ định hướng thúc đẩy đổi mới sáng tạo toàn diện, đồng bộ của Đảng ta và Tổng Bí thư.

Ở đột phá thứ nhất, trong hoàn thiện thể chế cần hướng đến mục tiêu thúc đẩy đổi mới sáng tạo, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Thứ hai, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ. Thứ ba, xây dựng những tiền đề vật chất thiết yếu, hạ tầng đồng bộ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(7).

Như vậy, cả ba đột phá chiến lược đều có nội dung nhằm tạo cơ chế, tiền đề, nền tảng để thực hiện đổi mới sáng tạo, cũng như lấy đổi mới sáng tạo làm cơ sở, nguồn lực, động lực cho phát triển bền vững. Những quan điểm này của Đảng ta và Tổng Bí thư thể hiện quyết tâm cao về đổi mới sáng tạo, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu thực hiện đổi mới sáng tạo toàn diện, đồng bộ, có kết quả, có chiều sâu và bền vững.

Tổng Bí thư khẳng định, “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”(8) và “bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ… thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(9). Đổi mới sáng tạo là sự nghiệp của toàn dân nên phải có cách tiếp cận toàn dân, phải khơi dậy sức sáng tạo, tinh thần cống hiến của nhân dân và phải nhằm mục tiêu làm cho người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Suy cho cùng, nguồn lực con người là tài nguyên trí tuệ, là nền tảng cốt lõi, là phương tiện hữu hiệu nhất để biến đổi mới sáng tạo thành đòn bẩy của sự phát triển đất nước.

2. Vận dụng vào xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Nam

Thứ nhất, khơi dậy và phát huy năng lực đổi mới sáng tạo của quê hương trong cán bộ,đảng viên, nhân dân

Thực tế đã chỉ ra, ở những con người có tư tưởng và hành động sáng tạo thì đầu tiên phải là người am hiểu thực tế, có dũng khí và hơn hết là lòng trong sáng, vô tư, tâm huyết lớn đối với lợi ích của nhân dân và dân tộc. Những chủ trương, tư tưởng cấp tiến, đổi mới sáng tạo ấy đều có mục tiêu vì sự nghiệp chung, vì sự phát triển quê hương, đất nước và xuất phát từ niềm tin vào sức mạnh lớn lao của nhân dân.

Vậy nên, để khơi dậy và phát huy truyền thống quê hương, trước hết Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Nam phải thấy được, cảm nhận được tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo.

Hai là, phải nêu cao, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo và thấm đẫm trong tâm trí của mỗi người dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Ba là, cần “tạo môi trường thuận lợi phát huy cao nhất năng lực cán bộ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khuyến khích, trọng dụng cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân”(10).

Bốn là, tiếp tục “đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới”(11).

Thứ hai, triển khai thực hiện có kết quả, có chiều sâu những chủ trương của Đảng bộ, tạo động lực mới để Quảng Nam phát triển nhanh và bền vững

Văn kiện Đại hội Đảng bộ XXII tỉnh Quảng Nam thể hiện rõ chủ trương khuyến khích, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân mạnh dạn đổi mới sáng tạo. Trong Văn kiện Đại hội có 13 lần nhắc đến cụm từ “đổi mới sáng tạo” trên nhiều phương diện. Đặc biệt, nội dung của hai trong ba nhiệm vụ đột phá chiến lược trong 5 năm tới có nội hàm thể hiện rõ chủ trương tạo lực đẩy, khơi dậy, phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo toàn diện, đồng bộ để hội nhập, tận dụng thời cơ để phát triển. Đó là, “thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực”(12), “tạo môi trường làm việc thuận lợi, đồng thời với việc đào tạo về năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ hiện đại”(13), “xây dựng đề án hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cho mọi thành phần kinh tế, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; xây dựng văn hóa khởi nghiệp và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội”(14).

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ, Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 20-10-2021 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”; Hội đồng nhân dân tỉnh đã thông qua Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐND ngày 12-01-2022 “về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐND, ngày 12-7-2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2019-2025”. Các cấp chính quyền của tỉnh đã có nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học và công nghệ. Năm 2022, lần đầu tiên Bộ Khoa học - công nghệ triển khai thử nghiệm đánh giá theo Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo (PII), Quảng Nam nằm vị thứ 16/20, tỉnh thành phố.

Để thực hiện có kết quả, có chiều sâu những chủ trương của Đảng bộ về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học và công nghệ cần quán triệt quan điểm của Tổng Bí thư ở các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức, chủ động cụ thể hóa quan điểm “khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”(15) vào thực tiễn địa phương.

Hai là, sớm hoàn thiện “cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”(16); tạo bứt phá trong xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Ba là, áp dụng kết quả của đổi mới sáng tạo, thành tựu khoa học và công nghệ vào giải quyết trực tiếp các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, doanh nghiệp.

Bốn là, tham gia thực hiện một cách chủ động vào chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số; chủ động, sáng tạo vươn lên làm chủ công nghệ, tận dụng cơ hội mới từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, luôn coi trọng nhân tố con người và lấy hiệu quả thực tế làm thước đo trong đánh giá kết quả đổi mới sáng tạo

Trong các nhiệm kỳ gần đây, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam luôn coi trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và coi đó là khâu đột phá chiến lược cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của địa phương. Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 29-KL/TU ngày 04-5-2021 “về thực hiện ba nhiệm vụ đột phá chiến lược giai đoạn 2021-2025” với nhiều giải pháp quyết liệt về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và cải thiện môi trường đầu tư, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 20-12-2021 của Tỉnh ủy “về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030” và các đề án, chính sách cụ thể để triển khai thực hiện.

Nhân tố con người là nguồn lực mạnh nhất, tiềm tàng nhất và là tài sản vô giá của đất nước. Để khơi dậy sức mạnh đó trở thành “vốn liếng”, nguồn lực chính của đổi mới sáng tạo, Quảng Nam cần tiếp tục quán triệt quan điểm coi trọng nhấn tố con người trên các phương diện cơ bản:

Một là, phải tạo dựng môi trường xã hội tối ưu để mọi người sinh sống, làm việc, phát huy năng lực đổi mới sáng tạo. Trong đó, môi trường chính trị cần đề cao tư duy phản biện, có cơ chế thuận lợi cho cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo và trọng dụng nhân tài. Về môi trường kinh tế, cần tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, lành mạnh, chú trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về môi trường văn hóa - giáo dục, cần khơi dậy khát vọng phát triển quê hương, nêu cao tinh thần giáo dục khai phóng, coi trọng thực học, thực tài.

Hai là, lấy phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị làm cơ sở, động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân. Mọi người đều có thể tham gia đổi mới sáng tạo, trước hết là đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, ngành. Chủ thể này có vai trò quyết định trong hoạch định và thực thi chính sách, cũng như đưa ra tầm nhìn cho đổi mới sáng tạo. Vậy nên, bên cạnh việc phát huy tính năng động sáng tạo, khát vọng cống hiến, ý thức trách nhiệm cũng cần khắc phục sự trì trệ, giáo điều, rập khuôn, định kiến, ỷ lại của một bộ phận đội ngũ cán bộ.

Ba là, muốn làm rõ nội hàm đúng - sai, thành - bại trong mỗi quyết định, hành động đổi mới sáng tạo thì phải căn cứ vào thực tiễn, lấy chất lượng cuộc sống của nhân dân làm thước đo. Chỉ khi đánh giá đúng kết quả đổi mới sáng tạo mới có thể công nhận, nhân rộng, biến nó thành động lực của sự phát triển. Điều này cũng liên quan đến việc xem xét người đổi mới sáng tạo có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung hay không. Do đó, Quảng Nam cần sớm cụ thể hóa chủ trương của Trung ương trong đánh giá kết quả đổi mới sáng tạo theo hướng căn cứ vào tác dụng đối với sự phát triển, hiệu quả của nó trong cuộc sống; là lòng dân thuận hay không thuận.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo có giá trị lý luận, thực tiễn to lớn về đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Con đường tiến đến thịnh vượng với đòn bẩy đổi mới sáng tạo chỉ thành công khi đặt đổi mới sáng tạo như một ưu tiên hàng đầu, biết cách tập trung phát triển nguồn lực con người và xác định các lợi thế để tạo lập ưu thế cạnh tranh của riêng mình. Tỉnh Quảng Nam đã lựa chọn con đường đó và đang đi đúng hướng với khát vọng phát triển nhanh và bền vững.

_________________

Ngày nhận bài: 21-2-2023; Ngày bình duyệt: 25-2-2023; Ngày duyệt đăng: 31-10-2023.

(1), (2), (3), (5), (8),  (11), (15), (16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc giaSựthật, Hà Nội, 2022,tr.52, 57,170, 54, 60, 193, 268, 64.

(4), (6), (7) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,tr.170,59, 64-65.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.110.

(10), (12), (13), (14) Đảng bộ tỉnh Quảng Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025, Sở Thông tin và Truyền thông Quảng Nam, 2020, tr.161-162, 83, 83, 85.