Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

 Nghệ An ban hành Chỉ thị tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Quang cảnh phiên họp thường kỳ tháng 5-2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An. Ảnh: Thành Duy

Theo đánh giá của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, thời gian qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, quyết liệt, đồng bộ của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn toàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng không ngừng được nâng cao; tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng được đổi mới; hoạt động của chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chuyển biến tích cực, rõ nét; chất lượng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp được nâng lên và có bước trưởng thành, tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên đều có ý thức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh còn một số hạn chế, khuyết điểm đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế; thực hiện quy chế làm việc chưa nghiêm, thiếu dân chủ, lạm quyền hoặc buông lỏng lãnh đạo, vẫn còn tình trạng chưa thực hiện nghiêm túc chủ trương, nghị quyết, quy định của Đảng. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, hiệu lực, hiệu quả thấp. Phương thức hoạt động của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có nơi, có lúc chậm đổi mới, thiếu linh hoạt và chưa sâu sát thực tiễn. Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện thiếu tâm huyết, trách nhiệm không cao, chưa thực hiện tốt vai trò nêu gương, còn đùn đẩy, né tránh việc khó, việc phức tạp... 

Để phát huy những ưu điểm, kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung lãnh đạo chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức gắn với đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu; thực hiện nghiêm Quy định số 144- QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Thường xuyên nắm bắt, đánh giá tình hình, diễn biến tư tưởng, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận, quyết tâm trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

Đẩy mạnh việc sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tập trung lãnh đạo xây dựng bộ máy chính quyền các cấp chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, thực sự của dân, do dân, vì dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của cấp ủy, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi cản trở, gây phiền hà, nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tham ô, lãng phí...

 Không thể xuyên tạc tinh thần quốc tế trong sáng của những chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam

Thời gian qua, cùng với những định kiến thiếu thiện cảm trên các lĩnh vực, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng xuyên tạc, chống phá chủ trương hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng ngày càng sâu rộng của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có nhiệm vụ Quân đội tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đây là vấn đề không mới nhưng rất nguy hiểm, cần chủ động nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là quan điểm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp toàn quân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại quốc phòng, đạt nhiều kết quả quan trọng, trở thành điểm sáng trong tổng thể hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước. Tiêu biểu là Bộ Quốc phòng đã chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Và chính những chiến sĩ “mũ nồi xanh” ấy bằng những việc làm cụ thể, đã và đang không ngừng tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trong sáng; xứng đáng vai trò là những “sứ giả hòa bình”, làm lan tỏa hình ảnh tốt đẹp về Quân đội nhân dân Việt Nam, về đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế.

Thế nhưng với bản chất phản động, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật. Họ cho rằng: việc cử lực lượng Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là không cần thiết và cho đó là việc “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng”. Hơn thế, họ còn lập luận: chủ trương cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là tham gia liên minh quân sự; hay hoạt động của các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam là sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, v.v. Từ suy diễn đó, họ hồ đồ kết luận, việc Quân đội tham gia hoạt động trên là không tuân thủ chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam, v.v.

Trước hết, cần khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái; xuyên tạc hoạt động mang đầy ý nghĩa nhân văn trên tinh thần tích cực, chủ động, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế của Việt Nam. Mục đích của những luận điệu trên không ngoài ý đồ gây nghi ngờ, hoang mang trong nhân dân, hạ thấp uy tín, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sâu xa hơn, đó còn là sự chống phá đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; phủ nhận tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của Việt Nam, hòng phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, làm mất lòng tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cần nêu cao cảnh giác, chủ động nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái đó.

Nữ quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam công tác tại Phái bộ MINUSCA và thiếu niên Cộng hòa Trung Phi. Nguồn: Cục GGHB Việt Nam

1. Minh chứng từ lịch sử

Năm 1939, với tư tưởng chính trị cực hữu, độc tài và đàn áp đối lập,... chủ nghĩa phát xít, đứng đầu là liên minh Đức - Ý - Nhật đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên khắp các châu lục. Theo số liệu thống kê, chỉ trong 02 năm từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, hầu hết các quốc gia ở châu Âu; các quốc gia, vùng lãnh thổ ở Đông Á, Đông Nam Á; các nước và thuộc địa của các nước tư bản châu Âu ở châu Phi đều bị phát xít Đức và đồng minh xâm lược hoặc chấp nhận trở thành “chư hầu” của chủ nghĩa phát xít.

Để ngăn chặn chiến tranh, ngày 01/01/1942, tại Washington, đại diện lãnh đạo 26 quốc gia ký bản “Tuyên bố Liên hợp quốc”, cam kết cùng nhau chống lại chủ nghĩa phát xít trên thế giới. Thực hiện Tuyên bố này, quân đội các nước đồng minh, nhất là Hồng quân Liên Xô đã chiến đấu quả cảm, không những chặn đứng các đợt tiến công của phát xít Đức, mà còn chủ động nắm vững thời cơ thực hành phản công đánh bại quân Đức trên toàn mặt trận và thừa thắng tiến thẳng vào sào huyệt của đế chế Đức, buộc phát xít Đức và đồng minh đầu hàng vô điều kiện. Như vậy, với tinh thần đoàn kết quốc tế trong chiến đấu, các nước đồng minh chống phát xít đã làm nên chiến thắng vĩ đại, chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử loài người, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít, lập lại hòa bình trên toàn thế giới. Từ minh chứng lịch sử cho thấy, để giải quyết khủng hoảng, duy trì một thế giới hòa bình và phát triển, cần có sự chung tay, góp sức của tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ. Đó cũng là tuyên bố và cam kết của các nước được thể hiện trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945; là một trong những cơ sở cho việc hình thành một cơ chế đặc biệt - hoạt động gìn giữ hòa bình, được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc triển khai lần đầu tiên vào năm 1948.

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Cùng với những tuyên bố ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống áp bức, bóc lột, vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới, thì chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, “giúp bạn là tự giúp mình”, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới và phương châm chiến lược “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rất rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và luôn là quan điểm nhất quán của Đảng ta.

Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điện thư gửi đại diện các quốc gia thành viên thường trực Liên hợp quốc, bày tỏ nguyện vọng gia nhập tổ chức quốc tế lớn nhất này. Trong thư, Người viết: “Nhân dân Việt Nam mong muốn hợp tác với Liên hợp quốc vì sự nghiệp tạo ra nền hòa bình lâu dài trên toàn thế giới”1. Cùng với đó là đường lối lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của Đảng về đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; cũng như việc cử các chuyên gia Việt Nam sang giúp nước bạn xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, v.v. Tinh thần “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”2, là những minh chứng sinh động khẳng định tinh thần đoàn kết quốc tế, tương trợ giúp đỡ vô tư, trong sáng chống kẻ thù chung, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước của ba nước Đông Dương. Đặc biệt, biểu hiện trách nhiệm quốc tế trong sáng, thủy chung của Việt Nam còn được thể hiện khi hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh xương máu của mình trong cuộc chiến tranh chống lại Tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng-xa-ri, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước Chùa Tháp từ bên bờ vực của sự diệt vong. Ghi nhận sự đóng góp cao cả này, Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội Việt Nam,… Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”3. Điều đó càng làm sáng tỏ sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa với Bạn và tinh thần quốc tế trong sáng của Quân đội và nhân dân Việt Nam.

2. Cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc - chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong bối cảnh mới

Trung tướng Phạm Trường Sơn thăm, làm việc với lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Phái bộ UNISFA. Nguồn: qdnd.vn

Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết quốc tế trong sáng, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chủ động, tích cực tham mưu với Đảng, Nhà nước thực hiện có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của Việt Nam đối với các vấn đề quốc tế mà Việt Nam ký kết; trong đó có việc cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Bằng lộ trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp thực tiễn phát triển của đất nước, tình hình khu vực và thế giới, việc cử lực lượng vũ trang tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc được Việt Nam tiến hành bài bản4, đạt được hiệu quả tích cực, được nhân dân trong nước đồng tình ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc: “... Bảo đảm độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, điều kiện và khả năng của Việt Nam; tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia; chỉ tham gia hoạt động hỗ trợ khắc phục hậu quả chiến tranh, duy trì hòa bình sau xung đột, vì mục đích nhân đạo trên cơ sở đề nghị của Liên hợp quốc; chỉ triển khai ở quốc gia, khu vực đã được Liên hợp quốc thành lập phái bộ và tại các cơ quan của Liên hợp quốc”5, từ năm 2014 đến tháng 5/2024, Việt Nam đã cử hơn 800 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình tại các phái bộ của Liên hợp quốc, gồm: Nam Sudan (UNMISS), Cộng hòa Trung Phi (MINUSCA), khu vực Abyei (UNISFA), Phái bộ Huấn luyện của Liên minh châu Âu tại Cộng hòa Trung Phi. Đặc biệt, cùng với cử lực lượng tham gia hình thức cá nhân hoạt động độc lập, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử 02 đội hình đơn vị (gồm: 05 Bệnh viện dã chiến cấp 2 và Đội Công binh số 1, số 2) thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các khu vực ở châu Phi - nơi còn nhiều khó khăn, bất ổn.

Mặc dù hoạt động ở môi trường đặc thù, đa phương cùng nhiều sĩ quan, nhân viên các quốc gia trên thế giới, song bằng tinh thần nhiệt huyết và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực công tác tốt, đội ngũ sĩ quan, nhân viên “mũ nồi xanh” của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không những được Liên hợp quốc, chỉ huy Phái bộ ở các địa bàn ghi nhận “là hình mẫu” cho nhiều nước khác, mà còn được chính quyền, nhân dân nước sở tại đánh giá cao thông qua việc tích cực tham gia thực hiện nhiều chương trình y tế nhân đạo, cứu trợ thiên tai, cứu hộ, hỗ trợ người dân vùng nông thôn nghèo khó và các trẻ em mồ côi, tàn tật, các dự án phát triển cộng đồng cho người dân bản địa, giúp giảm bớt nghèo đói, cải thiện điều kiện sống. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, tỷ lệ sĩ quan Việt Nam công tác tại các phái bộ Liên hợp quốc đạt xuất sắc và đặc biệt xuất sắc là trên 30% (trong khi đó tỷ lệ bình quân của Liên hợp quốc chỉ là 01% - 02%). Hàng trăm sĩ quan “mũ nồi xanh” của Quân đội nhân dân Việt Nam ở nhiều vị trí, được chỉ huy các phái bộ Liên hợp quốc khen thưởng. Các Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam với năng lực chuyên môn tốt, tinh thần trách nhiệm cao, luôn là chỗ dựa tin cậy về chăm sóc sức khỏe cho nhân viên Liên hợp quốc tại địa bàn và người dân địa phương. Đội công binh số 1, số 2 sau thời gian triển khai tại Phái bộ An ninh lâm thời của Liên hợp quốc ở khu vực Abyei (UNISFA), được Chỉ huy Phái bộ đánh giá đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo của Phái bộ6. Phát biểu tại Hội nghị Tổng kết nhiệm kỳ công tác tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: Với truyền thống hào hùng của dân tộc và của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, các cán bộ, chiến sĩ Đội Công binh số 1 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 đã góp phần tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, cùng với hình ảnh chiến sĩ “mũ nồi xanh” và lá cờ đỏ sao vàng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế và trong mắt bạn bè thế giới.

Đội Công binh Việt Nam cung cấp nước sạch cho người dân Abyei. Nguồn: qdnd.vn

Cùng với đó là những minh chứng sống động thông qua sự ghi nhận, đánh giá của các quan chức Liên hợp quốc, chỉ huy các phái bộ Liên hợp quốc; của chính quyền, người dân địa phương và bạn bè quốc tế về hiệu quả hoạt động của lực lượng “mũ nồi xanh” của Quân đội đội nhân dân Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã phát biểu “Việt Nam là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc, đã có nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả trong tham gia lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và trên cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc”. Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc phụ trách các hoạt động hòa bình - Jean Pierre Lacroix đánh giá “Những hoạt động Việt Nam tiến hành gần đây nhằm củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động gìn giữ hòa bình rất đáng làm hình mẫu cho nhiều nước khác”; đồng thời, bày tỏ “Tôi đã tới thăm khu vực Abyei và Nam Sudan, nơi lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam đang thực hiện tại các Phái bộ và đã được chứng kiến, nghe kể về những gì Bệnh viện dã chiến cấp 2 và Đội Công binh của các bạn đã góp phần hỗ trợ cuộc sống của các cộng đồng dân cư nước sở tại”. Tại Phái bộ MINUSCA, khi trao tặng giấy khen cho Trung tá Nguyễn Thị Liên, Trung tướng Daniel Traore, Chỉ huy trưởng lực lượng quân sự Phái bộ phát biểu “Lòng nhân từ, bác ái và thiện chí của cô thể hiện những giá trị cốt lõi của Liên hợp quốc. Cô xứng đáng là Đại sứ tuyệt vời của Việt Nam”. Đại úy Danso Agyei Aduse Poku, Chỉ huy căn cứ tạm thời, tiểu đoàn bộ binh Ghana tại khu vực Rumamier ghi nhận “Cuộc sống của chúng tôi tốt lên từ khi có các bạn xuất hiện. Nhiều công trình mới được xây dựng. Chúng tôi được khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí. Mọi người rất thân thiện và hòa đồng”. Tại Bentiu (Cộng hòa Nam Sudan) phát biểu tại buổi chia tay Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam, Quyền trưởng văn phòng hỗ trợ thực địa phái bộ UNMISS - Bà Jana Kony, chia sẻ: “Người dân tại UNMISS nói rằng làm ơn đừng đi, nhưng nếu các bạn phải rời đi, hãy đảm bảo rằng các bạn sẽ quay trở lại,... khi các bạn rời đi hãy biết rằng các bạn được tôn trọng”, v.v.

Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc - bước hiện thực hóa đường lối hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Những đóng góp và thành công trên chặng đường 10 năm qua của các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho thấy, việc triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Từ chủ trương đúng đắn đến những kết quả “biết nói” thông qua sự ghi nhận, đánh giá cao của Liên hợp quốc và hàng loạt các hoạt động thiết thực, hiệu quả mang nhiều ý nghĩa nhân văn, nhân ái sâu sắc đối với người dân trên các địa bàn, khu vực có sự hiện diện của lực lượng “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; góp phần bảo vệ vững chắc đường lối và mục tiêu đối ngoại của Đảng, Nhà nước; nâng cao vị thế, uy tín và vai trò của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển của mọi quốc gia trên thế giới.

Nguồn: XUÂN CƯỜNG – NGHIÊM HẠNH

 Phản bác luận điệu xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam

Tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết và nghiêm túc thực hiện theo nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị luôn xuyên tạc thực tế đó nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Phóng viên báo chí tác nghiệp tại một sự kiện lớn. Nguồn: nhandan.vn

Vẫn “nhai lại” mớ luận điệu cũ rích.

Như thường lệ, nhân Ngày Tự do Báo chí thế giới (03/5) năm nay, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF)1 đã đăng tải cái gọi là “Chỉ số tự do báo chí Thế giới năm 2024”; trong đó, xếp Việt Nam đứng thứ 174/180 quốc gia, kèm theo vô số những lời “bình luận”, như: “Việt Nam vẫn là quốc gia “tồi tệ nhất” về tự do báo chí”, “Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới”, v.v.

Và “té nước theo mưa”, một số website, trang mạng xã hội của các tổ chức phản động, chống phá Việt Nam thi nhau đưa tin, viết bài xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam với những luận điệu, như: “Vì sao Việt Nam luôn bị “đội sổ” về tự do báo chí trên thế giới?”;  “Độc đảng thì không thể tự do báo chí”,… rồi chúng cho rằng: báo chí  ở Việt Nam “bị” Đảng, Nhà nước “đăng ký”, “kiểm duyệt”, “hà khắc”,... nhằm xuyên tạc sự nghiệp lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí. Mục đích cuối cùng của những luận điệu đó luôn hướng tới việc đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, kêu gọi thay đổi thể chế chính trị ở nước ta. Để hà hơi, tiếp sức cho những luận điệu xuyên tạc của bọn phản động, cơ hội chính trị, một số đài, báo phương Tây vốn định kiến với Việt Nam, như: BBC, RFI, RFA, VOA,... thi nhau la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình tự do báo chí của Việt Nam. Từ đó, chúng đẩy mạnh các hoạt động cổ xúy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” với mục đích chính trị phản động.

Song, điều đáng nói là tất cả những cái gọi là “nhận định, đánh giá” mà họ đưa ra đều dựa trên những nhận xét, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan, “nhai đi nhai lại” những điều bịa đặt về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam của RSF trong nhiều năm qua. Cả RSF và các website, trang mạng xã hội nói trên đều cố tình phớt lờ thực tế sinh động về tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong chính hoạt động thực tiễn của các phóng viên, cơ quan báo chí.

Bản thân RSF thực chất cũng chỉ là một tổ chức “nửa mùa”, nhuốm màu chính trị. Bởi, lấy danh nghĩa là tổ chức bảo vệ nền báo chí thế giới theo phương thức khoa học, “bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ” và hành động trên cơ sở của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc, nhưng RSF thường xuyên có những luận điệu quy chụp, xuyên tạc tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận của các nước, đi ngược lại chủ trương của Liên hợp quốc và trái với tôn chỉ của chính mình. Để khuếch trương uy tín, RSF ra sức bênh vực công khai những đối tượng lấy danh nghĩa báo chí để thực hiện các hành vi phạm tội, đã bị các quốc gia xử lý hình sự để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam, tìm cách hạ uy tín, kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trong đó có các đối tượng, như: Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng, v.v. Thật nực cười khi trong số những “nhà báo độc lập” theo cách gọi của RSF có cả những người chưa từng làm báo, chưa qua trường lớp báo chí, họ mới chỉ viết bài chống đối chính quyền trên mạng xã hội đã được RFS tung hô, xưng tụng. Điểm qua một vài ví dụ để chúng ta hiểu và tỏ tường bản chất thật của RFS là gì? Câu trả lời là lợi dụng cái gọi là quyền “tự do báo chí” để dựng chuyện, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Không thể phủ nhận thành tựu tự do báo chí ở Việt Nam.

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, đó là sự thật không thể phủ nhận. Về mặt pháp lý, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại Điều 10 của bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946 nêu rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam sau đó và việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Luật Báo chí (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân”. Cũng theo Luật này, công dân được tham gia vào các quy trình sáng tạo, sản xuất sản phẩm báo chí, tiếp nhận báo chí, ngôn luận trên báo chí; các cơ quan báo chí có trách nhiệm bảo đảm công dân thực hiện quyền tự do báo chí theo quy định. Cơ quan báo chí và nhà báo được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ, không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng; được tạo mọi điều kiện tốt nhất để hoạt động nghề nghiệp, không ai có quyền cản trở nhà báo khai thác và thể hiện thông tin theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, nền báo chí Việt Nam có sự phát triển lớn mạnh không ngừng, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn đã chứng minh, báo chí Việt Nam luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân; luôn bám sát cuộc sống, phản ánh đúng, trúng, nhanh nhạy, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội; kịp thời định hướng dư luận, tích cực đấu tranh với cái sai, điều xấu, phản bác luận điệu sai trái, thù địch. Báo chí còn là diễn đàn ngôn luận mang tính phản biện cao và là cầu nối chuyển tải ý nguyện, công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 01/2024, cả nước có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí, 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình; hầu hết đã và đang được chuyển đổi thành cơ quan truyền thông đa phương tiện, đa loại hình, hiện diện trên môi trường internet với các loại hình báo chí di động, báo chí mạng xã hội, báo chí trí tuệ nhân tạo,... mang tính tương tác cao, đáp ứng nhu cầu báo chí mọi lúc, mọi nơi cho mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người; tính đến tháng 12/2023, tổng số người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021 - 2025 là 20.508 trường hợp; trong đó, 7.587 trường hợp có bằng tốt nghiệp đại học trở lên ngành báo chí. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí cũng đang phát triển mạnh mẽ với gần 40 hãng truyền thông quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam và được tạo điều kiện thuận lợi mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào trong tiếp cận công chúng, trong đó có nhiều hãng truyền thông lớn, như: CNN, Reuters, TV5, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga), Bloomberg, v.v. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi trong tác nghiệp; đồng thời, có nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi để nhà báo Việt Nam được học tập, tác nghiệp tại nước ngoài. Thực tế đó bác bỏ hoàn toàn mọi luận điệu cho rằng tình hình tự do báo chí tại Việt Nam đang ngày càng xấu đi.

Tuy nhiên, xin được nhắc lại rằng: trong mọi lĩnh vực, ở mọi quốc gia không thể có thứ tự do nào vô giới hạn, vô chính phủ, đứng ngoài pháp luật. Do đó, tự do báo chí ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải luôn đặt trong khuôn khổ của pháp luật của quốc gia đó. Luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều khẳng định quyền tự do báo chí không phải là một quyền tuyệt đối, mà phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân. Chẳng hạn như, Điều 18, Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Ðức quy định: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền,… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”; Điều 2385, Bộ luật Hình sự của Mỹ nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”. Do đó, không thể lấy danh là “nhà báo tự do” mà có thể đứng ngoài vòng pháp luật. Việc các nhà báo hoặc giả danh nhà báo thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam, như: Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng,… đều bị trừng trị thích đáng là điều tất yếu, theo đúng pháp luật Việt Nam, chứ hoàn toàn không có chuyện Việt Nam giam giữ nhà báo “tuỳ tiện” như RSF quy chụp.

Những thông tin sai trái, thù địch, xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam là vô cùng nguy hiểm, tạo ra cái nhìn thiên lệch, thiếu thiện cảm của cộng đồng quốc tế về Việt Nam, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, du lịch, phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc nhận diện, phản bác, đấu tranh chống thông tin sai lệch, xuyên tạc về tự do báo chí đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; trong đó đội ngũ nhà báo chân chính là lực lượng nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách đó, đòi hỏi đội ngũ nhà báo phải có: (1). Bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngừng trao dồi, nâng cao trình độ chuyên môn; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp trong tác nghiệp. (2). Đề cao tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm xã hội, lòng tự trọng nghề nghiệp để bám sát thực tiễn cuộc sống; tiên phong, khởi tạo, định hướng dư luận bằng ngòi bút sắc bén. (3). Bằng trí tuệ để nhận diện sự thật, bản lĩnh trước những khó khăn, thử thách và dũng cảm bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chính nghĩa, kịp thời và kiên quyết phản bác mạnh mẽ, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị, góp phần cùng cả hệ thống chính trị bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. (4). Luôn đứng trên tâm thế, trí tuệ và niềm tự hào của nền báo chí cách mạng Việt Nam để tích cực hội nhập, tiếp thu thành tựu của thế giới để phát triển các loại hình, phương thức truyền thông tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu báo chí, thông tin ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại. Làm tốt những điều trên sẽ góp phần quan trọng bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về tự do báo chí tại Việt Nam.

Nguồn: Đại tá ĐỖ PHÚ THỌ

 Kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam

Kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là chủ trương đúng đắn, tầm nhìn chiến lược, hành động nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đó là kế sách “sâu rễ, bền gốc” để “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch đã và đang ra sức xuyên tạc, chống phá bằng nhiều chiêu trò tinh vi, xảo quyệt, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trong tiến trình hàng nghìn năm lịch sử, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành truyền thống quý báu; là quy luật trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Kế thừa kinh nghiệm quý mà tổ tiên để lại, Đảng ta luôn chủ động chăm lo củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; trong đó, kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quan điểm nhất quán, góp phần “giữ yên bờ cõi”, giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc”, thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và nghệ thuật quân sự độc đáo của tổ tiên ta; đồng thời, mang tính thời đại sâu sắc.

Là quốc gia chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của “hòa bình”, yêu chuộng hòa bình luôn là khát vọng, truyền thống của dân tộc; hòa bình được coi là một “giá trị thiêng liêng” của đất nước. Thực hiện chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Việt Nam chủ trương: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cũng như tạo nền tảng vững chắc giải quyết những thách thức an ninh chung, Việt Nam chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước; quan tâm duy trì và phát triển những mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ phù hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp hiện nay, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, chủ trương xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là nhằm nâng cao khả năng “tự vệ”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chứ không phải là chạy đua vũ trang và càng không hề có dụng ý đe dọa vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế như các thế lực thù địch từng rêu rao, xuyên tạc.

Âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; kiên quyết, kiên trì ngăn chặn, đẩy lùi và hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đưa đất nước phát triển. Đây cũng là thông điệp hòa bình mà Việt Nam nhắn gửi tới cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, với bản chất thù địch chưa bao giờ thay đổi, các thế lực chống phá Việt Nam luôn tìm mọi cách chống phá chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, tung ra luận điệu xuyên tạc, công kích chính sách đúng đắn đó của Đảng và Nhà nước ta. Chúng suy diễn, cho rằng chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, là sự “cam chịu và khuất phục” trước các nước lớn. Nham hiểm hơn, lợi dụng việc nước ta bỏ phiếu tại Liên hợp quốc về cuộc xung đột Nga - Ukraine, chúng tuyên truyền, kích động: chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính “chung chung”, rất “mơ hồ”, “không rõ ràng”, “phi thực tế”, mang nặng tư tưởng “hòa bình chủ nghĩa”. Không những thế, chúng phớt lờ, phủ nhận những đóng góp quan trọng của Việt Nam trước đây và hiện nay đối với cộng đồng quốc tế, nhất là việc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Chúng “quên” điều đó cũng là dễ hiểu, bởi nếu nhắc lại thì đối với chúng “lợi bất cập hại”, trước mắt sẽ gây bất lợi cho các hoạt động xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam. Tráo trở và thâm độc hơn, chúng tỏ vẻ “quan tâm sâu sắc” đến sự an nguy của đất nước và “quan ngại, lo lắng” trước thực tế các nước đang hợp tác đầu tư mạnh cho quốc phòng; chúng rêu rao: khả năng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quân sự của Việt Nam hiện tại “quá yếu”, việc hiện đại hóa Quân đội chủ yếu chỉ nằm trên “nghị quyết”, thực tế thì “lạc hậu” và “không đủ sức tự vệ”, không có khả năng giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Từ đó, chúng ra sức cổ súy, “vẽ đường”, “dẫn lối”, “đề xuất” Việt Nam nên “chọn phe”, “chọn bên” để không bị cô lập trong hoạt động quốc phòng, để luôn nhận được sự “giúp đỡ hiệu quả, chí nghĩa, chí tình” của các nước lớn, nhằm “mang lại một tương lai tươi sáng hơn”. Vì thế, chúng “gợi ý” Việt Nam nên xúc tiến “liên minh quân sự”, nhất là đối với các nước có tiềm lực quân sự hàng đầu thế giới là việc làm “duy nhất đúng” lúc này, góp phần “tự cứu”, “tự vệ” và như vậy mới đủ khả năng “bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ xa”.

Những luận điệu trên của các thế lực thù địch được che đậy, ngụy biện khá kín kẽ nên thoạt nghe có vẻ hợp lý, nhưng khi đã thấu suốt bản chất, dã tâm của chúng, sẽ không khó nhận thấy đó chỉ là sự xuyên tạc, cực kỳ nham hiểm, thâm độc. Một mặt chúng “phủ nhận sạch trơn” những giá trị nhân văn của chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; mặt khác, chúng trắng trợn bóp méo sự thật, cho rằng Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, tăng cường sức mạnh quốc phòng “không hẳn nhằm mục đích tự vệ”, mà là chạy đua vũ trang, điều đó rất dễ châm ngòi cho chiến tranh, xung đột quân sự trong khu vực. Đây là những luận điệu hết sức lố bịch, xuyên tạc trơ trẽn, nếu chúng ta không kịp thời nhận diện, vạch trần, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa thì sẽ dẫn đến những hệ lụy xấu, gây hoài nghi cho nhiều người, nhiều quốc gia về chính sách quốc phòng của Việt Nam, ảnh hưởng không tốt đến uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cùng các đại biểu tham quan Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 (Viet Nam Defence 2022). Nguồn: xaydungchinhsach.chinhphu.vn

Cơ sở lý luận, thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”

Hòa bình và tự vệ là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Là một đất nước đã trải qua những cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, đối với Việt Nam vấn đề này lại càng quan trọng, bởi nó luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong đó, hòa bình là tiền đề cho “tự vệ tích cực” và tự vệ là cơ sở đảm bảo cho hòa bình thực sự, bền vững. Hòa bình phải luôn gắn chặt với tự vệ, một khi tách rời nhau thì sớm muộn gì hòa bình sẽ mất, tự vệ cũng chẳng còn. Vì thế, hòa bình và tự vệ luôn gắn bó hữu cơ với nhau và là quan điểm nhất quán của dân tộc Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại.

Trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (năm 2019), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ”1. Kiên định, nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa những tư tưởng, kinh nghiệm quý của tổ tiên ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Đó là tư tưởng nhân văn cao cả “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, góp phần làm nên những chiến công vang dội, viết nên những trang sử chói lọi của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Với quan điểm “Thái bình tu trí lực/Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên gắng sức/Non nước ấy ngàn thu) - giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, nên nhà Trần hết sức chú trọng và nỗ lực giữ gìn nền hòa bình, giữ yên bờ cõi, mang lại nền “thái bình, thịnh trị” cho muôn dân.

Khi đề cập tầm quan trọng của bảo vệ - tự vệ, Đảng ta đã kế thừa, phát triển lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin, nhất là chú trọng củng cố quốc phòng, góp phần nâng cao khả năng phòng thủ, “tự vệ” chính đáng của đất nước. V.I.Lênin khẳng định: “Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”; đồng thời, chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”2, “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Có thể nói, lý luận về xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin là cơ sở quan trọng để Đảng ta xác định một trong hai chiến lược quan trọng bậc nhất của quốc gia - Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; chủ động chuẩn bị tâm thế để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Không thể “khoanh tay đứng nhìn”, “ngồi im chờ đợi” sự giúp đỡ “chí nghĩa, chí tình” từ các nước lớn “đầy thiện chí”, để giữ vững hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như “gợi ý” của các thế lực thù địch.

Đặc biệt, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” còn được Đảng ta kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3. Lời kêu gọi của Người thể hiện khát vọng mãnh liệt về một nền hòa bình bền vững, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để giành và giữ độc lập dân tộc bằng “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”4; “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”5. Như vậy, từ rất sớm chúng ta đã chủ trương xây dựng Quân đội chính quy và hiện đại để thực hiện khả năng “tự vệ chính đáng”. Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hoàn toàn không phải là một đội quân xâm lược. Như vậy, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội chính trị cho rằng Việt Nam hiện đại hóa Quân đội là “châm ngòi” cho cuộc chạy đua vũ trang mới ở khu vực thực sự rất lố bịch, trơ trẽn, thiếu khách quan, phản khoa học.

Nền tảng pháp lý vững chắc để Việt Nam nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, các hiệp định, hiệp ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và là một thành viên tích cực, tin cậy, có trách nhiệm cao. Theo đó, trong quan hệ quốc tế, Việt nam cam kết thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; đồng thời, vì sự ổn định và hòa bình của khu vực và thế giới, chúng ta nêu rõ quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp, bất đồng với các nước; đề cao chủ trương giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các tiến trình pháp lý và ngoại giao. Như vậy, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với mục đích cao cả mà Hiến chương Liên hợp quốc hướng đến, điều này cũng đập tan luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng chính sách quốc phòng của Việt Nam là “ích kỷ”, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”.

Có thể thấy, để giữ vững được hòa bình, độc lập dân tộc, không thể thiếu hoạt động bảo vệ - tự vệ; hơn thế còn cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và tổng thể các biện pháp hoạt động đủ mạnh mới đạt được mục tiêu xác định. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, gia tăng tiềm lực quốc phòng không gì ngoài mục đích tự vệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời, bằng những hoạt động tích cực, hiệu quả Việt Nam ngày càng có những đóng góp quan trọng nhằm giữ vững hòa bình, ổn định; thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, chủ động nâng cao khả năng “tự vệ” của đất nước, sẵn sàng đánh bại quân xâm lược, kiến tạo hòa bình là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của các triều đại phong kiến Việt Nam. Thực tiễn kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống cho thấy, trước thế giặc rất mạnh, nhà Lý đã tích cực chuẩn bị kháng chiến, tăng cường khả năng phòng bị, xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ, nhiều thứ quân, bố trí thế trận chống giặc “hiểm, sắc, chắc, có chiều sâu” trên những địa bàn chiến lược. Theo đó, Lý Thường Kiệt chủ động cho xây dựng phòng tuyến vững chắc trên sông Như Nguyệt, kịp thời chặn đứng cuộc tiến công của địch, lập thế, tạo thời cơ có lợi, phản công đánh bại quân xâm lược, giữ vững nền độc lập. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, với mục tiêu bất biến là “Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh”, “mở nền thái bình muôn thủa” và với tư duy nhạy bén, chiến lược, Nguyễn Trãi chỉ rõ: “Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước/Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh/Sửa hòa hiếu cho hai nước/Tắt muôn đời chiến tranh”6, chúng ta đã thể hiện rõ thiện chí và khát vọng hòa bình, chủ trương giữ hòa hiếu với các nước láng giềng, nhằm mang lại nền độc lập bền vững, “tránh họa binh đao”, có điều kiện để khắc phục hậu quả chiến tranh, dựng xây đất nước. Chính sách đó thể hiện rõ tinh thần cao thượng của tư tưởng nhân văn quân sự Việt Nam, nghệ thuật ngoại giao hết sức mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, xây dựng và kiến tạo nền hòa bình bền vững, giữ yên biên thùy.

Giương cao “ngọn đuốc hòa bình”, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, từ rất sớm Việt Nam đã chủ động xây dựng tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của 03 nước Đông Dương; giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt “chế độ diệt chủng”, góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi dân tộc. Mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia trải qua bao thăng trầm của lịch sử đã phát triển lên một tầm cao mới. Điều đó phù hợp với nguyện vọng chính đáng của chính phủ và nhân dân mỗi nước, đồng thời góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Là quốc gia có trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên, luôn chủ động, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển. Theo đó, từ tháng 6/2014, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi (MINUSCA), Phái bộ UNISFA (khu vực Abyei), trên các lĩnh vực: tham mưu, y tế, công binh, v.v. Tháng 02/2023, hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc đề nghị các nước và tổ chức quốc tế hỗ trợ ứng cứu, khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử 76 cán bộ, chiến sĩ tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả động đất, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng nhân dân nước sở tại về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đầy trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v. 

Giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam là sự kế thừa quan điểm, tư tưởng mang tính quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” và thực tiễn phong phú trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một chính sách mang đậm tính nhân văn và thể hiện sâu sắc bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam - một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn khát khao, nỗ lực đấu tranh giành và giữ vững nền hòa bình, độc lập ấy. Điều đó cũng trả lời cho câu hỏi vì sao Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn kiên định, nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; đồng thời cũng lý giải cho việc tại sao các thế lực thù địch lại ra sức xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam, nội dung quan trọng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chúng đã và đang thực hiện nhằm chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, đối với chúng ta, để đấu tranh làm thất bại những luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch cần phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá trên rất nhiều lĩnh vực khác; trong đó, tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau.

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong quá trình đấu tranh vạch trần bộ mặt thật và âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam. Công tác tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên cả trong nước và ngoài nước (thông tin đối ngoại) để nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu đúng bản chất, nội dung chính sách quốc phòng, nhất là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, vạch trần sự xuyên tạc, ngụy biện của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; chỉ rõ cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, nội dung cơ bản khẳng định chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chính nghĩa “hòa bình và tự vệ”, để mọi người chủ động, tự giác đấu tranh trực diện, hiệu quả. Cùng với công tác tuyên truyền giáo dục phải thường xuyên nắm chắc tình hình, nhất là những động thái mới, thủ đoạn mới, chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, để kịp thời có biện pháp đấu tranh thích ứng, phù hợp, đạt hiệu quả thiết thực. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, không ngừng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận thức rõ mục tiêu, tính chất ngụy biện của chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung, luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam nói riêng của các thế lực thù địch đang tiến hành, cũng như tầm quan trọng cuộc đấu tranh của chúng ta với “cuộc chiến không tiếng súng” này.

Trước sự biến động nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cả nội dung, hình thức, phương pháp theo hướng kết hợp giáo dục theo chương trình cơ bản với tổ chức tọa đàm, hội thảo, diễn đàn thanh niên, giáo dục chuyên đề, v.v. Thông qua đó, tiếp tục củng cố vững chắc lòng tin của các quốc gia về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình; tích cực, chủ động cung cấp thông tin chính thống, định hướng dư luận, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, tạo sức đề kháng “tự miễn dịch” trước những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch.

Hai làtăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, nâng cao năng lực “tự bảo vệ”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Để có được nền hòa bình, độc lập, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như hiện nay, nhân dân ta đã phải trả một cái giá không hề rẻ bằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam. Đó là tài sản quý nhất, lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, mà chúng ta phải gìn giữ bằng mọi giá, mọi cách trong khả năng của mình. Chúng ta không “ảo tưởng về hòa bình”, càng không thể trông chờ vào “một nền hòa bình viển vông” do một ai đó “vẽ ra” hoặc “ban phát”; hòa bình chỉ có thể được đảm bảo bền vững khi có nền quốc phòng đủ mạnh, đủ sức răn đe những cái “đầu nóng” luôn toan tính “nhòm ngó” thôn tính chúng ta. Thực tế hiện nay cho thấy, không trân trọng “hòa bình”, không nâng cao khả năng “tự vệ”, cả tin theo những “bánh vẽ” mà người khác “ban tặng”, thì hậu quả là đất nước rối loạn, nhân dân ly tán và hậu quả là nhãn tiền. Cho nên, tăng cường sức mạnh quốc phòng là kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Đảng, Nhà nước ta.

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam cho thấy, trong bất kỳ giai đoạn cam go nào, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng là công việc trọng yếu của quốc gia - dân tộc ngay cả trong thời bình, nhất là trong những thời điểm nền độc lập dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng, đất nước lâm nguy. Thấu triệt điều đó, Đảng, Nhà nước tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng tiềm lực vững mạnh, lực lượng rộng khắp, thế trận quốc phòng vững chắc, từ đó nâng cao khả năng huy động quốc phòng, nhằm ứng phó hiệu quả với mọi tình huống, luôn giữ vững sự chủ động, không để bất ngờ về chiến lược. Chú trọng xây dựng khu vực phòng thủ các cấp vững chắc, nhất là các địa bàn chiến lược, trọng yếu và trên cả nước, tạo thế trận “liên hoàn, hiểm hóc, vững chắc, có chiều sâu”. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nghiên cứu, nâng cao năng lực tác chiến trên không gian mạng, chiến tranh thông tin và các hình thái chiến tranh mới, nhằm đảm bảo sự chủ động và giành thắng lợi khi đất nước xảy ra chiến tranh xâm lược. Đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và ngày càng hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Ba làphát huy sức mạnh tổng hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng.

Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch không từ âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào để chống phá ta trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng và chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”. Thậm chí chúng còn liên tục thay đổi cách thức, biện pháp chống phá, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng và sâu rộng cả về nội dung và hình thức. Vì thế, chúng ta cần phải bám sát thực tiễn, nhận diện đúng đối tượng, nội dung xuyên tạc, thời điểm tập trung chống phá của chúng để trên cơ sở đó sử dụng tổng thể các biện pháp, phương thức, lực lượng phòng, chống đạt hiệu quả thiết thực.

Về lực lượng đấu tranh, cần phát huy cả lực lượng trong và ngoài nước, lực lượng chuyên trách và lực lượng rộng rãi, trong đó vai trò của cơ quan Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47, đội ngũ chuyên gia các cấp, các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản,… là rất quan trọng. Về phương thức đấu tranh, cần phải linh hoạt, sáng tạo kết hợp chặt chẽ cả hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trong các sự kiện chính trị - xã hội, lễ hội truyền thống, tuyên truyền thông tin đối ngoại, tuyên truyền trên các trang mạng xã hội, trên internet, v.v. Cần phải chủ động đấu tranh, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, chiếm lĩnh trận địa thông tin và tích cực đổi mới sao cho linh hoạt, sáng tạo, với phương thức đa dạng, hiệu quả; đồng thời, chuẩn bị tốt cả về lực lượng, phương tiện và cách thức tiến hành, chú trọng đấu tranh trên môi trường không gian mạng. Cùng với đó, phải coi trọng phân tích, đánh giá, phản biện, chỉ ra những mặt hạn chế, tồn tại, kịp thời đúc rút những bài học hay, kinh nghiệm quý để nhân rộng trong toàn xã hội, v.v.

Bốn làđẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhằm kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại và đối ngoại quốc phòng, coi đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ nước “từ khi nước chưa nguy” bằng biện pháp hòa bình, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin đối ngoại, giúp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Đảng và Nhà nước ta. Trong quan hệ quốc tế, cần kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc gắn với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là bất biến, nhưng phải căn cứ vào tình hình cụ thể, xử lí khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, xác định rõ đối tác, đối tượng để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc ở vào thế buộc phải “chọn bên”, “chọn phe”; không để nước ta trở thành chiến trường, địa bàn xung đột lợi ích chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Tăng cường và ngày càng thắt chặt quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, xây dựng “biên cương xanh”, nâng cao chất lượng hiệu quả, đi vào chiều sâu, thực chất hoạt động giao lưu hữu nghị quốc phòng với các nước láng giềng. Tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đa dạng hóa đối tác hợp tác quân sự quốc phòng; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng bằng nhiều hình thức: tham gia các diễn đàn của khu vực và quốc tế, trao đổi đoàn, hợp tác huấn luyện, đào tạo, tuần tra chung, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, v.v. Tăng cường hợp tác trong ứng phó và giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống; tham gia tích cực, hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh,... góp phần không ngừng tăng cường uy tín, tiềm lực, sức mạnh quốc gia trên trường quốc tế, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn: PHÙNG CHẤT - CAO VƯƠNG

 Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng vấn đề chính trị hiện nay, phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ


Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai trao Huân chương Lao động hạng Ba tặng Cục Bảo vệ Chính trị nội bộ. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai trao Huân chương Lao động hạng Ba tặng Cục Bảo vệ Chính trị nội bộ. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN).

1. Yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn

Hợp tác và hội nhập quốc tế vẫn luôn là xu thế lâu dài của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp và đa chiều. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn là mục tiêu quan trọng mà chúng nhằm vào với mức độ ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Mặt khác, tình hình chính trị nội bộ Đảng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cơ bản còn tồn tại những vấn đề trực tiếp hoặc gián tiếp có nguy cơ suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Thực tiễn hiện nay đang đặt ra những yêu cầu đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ như sau:

Một là, công tác bảo vệ chính trị nội bộ phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, bám sát nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, trong đó gắn nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ với tổ chức thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của BCH Trung ương (khóa XIII); trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo đảm uy tín, vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Hai là, công tác phòng ngừa các vấn đề chính trị nội bộ, nhất là chính trị hiện nay phải được chú trọng, thực hiện thường xuyên, liên tục, đặt trong tổng thể các mặt của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, lấy phòng ngừa, ngăn chặn, triệt tiêu các nguy cơ từ gốc là nhiệm vụ cơ bản.

Ba là, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động nhận diện, phân loại đối tượng, hóa giải từ sớm, từ xa, xác định chiến lược, sách lược, nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh phù hợp với yêu cầu chính trị và tình hình thực tế.

Bốn là, thực hiện tốt công tác rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên với phương châm “không được để lọt vào cấp ủy, lãnh đạo, quản lý những người không đủ tiêu chuẩn chính trị; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, vi phạm những điều đảng viên không được làm”.

Năm là, tăng cường quản lý hoạt động báo chí, truyền thông, mạng xã hội, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đẩy mạnh sử dụng các phương thức tuyên truyền, đối thoại, cảm hóa, thuyết phục, làm tốt công tác định hướng dư luận, có trọng tâm, trọng điểm.

2. Một số kết quả

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được một số kết quả quan trọng, từng bước đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu. Góp phần kiềm chế, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Hệ thống các văn bản quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ được bổ sung, sửa đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng bộ với các văn bản về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiểm tra, giám sát nói riêng(1), công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung. Ngày 8-2-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 58-QĐ/TW “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”, trên cơ sở đó Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 01-HD/BTCTW ngày 5-8-2022. Đây là cơ sở quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, tự soi, thúc đẩy việc tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức cách mạng, giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương nâng cao trách nhiệm, ý thức cảnh giác, khả năng nhận diện những vấn đề chính trị hiện nay, góp phần hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên. Đồng thời, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để kịp thời nâng cao nhận thức, cập nhật các nội dung chỉ đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, Ban Tổ chức Trung ương thường xuyên phân công cán bộ lãnh đạo báo cáo các chuyên đề, trao đổi, tập huấn về công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho các địa phương, cơ quan, đơn vị và đăng tải nhiều bài viết, tham luận chuyên sâu trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tọa đàm khoa học, làm sâu sắc hơn nữa lý luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Công tác bảo vệ

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ luôn được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt nghiêm túc, triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp nhằm cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm thực hiện chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên gắn với việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tự phê bình và phê bình, “tự soi”, “tự sửa” nhằm kiểm điểm, nhận diện rõ hơn và đề ra các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên được cấp ủy các cấp thực hiện nghiêm túc, thận trọng, kỹ lưỡng, đúng quy định để phục vụ công tác cán bộ. Năm 2022, Ban Tổ chức Trung ương đã thẩm định 1.036 trường hợp thuộc diện Trung ương quản lý, đề nghị cơ quan liên quan bổ sung hồ sơ, giải trình một số nội dung đối với 14 trường hợp. Qua thẩm định, nhiều trường hợp không được phê duyệt quy hoạch, nhiều nhân sự có vấn đề về tiêu chuẩn chính trị cần được xem xét kỹ, cân nhắc khi bố trí, sử dụng.

Ban Chỉ đạo 35 các cấp đã đấu tranh, ngăn chặn hàng trăm đối tượng có hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, hàng nghìn trang mạng có nội dung xấu độc; vô hiệu hóa, gỡ bỏ hàng trăm video, tin bài có nội dung xấu, độc; xử lý vi phạm đối với nhiều trang mạng xã hội, xây dựng môi trường thông tin lành mạnh, chính thống; bồi dưỡng, nâng cao nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị cũng như góp phần ngăn chặn hiệu quả những biểu hiện, tư tưởng lệch lạc, thoái hóa, biến chất tiềm tàng, manh nha trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt nhiều kết quả quan trọng, kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm của cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng, Nhà nước, khẳng định quyết tâm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, là điều kiện, tiền đề quan trọng để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Công tác kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở được chú trọng, tăng cường, nhất là nơi có mâu thuẫn, mất đoàn kết kéo dài; những nơi còn tồn tại tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, tiềm ẩn phát sinh “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp trong nội bộ, đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, đình công, lãn công. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn những hạn chế, bất cập. Nhận thức, ý thức và trách nhiệm về yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới của một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Một số quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa cụ thể, chưa bao quát hết những vấn đề thực tiễn nảy sinh. Công tác nắm tình hình, cập nhật thông tin về chính trị nội bộ, nhất là vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên ở một số cấp ủy cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao; công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ giữa các cơ quan chức năng còn chưa thường xuyên. Công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị có nơi, có lúc còn thiếu chặt chẽ, phân cấp chưa rõ ràng. Công tác tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, kịp thời, còn sơ hở, mất cảnh giác.

3. Một số giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm

1. Tiếp tục quán triệt và nâng cao trách nhiệm, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Cần nhận thức rõ: Bảo vệ chính trị nội bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó quan trọng và thường xuyên nhất là các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể.

2. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bồi dưỡng, nâng cao tinh thần, đạo đức cách mạng, đề cao cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Phát hiện, đấu tranh với các hoạt động phá hoại tư tưởng chính trị, các hành vi vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, các dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái, “cánh hẩu”, “lợi ích nhóm”, cá nhân chủ nghĩa, tư bản thân hữu. Tôn trọng, nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng Đảng thật sự trọng sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Giữ gìn đạo đức, lối sống, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên là những yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, Tổ quốc.

3. Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch đến chính trị nội bộ. Duy trì thường xuyên các hoạt động đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ tư tưởng chính trị của Đảng. Ngăn chặn, bóc gỡ, áp đảo các thông tin không chính thống, tin xấu độc gây ảnh hưởng xấu tới tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, dư luận xã hội.

4. Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh và kết luận tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với nhân sự tham gia cấp ủy, ứng cử, giới thiệu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, làm việc ở các cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu, cơ mật. Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, không xứng đáng nhưng không bỏ sót những cán bộ thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và Nhân dân. Bổ sung, hoàn thiện quy định, cơ chế quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ra nước ngoài và có yếu tố nước ngoài. Thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn và cung cấp trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Kịp thời ngăn chặn các hoạt động móc nối, cài cắm của các thế lực thù địch vào nội bộ ta và các hành vi lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước.

5. Chú trọng công tác nắm tình hình tại cơ sở, kết hợp xây dựng cơ chế phối hợp công tác giữa các cơ quan chức năng, nghiệp vụ về bảo vệ chính trị nội bộ, trong đó phối hợp hiệu quả trong quản lý báo chí, truyền thông, an ninh mạng và cán bộ, đảng viên ra nước ngoài. Ngoài chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng, chính quyền còn có cơ chế, quy định về vai trò, trách nhiệm của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp, vận động nhân dân, các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước. Cảnh giác, phát hiện và phối hợp với các cơ quan chức năng đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, kịp thời phát hiện, xử lý các vấn đề chính trị nội bộ, các cán bộ, đảng viên không bảo đảm đủ tiêu chuẩn chính trị.

6. Tổng kết việc triển khai các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương, từ đó bổ sung, hoàn thiện lý luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nội dung nghiên cứu tập trung vào 4 lĩnh vực trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Bảo vệ tư tưởng chính trị; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên và bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước.

7. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các địa phương, cơ quan, đơn vị trực thuộc. Thường xuyên rà soát, kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước. Kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia.

8. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chuyên viên chuyên trách các cấp, trong đó, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác đảng và bảo vệ chính trị nội bộ. Đồng thời, thường xuyên quán triệt các văn bản của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, như Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 72-KL/TW… Thực hiện nghiêm các quy định về công tác cán bộ, nhất là công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Có cơ chế khuyến khích, động viên cán bộ để họ có năng lực, trình độ nghiệp vụ cao hơn, tiếp tục phấn đấu, cống hiến; phát hiện, mở rộng các phương pháp, mô hình làm việc khoa học, hiệu quả.

Bước sang năm mới với nhiều mục tiêu, kế hoạch, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục chú trọng, quan tâm, triển khai đồng bộ nhiều kế hoạch, biện pháp trên cơ sở bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII của Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, góp phần vào sứ mệnh vẻ vang bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ trong giai đoạn mới.

-----

(1) Như là Quy định số 85-QĐ/TW ngày 23-5-2017 của Bộ Chính trị về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 86-QĐ/TW ngày 1-6-2017 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng...

Nguồn: TS. PHAN THĂNG AN

Ủy viên Thường trực Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương