Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

 

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

 

Vạch trần, đấu tranh với biểu hiện “giả nhân giả nghĩa” của kẻ “hai mặt”

Cơ hội chính trị và bất mãn chính trị là hai khái niệm cùng loại, cùng bậc, xếp vào một hàng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đều biểu hiện thái độ và tư tưởng chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta, đều nguy hại đối với việc xây dựng đoàn kết, thống nhất và củng cố chính trị nội bộ.

Vạch trần bản chất của những kẻ lươn lẹo “hai mặt”

Cơ hội chính trị tinh vi ứng biến với thời cuộc, diễn biến tình hình để lợi dụng “mặt tích cực” và né tránh “bất lợi” đối với bản thân; luôn mang trong mình mưu mô, toan tính và yếu tố bất mãn chính trị; ngược lại, bất mãn chính trị theo đuôi, đồng lõa với cơ hội chính trị và có thể chuyển hóa thành cơ hội chính trị. Xu hướng chung của các phần tử này là câu kết với nhau, dựa vào nhau và gắn bó chặt chẽ với các thế lực thù địch, hoặc bị các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, mua chuộc, hà hơi, tiếp sức nhằm chống đối, cản trở cái tiến bộ, tích cực; thậm chí biến thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn về phía đối lập, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Từ sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng đến nay, ở nước ta, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được tăng cường, bước đầu đạt những kết quả quan trọng, nhiều vụ án đã được đưa ra ánh sáng, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng một số thiếu sót, khuyết điểm của cuộc đấu tranh này hoặc xuyên tạc, dựng chuyện để kích động, lôi kéo những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước ta. Các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đã và đang nhận được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực phản động để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phao tin đồn nhảm, tung tin xấu độc trên internet, mạng xã hội nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 

Vạch trần, đấu tranh với biểu hiện “giả nhân giả nghĩa” của kẻ “hai mặt”
Ảnh minh họa internet 

Dưới đây là một số biểu hiện của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở nước ta hiện nay.

Có quan điểm, tư tưởng, lập trường chính trị không vững vàng, luôn ba hoa, ba phải, lươn lẹo, dễ dao động, thiếu niềm tin, hoài nghi, bi quan, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, không tin vào tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chửi thề, phản ứng, chống phá Đảng, Nhà nước và chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nhưng khi nhận thấy tình thế đã đổi khác, thì theo đuôi, a dua "nói leo, ăn theo", ra sức tung hô, ủng hộ cách mạng, nói, viết như “đúng rồi” để che đậy dã tâm xấu xa của mình.

Biết chọn thời điểm, thời cơ viết bài, tung tin, phát ngôn và lợi dụng triệt để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng, chủ tâm thu vén, vơ vét cho bản thân và gia đình. Họ thường che giấu bộ mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị lờ mờ, trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, dĩ hòa vi quý, chỉ làm việc gì thấy có lợi cho bản thân; lợi dụng hạn chế, khuyết điểm của đồng đội để đồn thổi, “bé xé ra to”, biến “con muỗi thành con voi”; từ đó lồng ý kiến cá nhân vào phê bình, tự phê bình để nịnh bợ, lấy lòng cấp trên, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng, thậm chí sử dụng biện pháp triệt hạ đối phương.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc bị kỷ luật, không còn giữ chức vụ, không có điều kiện để phô trương thanh thế, cho nên nảy sinh nhiều tâm tư, bất mãn, chán chường, bị thế lực cơ hội, bất mãn tác động, lôi kéo, mua chuộc, họ đã theo đuôi kẻ xấu. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì sinh ra bất mãn, thoái chí, phát ngôn thiếu trách nhiệm, không còn ý thức xây dựng cơ quan, đơn vị, chống đối những người đã ngồi vào ghế của mình. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, internet, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, các phần tử bất mãn để thực hiện mưu đồ xấu xa, chống lại sự lãnh đạo của Đảng, cản trở sự tiến bộ xã hội.

Hám lợi, hám danh, thực dụng về kinh tế, đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể, thích nổi danh trên mạng xã hội và trước đám đông; không thừa nhận ai, nhất là cán bộ trẻ. Họ cố tình móc nối, liên kết với một số cán bộ, nhân viên “có ơn huệ với mình” để moi tin, truyền tin, xuyên tạc bản chất sự việc; sẵn sàng rẽ theo con đường khác, kể cả sai trái, miễn là có lợi ích kinh tế, thỏa mãn ý chí cá nhân. Họ thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, luôn tự cho mình có công trạng, có đóng góp cho cách mạng, cho cơ quan, đơn vị nhưng bị bạc đãi, thiếu sự tôn trọng. Vì vậy, họ muốn “nổi sóng”, đưa ra “phát kiến” mới rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế, cốt để “đánh bóng tên tuổi” mình, gây khó dễ nhằm triệt hạ đối phương và những người mình không ưa thích. Khi mục đích không đạt được, vì nhiều nguyên nhân khác nhau khiến họ bức xúc, không thể kìm nén, đã phát ngôn thiếu trách nhiệm, xuyên tạc sự thật. Khi ý kiến, góp ý, kiến nghị của họ không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối, tìm mọi cách hạ thấp uy tín, danh dự của các cán bộ lãnh đạo cấp trên.

Đây chỉ là phác thảo ban đầu nhưng chỉ chừng ấy biểu hiện xấu đã khiến chúng ta phải đề cao cảnh giác, hết sức đề phòng sự phản trắc của những phần tử “hai mặt”, cơ hội chính trị này.

Kiên quyết đấu tranh đối với những kẻ “hai mặt”, cơ hội chính trị

Để đấu tranh, chặt đứt “cái vòi”, “chân tay”, “râu ria” của những kẻ cơ hội và bất mãn chính trị một cách hiệu quả, cần có các giải pháp toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao. Muốn vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Cần chú trọng thực hiện một số biện pháp sau.

Một là, thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm quy định về những điều đảng viên không được làm; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; không bị mắc mưu vào các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Đây là biện pháp cơ bản, toàn diện và bao trùm trong đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta hiện nay. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, bí thư cấp ủy phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng; đồng thời, nêu cao tinh thần trách nhiệm nêu gương của cán bộ chủ chốt các cấp. Cần phải nêu gương thật sự trong lời nói, hành động, công việc, cuộc sống và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy.

Hai là, chăm lo xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trung thành, cần, kiệm, liêm, chính, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội, bất mãn chính trị. Đặc biệt là cần chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Ba là, chủ động, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện của tư tưởng cơ hội và bất mãn chính trị trong cơ quan, đơn vị và các quan điểm sai trái, thù địch. Đề cao cảnh giác với các phần tử cơ hội chính trị muốn luồn sâu, leo cao vào bộ máy công quyền các cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chức năng nhằm phân loại và phát hiện kịp thời, đấu tranh hiệu quả với hoạt động phá hoại của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

Bốn là, trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần bám sát vào quan điểm, chủ trương, đường lối, kết luận, chỉ thị và hướng dẫn của Đảng và các cơ quan chức năng Trung ương. Dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao, nhất là đấu tranh bảo vệ chính trị nội bộ, không để lộ, lọt thông tin, bí mật Nhà nước, tình hình nội bộ của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong bối cảnh hiện nay, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần nhận diện đầy đủ, sâu sắc bản chất âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đặc biệt là những biểu hiện chống phá tinh vi, lươn lẹo của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị. Trên cơ sở đó có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả, không để chúng “tác oai tác quái”, cản trở chúng ta thực hiện sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

HÀNH TRANG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ SỰ KHIÊM TỐN VÀ GIẢN DỊ

 HÀNH TRANG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ SỰ KHIÊM TỐN VÀ GIẢN DỊ 


Khiêm tốn chính là biết đánh giá đúng về bản thân, không kiêu ngạo, coi bản thân bình đẳng với mọi người. Còn giản dị là sống đơn giản, không cầu kì, phù hợp hoàn cảnh xung quanh. Sự khiêm tốn, giản dị được thể hiện cụ thể ở phong cách ăn mặc nền nã, hành vi ứng xử lịch sự, lời nói chân thành, hành động tự nhiên,… Câu nói của Ăng – ghen đã cho thấy giá trị của hai đức tính quý báu này.


Khiêm tốn và giản dị là hai phạm trù gắn bó mật thiết, cùng đem lại cho cuộc sống con nguời nhiều ý nghĩa thiết thực. Biết mình – biết người, ta sẽ sống một cách thoải mái, tự nhiên. Lối sống này giúp ta làm chủ chính mình. Tâm hồn ta được thư thái, bỏ qua những ganh đua tầm thường ngoài xã hội. Nhờ sống dung dị mà mối quan hệ giữa người với người thêm gắn kết, ta hòa đồng và yêu thương mọi người xung quanh hơn. Không chỉ vậy, ta còn biết trân trọng từng phút giây của cuộc đời. Hơn hết, sự khiêm tốn còn trở thành động lực thúc đẩy ta phấn đấu không ngừng để trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày.


Không phải ngẫu nhiên mà cách sống tối giản của người Nhật Bản lại được ưa chuộng và trở nên thịnh hành ở nhiều nơi khác trên thế giới. Có lẽ, giữa sự phát triển quá nhanh của công nghệ khiến xã hội trở nên xô bồ thì việc thanh lọc tâm hồn, sắp xếp đồ đạc một cách ngăn nắp, dành nhiều thời gian bên cạnh thiên thiên, chi tiêu tiết kiệm,…lại đem đến sự cân bằng cho chúng ta. Việc chạy theo sự xa hoa, lãng phí, giả tạo chỉ thỏa mãn con người trong phút chốc và để lại nhiều hậu quả xấu.


Như vậy, khiêm tốn và giản dị quả thực là đức tính quý báu nhất của con người. Hãy trau dồi hai phẩm chất này ngay trong sinh hoạt hằng ngày, sống thật với mình và người, yêu thương bản thân và nâng niu thời gian hiện tại.

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 “Cán bộ, chiến sỹ luôn gắn bó m.áu th.ịt với nhân dân; tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giúp dân xoá đói, giảm nghèo; phối hợp xử lý có hiệu quả các tình huống phức tạp, nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh.


Đồng thời, Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; qua đó, ngày càng làm sâu sắc hơn, toả sáng hơn phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" trong tình hình mới; khẳng định vai trò của "Đội quân chiến đấu - Đội quân công tác - Đội quân lao động sản xuất."


Đặc biệt, trong những nỗ lực phòng, chống đại dịch COVID-19 thời gian qua cũng như hiện nay, cán bộ, chiến sỹ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là Quân đội của nhân dân, Quân đội trong lòng dân.”



THÁNG BẢY VỀ LẠI NHỚ CÁC ANH !

 THÁNG BẢY VỀ LẠI NHỚ CÁC ANH !


Tháng 7 về bất chợt mưa ngâu

Như nỗi nhớ ở hai đầu gặp lại

Tiếng vọng xưa đồng đội ơi gọi mãi

Giữa đại đạn- ở Trường Sơn


Tháng 7 về xin thắp nén hương thơm

Phút tưởng niệm những anh hùng L.iệt s.ĩ

Đã một thời lên đường đi đánh Mỹ

Hiến tuổi xuân cho đất nước thanh bình.


Tháng 7 về vang khúc hát Thương binh

Đời để lại"dấu chân tròn trên cát'

Dáng liêu xiêu nghiêng khoảng trời nắng nhạt

Lối đi về khập khiễng bước đường quê.


Tháng 7 về còn nhớ kỷ niệm xưa

Dòng Thạch Hãn nước hòa trong máu đỏ

Bao đồng đội nằm lại nơi Thành Cổ

Cầu Hiền Lương chia nỗi nhớ hai đầu.


Tháng 7 về bạn đang ở nơi đâu?

Tây Nguyên xanh hay Trường Sơn hùng vĩ

Tôi đứng lặng trước tượng đài Liệt sĩ

Nghe nhạc chiêu hồn lệ thấm ướt bờ mi.


Tháng 7 về ai có nhớ Người đi

Khi đất nước chao nghiêng miền Đông hải

Nửa vầng trăng một khoảng trời còn mãi

Sài gòn ơi?chung nhịp bước quân hành.


Tháng 7 về biết không có bóng anh

Trong đội ngũ điệp trùng hoa chiến thắng

Ngôi sao sáng giữa bầu trời tỏa nắng

Lời tri ân xin thắp nén hương lòng.


Tháng 7 về triệu triệu ngọn nến hồng

Thắp sáng nghĩa trang trải dài theo đất nước

Viếng các Anh linh thiêng hồn Tổ Quốc

Đất Tiên rồng vững bước mãi ngàn năm.

KHẮC GHI LỜI BÁC DẠY, NGÀY 02/7/1958.

 KHẮC GHI LỜI BÁC DẠY, NGÀY 02/7/1958.

“Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”. 

Đây là lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài:“Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân dân, số 1572, ngày 02/7/1958. Năm 1958 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo Bác, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng, mà nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong đời sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Người cho rằng, ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột. Nó gây ra nhiều tật bệnh, làm cho nhân dân ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của một người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân./.

Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong

 "DỄ TRĂM LẦN KHÔNG DÂN CŨNG CHỊU, KHÓ VẠN LẦN DÂN LIỆU CŨNG XONG" 


Trong tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh có thể nói chữ “dân” có giá trị thiêng liêng và bền vững. Đời Bác chỉ xoay quanh chữ “dân” và chữ “nước”. Ta bắt đầu từ tên của Bác, Bác sống 79 mùa Xuân mà Bác dùng 175 tên, Bác lấy tên Nguyễn Ái Quốc từ thời ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua 30 năm tìm đường cứu nước, đi vòng quanh thế giới gần 40 nước khác nhau để rồi trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác lấy tên Nguyễn Ái Dân. Ái Quốc nghĩa là yêu nước, Ái Dân là yêu dân, “yêu nước là phải yêu dân”, đấy chính là triết lý sâu xa mà Bác đã truyền lại cho chúng ta ngày nay như một lẽ sống.


Trong hàng trăm luận điểm về “dân chủ” của Bác thì chữ “dân” là điểm xuất phát; trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh mẽ bằng lực lượng đoàn kết của dân. Nói về dân, ông cha ta đã tổng kết “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, có dân thì có tất cả, mà mất dân là mất hết”. Hồ Chí Minh là người thực hành xuất sắc chân lý cao cả đó.  Theo Bác, cái gì tốt và có lợi cho dân cái đó là chân lý, phục vụ nhân dân là phục tùng 1 chân lý cao nhất, là đầy tớ, công bộc cho dân là lựa chọn 1 lẽ sống cao thượng nhất.  Đời Bác có thể nói là 1 minh chứng hoàn hảo cho những giá trị tinh thần thiêng liêng đó.

Đến những giây phút cuối cùng của đời Bác, Bác còn hỏi về dân, về đời sống của dân. Một chi tiết cảm động khi Bác nằm trên gường bệnh, trời Hà Nội oi nồng trong cơn giông bão, trong khi chiến tranh ác liệt, ta thương Bác nên mang cho Bác chiếc quạt, Bác bảo: Bác ở đây là đủ mát rồi, trong vườn Bác có đủ cây cối, đồng bào ta suốt ngày trên đồng ruộng, nắng nôi như thế lấy đâu ra quạt. Hãy mang chiếc quạt này cho các chú thương binh ở trại điều dưỡng... Bác thương dân đến như thế đấy. Hay Bác tiêu dùng hàng ngày như 1 người dân đạm bạc sống khắc khổ, tiết kiệm đến khắc khổ. Bác dạy chúng ta “mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng đang tiêu dùng đều từ mồ hôi của dân mà ra, thương dân thì phải tiết kiệm. Lãng phí, coi thường dân và tham ô tham nhũng, là có tội với dân”. Đặc biệt, tư tưởng của Bác gắn liền với đạo đức, phương pháp và phong cách. Và đời bác là con người thực hành, trong đó thực hành dân chủ, thực hành dân vận, thực hành đại đoàn kết dân tộc đều xuất phát từ chữ “dân”. Bác khẳng định vai trò, sứ mệnh của dân trong sự nghiệp phát triển của mình. Bác nhắc lại câu ca dao mà đồng bào ta thường nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Có dân giúp sức, ủng hộ và tin tưởng là bí quyết trường tồn của chúng ta.

Từ ngày đầu dựng nước đến 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Đến tận giây phút cuối cùng, Bác từ chối nhận Huân chương và Bác khiêm nhường nói rằng: Vì Bác chưa hoàn thành nhiệm vụ, Bác chưa xứng đáng. Bác đợi miền Nam giải phóng xong, đồng bào miền Nam gắn Huân chương cho Bác cũng chưa muộn. Thế nên  chúng ta hiểu tại sao khi Bác mất nhân nhân trong Nam, ngoài Bắc, cả đồng bào nước ngoài thương tiếc vô cùng vì Bác sống mãi trong lòng dân. Chính vì đề cao chữ “dân” như thế, nên Bác luôn căn dặn cán bộ: Không làm điều gì trái ý dân; lo việc hàng ngày cho dân...

Hiện nay, còn nhiều nguyên nhân mà chúng ta chưa làm cho dân hài lòng, nhất là vấn đề lợi ích, chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của nhân nhân và đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa khó khăn như ở Hà Giang. Theo GS, TS Hoàng Chí Bảo, để làm theo được tư tưởng vì dân của Bác, trước hết chúng ta phải chăm lo đời sống, công ăn việc làm cho dân. Làm cho dân đủ ăn, đủ mặc, rồi mới tiến tới phát triển khá giả hơn. Cùng với đó, phải chăm lo, bồi dưỡng học vấn, văn hóa cho nhân dân, nhất là những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để họ tiến kịp với vùng xuôi, tiến kịp với mặt bằng xã hội và thế giới. Đặc biệt, phải xây dựng đội ngũ cán bộ vì dân, có trình độ, phẩm chất, đạo đức tốt, bởi cán bộ mà chưa thực sự xứng đáng với dân, thậm chí còn hư hỏng, suy thoái thì chỉ làm mất lòng tin ở dân. Cho nên có thể nói sức mạnh tiềm lực của quốc gia còn phản ánh vai trò “dân chủ, đoàn kết và đồng thuận” trong nhân dân. Hiện nay, Đảng ta đang ra sức thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra, đó là phát triển kinh tế, phát triển văn hóa kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi được quan liêu, tham nhũng, phòng ngừa được sự suy thoái đạo đức thì dân sẽ một lòng đi theo Đảng. Ngay cả khi Đảng gặp khó khăn nhân dân vẫn một lòng đi theo Đảng, niềm tin đó vẫn không giảm sút. Mấu chốt của vấn đề là xây dựng đội ngũ cán bộ toàn tâm, toàn ý vì dân, vì nước. Đấy chính là những gì tốt nhất để chúng ta thực sự học tập và làm theo tư tưởng của Bác.



Chi bộ đặc biệt như thế

 CHI BỘ ĐẶC BIỆT Ở CÔN ĐẢO


Chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo ra đời gắn liền với hoạt động của đồng chí Nguyễn Hới (nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, Ban Chấp hành TW lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định). Ngay khi mới ra đảo bị giam ở Banh II (trại tù), Nguyễn Hới đã bàn bạc với một số đồng chí gần gũi rằng cần thiết phải thành lập ngay một tổ chức hạt nhân cộng sản để lãnh đạo trong tù. Cuối năm 1931, khi bọn chúa ngục chuyển những người tù chính trị mang án khổ sai và án tù về Banh I thì nhóm hạt nhân được hình thành do Nguyễn Hới đứng đầu.


 Chi bộ Đảng ở Côn Đảo ra đời vào khoảng đầu năm 1932 tại khám Chỉ Tồn, Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên, đồng chí Nguyễn Hới làm bí thư, chi ủy có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiểu, Tạ Uyên, Tống Văn Trân… Đồng chí Phan Đình Khải (tức Lê Đức Thọ) khi bị đày sang Banh I cũng được bổ sung vào chi ủy. Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là:

 - Lãnh đạo đấu tranh trong tù.

 - Giáo dục, bồi dưỡng lý luận cho nhau.

 - Tuyên truyền, giác ngộ binh lính, giám thị.

 - Liên hệ với Đảng ở đất liền và tổ chức trốn.


 Hoạt động trong tù, chi bộ đặt lên hàng đầu lòng trung thành vô hạn với Đảng, xem như tiêu chuẩn quan trọng nhất của đảng viên. Bất cứ ai giữ cương vị nào trong Đảng khi bị bắt phải giữ vững khí tiết, vào tù không giao động cầu an, không ngán ngại đấu tranh mới được tổ chức vào chi bộ.


Năm 1933, Chi ủy được bổ sung nhiều cán bộ có năng lực như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Diễu, Trần Quang Tặng… Năm 1935, đồng chí Nguyễn Duy Trinh làm bí thư chi bộ thay đồng chí Ngô Gia Tự đã vượt ngục và không trở về (1934). Các đồng chí Tạ Uyên và Tống Văn Trân vượt ngục thành công về tham gia chỉ đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940). Chi bộ tổ chức học tập văn hóa, chính trị và lý luận Mác – Lênin một cách bài bản cho anh em tù chính trị. Nhận được tin tức và tài liệu Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta (1935) tại Ma Cao (Trung Quốc), trong đó có bổ sung vào Điều lệ Đảng thêm một loại hình tổ chức đảng là “chi bộ đặc biệt” (có thể tổ chức trong những điều kiện đặc biệt), chi bộ Đảng trong nhà tù Côn Đảo đổi tên thành chi bộ đặc biệt Côn Đảo.


Cuối năm 1941, đồng chí Phạm Hùng làm bí thư, thay đồng chí Nguyễn Duy Trinh vừa mãn án. Một số đồng chí có năng lực được bổ sung vào cấp ủy như Trần Ngọc Danh, Võ Sỹ, Văn Viên. Chi bộ tập trung mọi nỗ lực vào hoạt động cứu tế tù nhân. Bác Tôn, đồng chí Lê Văn Lương vẫn ở trong chi ủy. Toàn bộ công tác trung tâm của chi bộ đặc biệt trong thời kỳ này là đấu tranh chống khủng bố và cứu tế tù nhân.


 Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Chi ủy đã tích cực chỉ đạo đấu tranh chống bọn thân Nhật, chống bọn Tơrốtkít và lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền tại Côn Đảo, đưa hơn 2000 tù chính trị trở về tham gia kháng chiến.



Đâu tranh phản bác quan điểm sai trái tác động tiêu cực đến xây dựng ý thức xã hội

 ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI


Ý thức xã hội là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai trái về công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó chúng tấn công trực diện vào hạt nhân tư tưởng cốt lõi của ý thức xã hội mới. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của xây dựng ý thức xã hội mới, vạch trần một số luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, đồng thời đề xuất các giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái tác động tiêu cực đến xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta.


1. XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM 


Đời sống vật chất và tinh thần là hai mặt không thể thiếu và cùng tồn tại song hành trong đời sống xã hội. Giữa chúng có sự gắn bó, tác động, tương hỗ, làm phong phú cho nhau song cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển xã hội. Ý thức xã hội mới với tư cách là một bộ phận quan trọng của đời sống tinh thần, nếu được xây dựng và phát huy tốt có thể chuyển hóa thành nguồn lực, sức mạnh và động lực để phát triển kinh tế, ổn định xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc xây dựng CNXH thành công, bên cạnh chú trọng phát triển kinh tế, xây dựng nền tảng vật chất, cần hết sức quan tâm xây dựng ý thức xã hội mới, tạo dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.


Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Ý thức xã hội mới Việt Nam có khởi nguồn từ ý thức cách mạng của giai cấp vô sản, đã được khái quát trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự kế thừa tư tưởng xã hội nhân văn, tốt đẹp, vì sự phát triển của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.


Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tại Đại hội XIII, một trong năm bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra qua nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cũng là quan điểm chỉ đạo hàng đầu trong thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới là: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.


Nhìn từ góc độ tâm lý xã hội, ý thức xã hội mới chính là tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, khát vọng, niềm tin... của cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự nghiệp cách mạng, vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội, những đổi thay của cuộc sống hằng ngày... Ý thức xã hội của cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay còn là kết quả của quá trình củng cố và khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn, ý chí, khát vọng hùng cường của dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng thuận của cộng đồng, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...


Nhìn từ góc độ các hình thái ý thức xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam cũng chính là việc xây dựng, bồi đắp ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức... cho người dân trong xã hội.


Từ góc nhìn giai cấp - dân tộc, ý thức xã hội mới Việt Nam là ý thức cách mạng của giai cấp công nhân và cộng đồng dân tộc Việt Nam, hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh lợi ích của cộng đồng dân tộc; đồng thời, cũng là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.


Không thể phủ nhận, tinh thần, tư tưởng, niềm tin, khát vọng là yếu tố quan trọng tạo nên ý chí, lòng quyết tâm, là tiền đề, cơ sở để có hành động thống nhất, mạnh mẽ, hiệu quả. Thực tế cho thấy, trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chính khát vọng thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc, cùng niềm tin sắt son vào Đảng, vào Bác Hồ và con đường cách mạng đã trở thành nguồn lực tinh thần, kiến tạo sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước và xây dựng xã hội mới.


Với tinh thần đó, ý thức xã hội mới là bộ phận quan trọng, góp phần định hướng tư tưởng chính trị, hệ giá trị văn hóa, đạo đức... trong đời sống tinh thần cộng đồng dân tộc Việt Nam. Không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, ở góc độ khác, ý thức xã hội còn còn trở thành nguồn lực đặc biệt, là động lực nội sinh của dân tộc, tạo thành sức mạnh trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.


GS Joseph Nye, người khởi nguồn cho lý thuyết sức mạnh mềm đã nói về Việt Nam rằng: thực chất, Việt Nam đã chiến thắng trong hai cuộc chiến với hai đế quốc lớn trong thế kỷ XX nhờ nhiều vào “sức mạnh mềm”. Mặc dù đối phương có vũ khí và tiền bạc vượt trội, Việt Nam đã vượt qua và nhận được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhờ “vũ khí mềm” là chính nghĩa, khát vọng độc lập, thống nhất và lòng yêu nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.


2. NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM


Luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


Để phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận của hệ tư tưởng chính trị Việt Nam - hệ tư tưởng XHCN, các thế lực thù địch đã tuyên truyền nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc. Chẳng hạn như: chủ nghĩa Mác chỉ là sản phẩm của nền công nghiệp cơ khí thế kỷ XIX, không thể áp dụng trong nền khoa học và công nghệ hiện đại với quy mô toàn cầu hiện nay; chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay; chủ nghĩa Mác là sản phẩm của nền công nghiệp phương Tây, không phù hợp với văn hóa phương Đông và Việt Nam; sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng rõ nhất cho sự sai lầm và tính chất ảo tưởng của học thuyết Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng cơ sở, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không thể vận dụng vào Việt Nam...


Từ những luận điệu sai trái đó, các thế lực thù địch cho rằng, không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - thứ học thuyết đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX, đặc biệt là chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp với nền văn minh phương Tây... làm nền tảng cho hệ tư tưởng chính trị của Việt Nam - một quốc gia phương Đông trong thế kỷ XXI.


Luận điệu xuyên tạc về những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH


Bằng nhiều cách thức, các thế lực thù địch phủ nhận tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. Chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, “bảo thủ” duy trì con đường đi lên CNXH là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới”...


Lợi dụng những hiện tượng tiêu cực, những vấn đề bất ổn còn tiềm ẩn trong đời sống xã hội; tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ có sự đan xen, cùng tồn tại giữa cái cũ và cái mới, cái tốt và cái xấu; lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tham ô, tham nhũng, quan liêu, xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên..., các thế lực thù địch đã phủ nhận toàn bộ thành quả to lớn chúng ta đạt được trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.


Trong khi cả hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam đang quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng thì chính các hoạt động này bị các thế lực thù địch xuyên tạc thành các hoạt động “thanh trừng phe nhóm”, “đấu đá nội bộ”... Nhiều quan điểm trong văn kiện của Đảng cũng bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng xuyên tạc vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là duy tâm chủ quan, trống rỗng, phi thực tế, phản khoa học,...


Những luận điệu chống phá ấy không chỉ nhằm bóp méo tính đúng đắn, khoa học, cách mạng trong lý luận của Đảng mà còn bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước; gây mất đoàn kết trong cộng đồng, các tầng lớp dân cư, bào mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Thực trạng này đã được đánh giá khái quát: “Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn này ở chỗ chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội”. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam trên nhiều cấp độ, cả về ý thức lý luận cũng như ý thức xã hội thông thường.


3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ, XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM


Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng ý thức xã hội mới là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, trong đó đấu tranh phản bác luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ vừa có tính lâu dài, vừa thường xuyên và quyết liệt trước mắt. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đó, cần tập trung vào các giải pháp sau:


Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay cần gắn với xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới, từng bước thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đó là nền tảng quan trọng nhất phủ định những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân.


Lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin chỉ rõ, để nhận biết nhận thức, tư duy, lý luận cũng như các quan điểm của con người là đúng hay sai, phản ánh đúng hiện thực khách quan hay duy tâm chủ quan cần dựa vào thực tiễn - đó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó có thể chứng minh, kiểm nghiệm được nhận thức, chỉ dẫn đó là đúng đắn hay sai lầm. Những nhận định cũng như các chỉ dẫn lý luận hay những định hướng trong các văn kiện của Đảng hoàn toàn có thể nhận biết được tính đúng đắn, khoa học thông qua việc áp dụng vào quá trình cải biến xã hội.


Trên thực tế, sau đại dịch, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý I năm 2022 tăng rõ rệt, GDP đạt 92,175 tỷ USD, tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (4,8%) và Xinhgapo (3,4%). Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc (từ vị trí 128/187 năm 2011 lên vị trí 117 năm 2020).


Hệ thống chính trị cũng như cộng đồng người dân Việt Nam luôn nỗ lực để phát triển đất nước, con người và đã đạt được những thành tựu lớn, vị thế đất nước được nâng cao là điều không thể phủ nhận. Các thành tựu cụ thể đạt được trên các lĩnh vực trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước là bằng chứng hùng hồn, chứa đựng sức mạnh to lớn, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, xóa tan những cái nhìn hoài nghi, qua đó củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng một cách vững chắc.


Thứ hai, tấn công trực diện nhằm phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.


Cần có những bài viết trực tiếp, tấn công trực diện với những dẫn chứng sinh động, các luận điểm đanh thép, cách tiếp cận thuyết phục để phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.


Hiện nay, trên nhiều ấn phẩm báo, tạp chí và phát thanh, truyền hình đã xây dựng các chuyên mục định kỳ đăng tải các bài viết vạch trần bản chất của các luận điệu, quan điểm mà các thế lực thù địch, phản động tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Những hoạt động thiết thực này đã có sức lan tỏa cao, tạo ra những ảnh hưởng tích cực trong việc định hướng dư luận xã hội trong và ngoài nước.


Bên cạnh đó, cần tăng cường xử lý tình trạng phát tán, lan truyền tin giả, xấu độc trên các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Tiktok... Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đẩy lùi suy thoái tư tưởng, đạo đức cần được thực hiện thường xuyên. Trong cuộc đấu tranh đó cần phát huy tối đa vai trò của người dân để phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ sự nghiệp cách mạng.


Thứ ba, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đại chúng, tăng cường cung cấp thông tin chính thức một cách kịp thời, hiệu quả cả ở trong nước cũng như nước ngoài, qua đó hạn chế tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.


Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng đời sống ấm no cho người dân là một quá trình lâu dài, là mục tiêu trung tâm trong tiến trình cách mạng. Dù đạt được những thành tựu to lớn, song quá trình đổi mới đất nước còn một số bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần nắm chắc tình hình tư tưởng, xử lý thông tin, định hướng dư luận kịp thời, tránh để các đối tượng cơ hội, thù địch lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Cần tận dụng triệt để internet, mạng xã hội, đa dạng hóa hình thức giáo dục, tuyên truyền, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Cần dự báo sát, chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội... Chủ động cung cấp thông tin chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội.


Thứ tư, áp dụng các biện pháp pháp lý trong công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, xây dựng ý thức xã hội mới.


Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phòng, chống thông tin xấu, độc trên mạng xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đẩy mạnh thực hiện Luật An ninh mạng là những căn cứ pháp lý quan trọng để phòng ngừa, đấu tranh với các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải các thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt tới dư luận xã hội.


Xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam là một quá trình lâu dài, vừa “xây” vừa “chống”, trong đó, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái là một trong những giải pháp cơ bản, là nội dung không thể thiếu để xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh đặc biệt, cần phát huy tính tích cực, chủ động của các chủ thể mà hạt nhân là Đảng, Nhà nước, cấp ủy các cấp, đồng thời không thể thiếu sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là việc riêng của Đảng mà còn là việc chung, là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”./.



 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ mở lối, chỉ đường giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn là cơ sở, nền tảng để dân tộc ta, đất nước ta phát triển, trường tồn. Vì vậy, vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thấu hiểu cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong lầm than, nô lệ, ngày 05/ 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thay vì ngồi chờ ngoại viện như các vị tiền bối. Và đích đến đầu tiên của Người là mẫu quốc để “... xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về để giúp đồng bào chúng ta”1.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, năm 1920. Ảnh tư liệu

Với hành trình đó, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, lấy tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi “Bản yêu sách 8 điểm” tới Hội nghị Versailles, đòi những quyền dân tộc tự quyết, nhưng không được chấp nhận. Người hiểu rằng: “... muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”2. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi, nghiên cứu, tìm hiểu nhiều trào lưu, nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, như: cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),... và Người phát hiện đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, chỉ phục vụ lợi ích cho thiểu số người giàu, còn giai cấp công nhân và các giai tầng khác vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.

Sau gần 10 năm tìm kiếm, khảo nghiệm, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”3. Điều này làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đây lý luận cách mạng, khoa học - con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất.

Với trải nghiệm thực tế và tư duy độc lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1921 - 1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Xô-viết - quê hương của V.I.Lênin vĩ đại. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên - tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người được tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh có giá trị lý luận sâu sắc, đem đến cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn, đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi chuẩn bị cẩn trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba trở về nước, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”4.

Kế thừa, vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng nước ta cũng như trong từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện trên một số vấn đề cốt lõi.

Thứ nhất, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo cách mạng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Khi Đảng ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”5 để đi tới xã hội cộng sản. Với tư tưởng xuyên suốt là độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1939 - 1945, các hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Từ đó đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cách mạng Tháng Tám bằng tinh thần, ý chí “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nguồn: tapchicongsan.org.vn

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định bảo vệ vững chắc nền độc lập mới giành được, tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trực tiếp, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ tối cao, huy động mọi giai cấp, tầng lớp để thực hiện với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,... bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đất nước hoàn toàn được độc lập, thống nhất. Từ năm 1975 đến nay, nhiệm vụ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, Đảng ta đổi mới tư duy, từng bước xác định đúng mô hình đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và 8 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển (2011). Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;...”6. Như vậy, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngay trong đường lối lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thấm nhuần sâu sắc giá trị của lý luận cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị, ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại các nhiệm kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”7. Đồng thời, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Những quy định của Đảng được thực hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng8. Có thể khẳng định rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong công tác quốc phòng, an ninh. Quán triệt sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, làm cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”9. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; luôn kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, thực hiện “bốn không”, được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản, như: Luật Quốc phòng, Sách Trắng quốc phòng Việt Nam 2019, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng với tất cả các nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn: TS. DƯƠNG MINH HUỆ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh