Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Công tác dân vận của chính quyền khẳng định bản chất của Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”

 Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước.

Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Trung ương số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã xác định: “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang” với cơ chế thực hiện là “Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt”. Cơ chế này đã thể hiện rõ tầm quan trọng của chính quyền các cấp trong việc tổ chức thực hiện và sự thành công của công tác dân vận.

Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước. Đó là, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nâng cao nhận thức, xác định tầm quan trọng của công tác dân vận chính quyền thông qua việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về công tác dân vận, về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Từ nhiều năm qua, công tác dân vận được chú trọng, nhiều chủ trương về công tác dân vận được ban hành, triển khai, lan tỏa sâu rộng đến cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền cũng đã nâng cao nhận thức, thường xuyên quán triệt, lãnh, chỉ đạo, ban hành kế hoạch, chương trình thực hiện công tác dân vận; đề cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện phong cách dân vận của cán bộ, công chức, viên chức và người thừa hành công vụ: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

Điểm nổi bật là việc thay đổi nhận thức từ một “chính quyền hành chính, mệnh lệnh” thành “chính quyền phục vụ” nhân dân với nhiều mô hình hiệu quả. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt, phát huy có hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm thực hiện tốt dân chủ trong nhân dân, tạo đồng thuận cao nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Từ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nay thêm 2 thành tố mới là “Dân giám sát, “Dân thụ hưởng” đã đi vào đời sống thực tiễn hàng ngày đã góp phần thúc đẩy người dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân sinh cùng với chính quyền các cấp. Công tác đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân đã được chính quyền các cấp tập trung thực hiện trong thời gian qua. Các cơ quan nhà nước, người đứng đầu các cơ quan nhà nước thực hiện đúng trách nhiệm tổ chức tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng pháp luật; đặc biệt các cấp chính quyền tập trung giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, các vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp, đông người, nhất là tại các địa phương trọng điểm. Công tác cải cách hành chính đã được các địa phương, đơn vị nỗ lực thực hiện trong nhiều năm qua, gắn liền với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Các cấp chính quyền thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch…, tạo điều kiện cho công dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; giải quyết nhanh nhất các hồ sơ hành chính của công dân, doanh nghiệp, không để xảy ra việc nhũng nhiễu, tiêu cực. Nhiều địa phương đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện công khai, dân chủ các quy trình về điều hành, quản lý, xử lý và giải quyết các thủ tục, các chế độ, chính sách liên quan đến người dân và doanh nghiệp…

Công tác dân vận chính quyền đi vào từng ý thức trách nhiệm, hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Nhà nước ta, của chính quyền địa phương là một minh chứng sống động cho bản chất ưu việt của Nhà nước ta: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thực tiễn từ các nền chính trị và hành chính các quốc gia khác trên thế giới cho thấy, không phải Nhà nước, Chính phủ nào cũng thể hiện rõ được bản chất ưu việt này. Dù vậy, các thế lực thù địch vẫn ra sức bóp méo, làm sai lệch bản chất của Nhà nước ta qua các luận điệu xuyên tạc, tìm kiếm các tiêu cực tồn tại đâu đó để nói xấu Đảng và Nhà nước ta, làm mất lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Thực tiễn cũng cho thấy, công tác dân vận của chính quyền trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Tình trạng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài ở những dự án, công trình trọng điểm vẫn còn xảy ra hoặc chưa được giải quyết dứt điểm; vẫn còn nhiều vụ việc gây bức xúc trong Nhân dân; tinh thần “chính quyền phục vụ” ở một số cán bộ, công chức địa phương, sở ngành còn chưa được sâu sắc; vẫn còn tình trạng quan liêu, phiền hà, sách nhiễu với Nhân dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc; công tác nắm tình hình nhân dân, sâu sát đời sống, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng Nhân dân của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cấp chính quyền cơ sở còn nhiều khó khăn, hạn chế; việc ban hành các chủ trương, chính sách của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp có nơi có lúc còn chưa sâu sát với tình hình thực tiễn, chưa đáp ứng, đảm bảo về quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, dẫn đến thiếu khả thi, không hiệu quả...

Nguyên nhân của những hạn chế là do cấp ủy, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức đầy đủ về công tác dân vận của chính quyền; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn xa dân, quan liêu, nhũng nhiễu gây bức xúc trong Nhân dân; chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm với Nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát, chế tài về công tác dân vận của chính quyền chưa thường xuyên, chưa tạo hiệu quả như yêu cầu…

Tổng kết 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta tổng kết rút ra một bài học quan trọng có giá trị làm quan điểm chỉ đạo công tác dân vận trong thời kỳ mới: “Sự nghiệp Cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng sẽ dẫn tới tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[1]. Tiếp tục bổ sung và phát triển những quan điểm nói trên, tại Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới, Đảng ta đã bổ sung, làm rõ thêm: “Phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[2].  Đại hội XIII xác định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Như vậy, yêu cầu đối với công tác dân vận đòi hỏi cao hơn; đồng thời bổ sung thêm trong quan điểm “dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy, lý luận của Đảng về vai trò của Nhân dân và công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Động lực thúc đẩy phong trào Nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Công tác dân vận cần quán triệt tinh thần kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân; trong đó quan tâm, coi trọng lợi ích trực tiếp, lợi ích thiết thân của người dân, cá nhân lao động. Lợi ích chung của sự phát triển xã hội được thể hiện một phần quan trọng qua lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Công tác dân vận cần làm cho mỗi người quan tâm tới quyền làm chủ, tới lợi ích chính đáng của mình; lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của họ, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực hiện nhiệm vụ của tổ chức.

Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để Nhân dân tin tưởng, noi theo. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mất thiết giữa Nhân dân với Đảng. Lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ được củng cố, tăng cương và nâng lên khi Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh; khi những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân.

Quan tâm đến công tác dân vận chính quyền, chính là xây dựng một Chính phủ, một nền hành chính vì Nhân dân phục vụ. Thước đo của công tác dân vận chính quyền chính là sự hài lòng của người dân, ý nghĩa hơn là xây dựng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp. Làm tốt công tác dân vận chính quyền, chính là tạo ra mạch nối quan trọng để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ máu thịt của Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

 

 

Đảng phải vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin

 Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho Báo Pravda (Liên Xô), được Báo Nhân Dân đăng số 4952, ngày 1-11-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “… Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng XHCN đến thành công”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng. Đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội TSVM. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao

“… Khen, chê phải đúng mức”

 Sáng 6-11-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Bộ Chính trị để cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ. Khi bàn về chủ trương tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ đi một đợt thực tế dài hạn ở nông thôn, Người đã tán thành chủ trương và có những lời căn dặn quý báu đối với các văn nghệ sĩ đi thực hiện nhiệm vụ này: “… Khen, chê phải đúng mức. Khen nhưng khen quá lời, “suy tôn” người được khen thì chính người được khen xấu hổ. Đập nhưng đập bậy thì người ta không phục...”.

Đây là sự nhắc nhở sâu sắc, có giá trị định hướng về nhận thức, tư tưởng rằng mỗi văn nghệ sĩ cần nêu cao ý thức trách nhiệm, bám sát thực tiễn, khen, chê phải đúng mức. Nói cách khác, Người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải phản ánh trung thực và khách quan cuộc sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng nông thôn.

Thực hiện lời căn dặn của Bác, các thế hệ văn nghệ sĩ nước nhà đã thường xuyên bám sát đời sống nông thôn, lăn lộn trên các chiến trường đầy khói lửa; hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của Nhân dân, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, trước bối cảnh phức tạp, khó lường của tình hình, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học sâu sắc định hướng nhận thức, tư tưởng, phương châm hành động của các văn nghệ sĩ; bồi dưỡng cái tâm và cái tài, cổ vũ, động viên các văn nghệ sĩ bám sát cơ sở, đi sâu khám phá cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của Nhân dân, qua đó sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật hay và tốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đối với Quân đội ta, thấm nhuần lời dạy của Bác, đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội đã thường xuyên bám sát các đơn vị cơ sở, nhất là đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; lăn lộn cùng với bộ đội trên các thao trường, bãi tập, nơi bộ đội làm công tác dân vận, tham gia phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... để phản ánh trung thực cuộc sống học tập, công tác và sinh hoạt của bộ đội. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tuyên truyền, cổ vũ, động viên kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những cái xấu, cái tiêu cực, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh, để mỗi đơn vị quân đội thực sự là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

“... phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”

 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập số 12 (tháng 12-1958), khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng; theo Bác, đạo đức không chỉ là “gốc”, là nền tảng, là sức mạnh và nhân tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo lòng cao thượng của con người, là gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Đối với người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, thì điều đầu tiên và vô luận trong mọi hoàn cảnh phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Ở đây chính là việc đảng viên thực hiện trọn vẹn lời hứa tại lễ kết nạp đảng viên và giải quyết tốt 3 mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc).

Người đảng viên có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người đảng viên thật sự có đức thì bao giờ cũng luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết và là tấm gương sáng về tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; thuyết phục, chinh phục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền bằng chính đạo đức cách mạng, năng lực, trách nhiệm, tinh thần chịu đựng, vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tâm, tận lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, giữ vững và không ngừng phát huy tốt phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc xây dựng, rèn luyện và phát huy tính tiền phong gương mẫu, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội; nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp.


Tự hào Việt Nam

Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945, với ý chí và quyết tâm, Việt Nam đã khẳng định uy tín, vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại

Sau 79 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và sau gần 40 năm Đổi mới (từ 1986 đến nay), từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bài viết mới đây: “Xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã nhấn mạnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Cùng với đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng nhấn mạnh trong thời gian gần đây, một tinh thần rất quan trọng là cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Đó là tinh thần phát triển mới đòi hỏi sự nỗ lực cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa đang đặt ra với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp; cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng nội địa duy trì mức tăng khá. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế với mức tăng ổn định, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu trong nước và gia tăng xuất khẩu. Đầu tư công được đẩy mạnh về số vốn thực hiện, tốc độ tăng tỷ lệ giải ngân ở mức cao, an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, hiệu quả. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,05% so với năm 2022. 

Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 6.231,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với năm 2022. 

Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, cả nước có 159,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.521,3 nghìn tỷ đồng. 7 tháng năm 2024, cả nước có hơn 95,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 854,6 nghìn tỷ đồng.

Lao động có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng. Năm 2023, lao động có việc làm là 51,3 triệu người, tăng 683 nghìn người (tương ứng tăng 1,35%) so với năm 2022. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2022. Lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, giảm 507,6 nghìn người so với năm 2022. Thu nhập bình quân của lao động năm 2023 là 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 459 nghìn đồng so với năm 2022.

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022),

Theo công bố của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số GII (Bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực của các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia) của Việt Nam, năm 2023, xếp hạng thứ 46/132 quốc gia, nền kinh tế trên toàn thế giới, tăng 2 bậc so với năm 2022; trong khu vực ASEAN, chỉ số GII của Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực, xếp hạng sau Singapore (xếp hạng 5), Malaysia (xếp hạng 36) và Thái Lan (xếp hạng 43). Chỉ số nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam xếp hạng 66.

Cùng với phát triển kinh tế, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm, đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa - xã hội. Đến nay, văn hóa và đời sống của nhân dân có nhiều chuyển biến ngày càng được cải thiện.

Dân số Việt Nam năm 2023 là 100,3 triệu người. Chất lượng dân số ngày càng được cải thiện. Việt Nam cơ bản duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Những thành tựu trong phát triển của y học và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện, tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam năm 2023 là 73,7 tuổi.

Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2023, tình hình đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Công tác an sinh xã hội được các cấp từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện kịp thời, thiết thực. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 19/12/2023, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 12,3 nghìn tỷ đồng; thu hút nhiều du khách quốc tế tới thăm quan tìm hiểu văn hóa con người Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Thống kê nêu rõ, năm 2023, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt người, gấp 3,4 lần năm 2022, vượt xa mục tiêu 8 triệu khách quốc tế của năm 2023. Tính riêng 7 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 10 triệu lượt người, tăng 51,0% so với cùng kỳ 2023.

Việt Nam ngày càng gia tăng vị trí trên trường quốc tế

Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945 và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, Việt Nam không ngừng nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, với một tinh thần kiên cường và quyết tâm không thể lay chuyển.

Trước hết, đất nước ta đã duy trì một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, nhưng vẫn linh hoạt và sáng tạo. Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp và đa cực, việc giữ vững nguyên tắc nhưng linh hoạt trong ứng xử giúp Việt Nam vừa bảo vệ được chủ quyền quốc gia, vừa tận dụng được các cơ hội hợp tác quốc tế. Điều này không chỉ giúp đất nước giữ vững hòa bình và ổn định, mà còn tạo đà cho việc xây dựng các mối quan hệ Đối tác chiến lược, cùng nhau chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với các quốc gia khác.

Bên cạnh đó, việc nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế là một nhiệm vụ không thể thiếu. Tham gia tích cực vào các sáng kiến toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình, giúp Việt Nam khẳng định vai trò của mình như một quốc gia có trách nhiệm và đáng tin cậy trên trường quốc tế.  

Để tầm vóc của sự kiện 2/9 mãi mãi lan tỏa, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Điều này không chỉ giúp Việt Nam xây dựng một bản sắc độc đáo và mạnh mẽ trên trường quốc tế, mà còn tạo nên sức hút mềm mại, thu hút sự tôn trọng và ngưỡng mộ từ các quốc gia khác. Mỗi di tích, bài hát, điệu múa, mỗi phong tục, lễ hội là một câu chuyện về lòng kiên cường, sự sáng tạo và tình yêu đất nước - những giá trị đã và đang đưa Việt Nam vươn lên tầm vóc toàn cầu.

Ngoại giao văn hóa cũng là một trong những phương tiện mạnh mẽ giúp Việt Nam lan tỏa tầm vóc của mình ra thế giới. Khi văn hóa Việt được giới thiệu rộng rãi, khi những câu chuyện về lòng kiên cường và tinh thần đoàn kết được chia sẻ, thế giới sẽ hiểu hơn, yêu mến hơn và tôn trọng đất nước chúng ta hơn. Từ những hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đến các chương trình trao đổi giáo dục và giao lưu nhân dân, tất cả đều góp phần xây dựng một hình ảnh Việt Nam đẹp đẽ, năng động và đầy tiềm năng.

Từ ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, Việt Nam đã và đang tiếp tục viết lên những trang sử hào hùng và đầy tự hào trên trường quốc tế. Chúng ta chứng minh được rằng, dù nhỏ bé về diện tích nhưng với ý chí và quyết tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại./.

 

 

“Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”

 Đó là lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, Dân, Chính ở cơ quan Trung ương vào khoảng đầu tháng 2-1953, khi nước ta đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự cảm về một giai đoạn mới của cách mạng nước ta sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi-giai đoạn kiến thiết và xây dựng. Do vậy, rất cần phải củng cố sự đoàn kết, thống nhất và phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, có một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, chưa chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Thậm chí, một bộ phận cán bộ, đảng viên có thành kiến, chưa nhìn nhận, đánh giá đúng về trí thức, làm cho nhiều trí thức trong các cơ quan Nhà nước cho rằng, Đảng không coi trọng trí thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của trí thức trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe nhân dân và mối quan hệ giữa trí thức với cách mạng; đồng thời cũng đưa ra tiêu chuẩn về người trí thức chân chính. Lời dạy của Người không chỉ giúp chúng ta có nhận thức và thái độ đúng về trí thức mà còn là một cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng. Đây cũng là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mỗi trí thức và là cơ sở để đấu tranh với những nhận thức, quan điểm, tư tưởng sai trái về trí thức.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta luôn coi trọng, đánh giá đúng vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Trên cơ sở đó, quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong quân đội; không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các học viện, nhà trường trong toàn quân và có chính sách đúng, cách làm hợp lý để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quân đội. Cùng với việc đào tạo đội ngũ trí thức về chuyên môn, nghiệp vụ, các cấp trong toàn quân thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ trí thức về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, làm cho đội ngũ trí thức tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng; kịp thời phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Coi trọng liêm sỉ, biết giữ thể diện và uy tín trước dân là trách nhiệm chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay

 Lịch sử nhân loại cho thấy, khi văn hóa đạo đức liêm, chính suy đồi có thể kìm hãm, thậm chí là nguyên nhân gây ra suy sụp cả một chế độ xã hội, một vương triều... Bởi vậy, việc trang bị tri thức về văn hóa đạo đức cùng với văn hóa chính trị, giáo dục văn hóa đạo đức liêm chính và văn hóa chính trị cho mọi cán bộ, công chức, viên chức, trước hết cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách để chúng ta có được một xã hội đề cao các giá trị đạo đức liêm, chính, dân chủ, pháp quyền, công bằng, nhân văn.

  Sự nguy hại của tính bất liêm, bất chính

Trong lịch sử xã hội loài người, người cầm quyền hay tất cả những người trong bộ máy công quyền của một chế độ xã hội đang ở thời kỳ thịnh vượng, đang phát triển đều cần có và đều đòi hỏi các đức tính quan trọng là liêm, chính. Hàn Phi (280-233 trước Công nguyên), thời Trung Hoa cổ đại khi bàn về nguy cơ thói hám lợi của người đời cũng nói rằng: “Ham lợi nhỏ tức là hại đến lợi lớn”. Còn xét trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, thì một đất nước, như Mạnh Tử (372-289 trước Công nguyên) cho rằng, nếu mà “ai cũng tham lợi, thì nước lâm nguy”. Đó đều là những bài học về sự liêm, chính mà người đời xưa nhắc nhở và chúng ta cần ghi nhớ.

Tháng 6-1949, nhằm giáo dục tinh thần và đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Cần, kiệm, liêm, chính” dưới bút danh Lê Quyết Thắng, trong đó Người giải thích rất rõ nội dung của các khái niệm này. Bài báo ra đời cách đây đã 75 năm, song những chỉ dẫn dễ hiểu mà hết sức sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các đức tính cần, kiệm, liêm, chính vẫn giữ nguyên giá trị giáo dục rất thiết thực đối với mỗi cán bộ, đảng viên ngày nay, đặc biệt là đối với cán bộ lãnh đạo các cấp đang giữ những trọng trách trong hệ thống chính trị ở nước ta.


Bác như vẫn đang chứng kiến, cổ vũ và dõi theo chúng ta!

 Càng đọc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm thía những lời căn dặn của Người trong mỗi câu, mỗi chữ. Những ngôn từ hết sức giản dị mà sâu sắc, gần gũi nhưng lại thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu xa. Đọc Di chúc của của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có cảm giác Bác như vẫn đang hiện hữu ở bên, chứng kiến, cổ vũ và dõi theo chúng ta!

Là biểu tượng vĩ đại của tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng và khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ truyền cảm hứng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Người đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Ngay cả cho đến khi trước lúc đi xa theo quy luật tự nhiên của đời người: “sinh, lão, bệnh, tử”, Người vẫn canh cánh trong lòng một mực lo cho nước, cho dân, cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Tạm biệt chúng ta, tạm biệt thế giới này để về với thế giới Người Hiền, Bác của chúng ta vẫn một mực khiêm nhường, Người viết: "Tôi để lại mấy lời này cho đồng bào, đồng chí", để rồi mấy lời theo cách nói của Người lại chính là văn kiện lịch sử đặc biệt - là bản Di chúc vô giá, trở thành Quốc bảo cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những chỉ dẫn căn cốt để đất nước ta vững vàng tiến bước trên hành trình cách mạng… Kỷ niệm 55 năm ngày Bác đi xa, cũng là 55 năm chúng ta thực hiện Di chúc của Người, trải qua năm tháng, những lời căn dặn của Người đã được Đảng, Nhà nước ta từng bước hiện thực hóa, từ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà cho đến công cuộc xây dựng phát triển đất nước giàu mạnh như Người hằng mong muốn.

Đọc Di chúc của Người, chúng ta có cảm giác Bác như vẫn đang hiện hữu ở bên, chứng kiến, cổ vũ và dõi theo sự tiến triển của cách mạng Việt Nam, chia sẻ khó khăn gian khổ với công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất cũng như quá trình xây dựng phát triển đất nước của Nhân dân Việt Nam. Chỉ với hơn 1.000 từ ngắn ngọn, Di chúc của Người là kết tinh toàn bộ giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; từ những kiêu hãnh tự hào, những nhận định, khẳng định, đánh giá và dự báo thiên tài, cho đến những căn dặn ân cần, rất đỗi đời thường trong cuộc sống, Người viết: “Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.

Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam là minh chứng về những lời căn dặn, chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những dự báo chiến lược thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của lãnh tụ thiên tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Và sự thật, gần 6 năm sau, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối. Chính những nhận định, dự báo thiên tài của Người là ngọn cờ quyết thắng, linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngay cả khi người đã đi xa.

Nhìn lại 55 năm thực hiện Di chúc của Người, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi câu, mỗi chữ trong Di chúc của Người sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, chúng ta soi xét vào từng lời căn dặn, chúng ta tự hào đã làm được nhiều việc, chúng ta trân trọng những thành quả đã đạt được; song không khỏi buồn, thậm chí đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đã, đang diễn ra trong xã hội, ngay trong Đảng vẫn còn hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, quốc tế ngày càng sâu rộng, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “bè phái và lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Và chúng ta hiểu vì sao, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta, mở đầu bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau."

Theo đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu thực hiện những chỉ dẫn quý báu, mong muốn của Người theo Di chúc: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Để thỏa lòng mong ước của Người cũng chính là thực hiện tốt những lời căn dặn, chỉ dạy trong Di chúc, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải gia sức học tập và làm theo Bác về tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân như Người đã khẳng định trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.”

Cho dù đọc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao nhiêu lần đi chăng nữa, càng đọc chúng ta càng thấm thía những lời căn dặn của Người trong mỗi câu, mỗi chữ, những ngôn từ hết sức giản dị mà sâu sắc, gần gũi nhưng lại thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu xa. Đọc Di chúc của Người cho chúng ta cảm giác như Bác ở gần bên, 55 năm đã qua, nhưng Di chúc của Người vẫn vẹn nguyên giá trị cho hậu thế, không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà còn có giá trị lâu dài cho tương lai.

Để thực hiện tốt, có hiệu quả Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời căn dặn của Người: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhớ lại 5 lời thề trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969. Và đây là lời thề thứ năm: “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề: Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của Hồ Chủ tịch. Noi gương Người, toàn thể Nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng”.

Thành kính tưởng nhớ Người! Chúng ta nguyện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt, có hiệu quả những lời căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cách tốt nhất để không phải hổ thẹn trước Anh linh của Người và các bậc tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam. Bởi Bác như vẫn đang chứng kiến, cổ vũ và dõi theo chúng ta!

 

Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cùng sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thành công công cuộc chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm với tiêu đề: “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.

1. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển lực lượng sản xuất và từng bước cải tạo, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra qua nhiều giai đoạn, phản ánh sự vận động và phát triển không ngừng của cách mạng Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra trang sử mới cho sự phát triển của dân tộc trong điều kiện đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Xuất phát điểm từ nền nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm thực dân đô hộ, Đảng ta đã thực hiện chính sách “người cày có ruộng” nhằm trao ruộng đất về tay nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hướng tới việc cải tạo quan hệ sản xuất, tạo tiền đề xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn 1954 - 1975, cách mạng nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, lấy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới dựa trên ba trụ cột: Chế độ công hữu, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động(1), đã đưa lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc.

Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra chương mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng năm 1976 trên cơ sở đánh giá đặc điểm lớn của đất nước, đó là từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đã đề ra đường lối: Kiên định chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quyết tâm tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng văn hóa(2). Trong đó, cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm.

Từ năm 1979 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nước ta đã trải qua những khủng hoảng nghiêm trọng, một phần nguyên nhân do sự thiếu đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất(3). Từ nhận thức đúng đắn đó, Đại hội VI của Đảng đã quyết tâm tiến hành đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bao cấp, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị là bước đột phá về đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp khi chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và trao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất(4). Chỉ sau một năm thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực triền miên đã sản xuất được 21,5 triệu tấn lúa và lần đầu tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất phù hợp đã tạo động lực mới cho lực lượng sản xuất phát triển, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế.

2. Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt 5,7 - 5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các chính sách điều hành linh hoạt, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.

Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao.

Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số tạo ra biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất, dẫn đến những mâu thuẫn mới với quan hệ sản xuất hiện hữu; vừa tạo tiền đề, động lực hình thành phương thức sản xuất mới trong tương lai, vừa đòi hỏi thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất và quản lý xã hội. Lực lượng sản xuất mới đang hình thành và phát triển mạnh mẽ; song chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong khi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực công nghệ cao, vẫn là thách thức lớn. Quan hệ sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong đó, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong nhân dân; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu.

Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để.

Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.

Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta nhận thức rõ rằng, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải không ngừng được điều chỉnh để phù hợp với trình độ ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của toàn bộ phương thức sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.

3. Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội. Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa bảo đảm bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới. Muốn vậy, người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số; đồng thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới, như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... bảo đảm khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội, đẩy nhanh hiện đại hóa. Có cơ chế, chính sách phù hợp huy động nguồn lực to lớn trong nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; nguồn lực từ đất đai, tài sản trong xã hội mà người dân đang tích luỹ, biến những tiềm năng này thành động lực, tư liệu sản xuất, để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi mới. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Trong quá trình cải cách, bám sát nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Việc tinh gọn bộ máy phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại./.

 

 

 

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân

 Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một văn kiện vô cùng quý giá có ghi hàng chữ “Tuyệt đối bí mật”. Văn kiện “Tuyệt đối bí mật” này (từ sau ngày 9-9-1969 được Đảng ta gọi là Di chúc) là một di sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân Việt Nam, đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Bản Di chúc tuy rất ngắn gọn song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự kết tinh một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hủ đối với những thế hệ mai sau”.

Trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trụ sở Bộ Công an, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an khi đó đã thay mặt toàn thể lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tuyên thệ: “Lực lượng Công an nhân dân đoàn kết và quyết tâm làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà”. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng, suốt 55 năm qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi rọi, dẫn đường cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam lập nhiều chiến công, thành tích, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Chỉ với hơn 1.000 từ, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ý chí và quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của chính nghĩa và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đưa cả dân tộc giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Quán triệt sâu sắc và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam được tiếp thêm động lực và sức mạnh to lớn, không quản ngại khó khăn, gian khổ, tận tụy trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, giữ gìn an ninh, trật tự, đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm gần đây, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bám sát và triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam có nhiều đổi mới mang tính bước ngoặt, đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt công tác, đã được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ghi nhận, khẳng định: Nhìn lại nửa nhiệm kỳ vừa qua, ngành Công an “hoạt động rất vất vả, song cũng rất đáng tự hào, để lại nhiều dấu ấn tốt”.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công an nhân dân được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng đối với các mặt công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng công an thực sự trong sạch, vững mạnh, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” theo đúng di nguyện của Bác. Đảng ủy Công an Trung ương đã chủ động, tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; lãnh đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện quyết liệt Nghị quyết này, gắn với kế hoạch thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị”; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Công an nhân dân Việt Nam. Quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong nội bộ Công an nhân dân Việt Nam; đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực và chấn chỉnh thái độ thực thi công vụ của toàn lực lượng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, nhất là ở những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng và ở những nơi có nhiều dư luận phản ánh, nhiều đơn, thư tố cáo. Cùng với đó, lần đầu tiên ban hành và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng ủy Công an Trung ương về công tác chính trị, tư tưởng, Quy định về học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; tổ chức sâu rộng, lan tỏa hàng chục đợt sinh hoạt chính trị, hội thảo chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong Công an nhân dân Việt Nam, về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; nghiên cứu, tìm hiểu các tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””...; gắn với quyết liệt rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, luôn sẵn sàng chấp nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tích cực tham gia công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần quan trọng đẩy lùi một bước nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm “thế trận lòng dân”, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong. Thực hiện chức năng bảo vệ Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương đã tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh thông tin - truyền thông, an ninh mạng. Tăng cường các giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Phòng ngừa, đấu tranh, vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động thâm nhập, chuyển hóa nội bộ, cài cắm nội gián, chui sâu, leo cao; kịp thời phát hiện, báo cáo tham mưu với Đảng ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung cao độ điều tra, xử lý dứt điểm, nghiêm minh, triệt để, đúng pháp luật nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, theo đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, không để kéo dài, “chìm xuồng” và thực sự tạo sự lan tỏa theo đúng phương châm “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, xử lý một người để cứu muôn người”; qua đó, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí, gắn kết tư tưởng và hành động; cùng với đoàn kết giữa Công an nhân dân Việt Nam với Quân đội nhân dân Việt Nam và các ban, bộ, ngành, địa phương; đoàn kết, hợp tác quốc tế với các đối tác an ninh, trật tự, tạo sức mạnh to lớn giúp lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, kể cả trong bối cảnh các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp chưa từng có tiền lệ, gia tăng thách thức, áp lực mạnh mẽ từ nhiều hướng đối với bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Công tác thu thập thông tin, phân tích, tham mưu chiến lược của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã cung cấp luận cứ góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, an ninh quốc gia được giữ vững, tội phạm liên tục kéo giảm qua các năm, môi trường an ninh, an toàn, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố vững chắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Xuyên suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mục tiêu, lý tưởng “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”. Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng, tình cảm chủ đạo trong những điều Người căn dặn là tình yêu thương trọn vẹn của Người đối với mọi tầng lớp nhân dân; kể cả những lời cuối khi Người nói “về việc riêng”, vẫn toát lên những suy nghĩ trăn trở, lo cho nước, cho dân. Quán triệt, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng, đạo đức, phong cách trong Di chúc của Người, mọi chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đều phải “vì dân phục vụ và dựa vào dân mà làm việc”, “phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Với việc tham mưu ban hành và phát huy vai trò thường trực thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã gương mẫu, đi đầu trong chuyển đổi số, góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu tiêu cực, “tham nhũng vặt”, phục vụ tốt nhất cho nhân dân. Tập trung xây dựng công an cấp xã, tham mưu xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, đổi mới mạnh mẽ phương pháp làm việc theo phương châm “công an tìm đến dân”, “gần dân, hiểu dân”, “lúc dân cần, lúc dân khó, có công an”, qua đó, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân ở từng địa bàn cơ sở. Chủ động, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương, các nhà hảo tâm xây dựng hàng chục nghìn ngôi nhà cho hộ nghèo, gia đình chính sách, gia đình khó khăn về nhà ở tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ giải quyết từ gốc rễ vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh con người, mà còn góp phần quan trọng củng cố “thế trận lòng dân” trong thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân vững chắc. Công tác đền ơn, đáp nghĩa, chính sách hậu phương trong Công an nhân dân Việt Nam luôn được chú trọng với nhiều hoạt động thiết thực, nghĩa tình, thể hiện sâu sắc sự tri ân.

Năm mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những bài học vô cùng quý báu trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Đó là bài học về tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; bài học về hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mọi chủ trương, biện pháp công tác an ninh, trật tự đều phải xuất phát từ nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; bài học về không ngừng củng cố đoàn kết - đoàn kết trong các cấp ủy đảng, trong toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; đoàn kết giữa lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, với các cơ quan, ban, ngành hữu quan; tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng vì hòa bình, ổn định và cùng phát triển; bài học về chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Công an nhân dân Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”, gắn bó mật thiết với nhân dân, trọng dân, lễ phép với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, lấy niềm vui của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình.

Hiện nay, toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2025 - 2030 theo Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 16-6-2024, của Bộ Chính trị khóa XIII trong bối cảnh các yếu tố bên trong, bên ngoài, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp, gia tăng thách thức, áp lực đối với công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; chúng ráo riết triển khai nhiều âm mưu, hoạt động hết sức thâm độc, trực diện, không từ thủ đoạn nào hòng thúc đẩy các yếu tố suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa”, gây chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân.

Bối cảnh tình hình trên đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết, luôn phải thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang; kiên quyết, kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo chức năng, nhiệm vụ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thấm nhuần phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tận dụng tối đa thời cơ, đẩy lùi mọi nguy cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Đảng, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời vì nước, vì dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là biểu tượng, tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Di chúc của Người, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Người, đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không nề gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn đấu, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng mà Người đã trọn đời cống hiến, hy sinh. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam nguyện hết lòng, hết sức thực hiện di huấn của Người, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

 

“Kiên quyết nâng cao dần mức sống của nhân dân... đồng thời giảm nhẹ dần sự đóng góp của nông dân”.

 Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài xã luận “Lễ mừng Quốc khánh 02/9/1955” đăng trên Báo Nhân dân, số 549, ra ngày 03 tháng 9 năm 1955. Trước đó, lời kêu gọi này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào sáng ngày 02 tháng 9 năm 1955 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) trước hàng chục vạn đồng bào gồm đủ các giới, các dân tộc; trong thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi trọn vẹn, đất nước tạm phân chia thành hai miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đang tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; quân dân miền Nam đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, hướng tới cuộc tổng tuyển cử thống nhất hai miền. Trong bối cảnh đó, lời kêu gọi của Bác đã làm nức lòng đồng bào, nhất là tầng lớp nông dân, động viên mọi người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, khắc phục trở ngại, hoàn thành thắng lợi mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Chủ trương: “Kiên quyết nâng cao dần mức sống của nhân dân” và làm “giảm nhẹ đóng góp của nông dân” là một nội dung lớn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu bật nghĩa vụ và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong hệ thống chính trị phải làm mọi cách, tìm mọi biện pháp để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân trở thành người làm chủ, đúng với chủ trương, đường lối xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”.

Sau hơn 40 năm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, đất nước đang trên con đường phát triển mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng với thế giới, lời của Bác dạy năm xưa vẫn mang tính thời sự sâu sắc, là mục tiêu, động lực của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mỗi người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, là người chủ của đất nước.

Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng, Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, là quân đội cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc; đồng thời, đó còn là một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; do đó hơn lúc nào hết, cán bộ, chiến sĩ quân đội phải luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng phấn đấu, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, có trình độ kỹ, chiến thuật cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, tích cực hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”“Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, tham gia giúp nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, … góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.

“Mong cán bộ ta cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, thật thà “ba cùng”, làm đúng chính sách, để giành lấy kết quả tốt hơn trong công tác phát động quần chúng”.

 Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Những kinh nghiệm cần phải tránh trong công tác phát động quần chúng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 221, từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 9 năm 1954, bút danh “C.B”. Đây là thời điểm miền Nam đang tiến hành đấu tranh chính trị, giữ gìn, phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới; miền Bắc đang trong thời kỳ khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn thận trọng trong từng lời nói, việc làm, đặc biệt là phải luôn thật thà, khiêm tốn, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm huy động sức mạnh đông đảo của quần chúng cùng hướng vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng. Lời kêu gọi trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trở thành phương hướng hành động, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, đảng viên mà còn tạo được niềm tin trong quần chúng nhân dân, động viên, cổ vũ nhân dân thi đua lao động, sản xuất, kháng chiến thắng lợi.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi tình hình thế giới, khu vực, trong nước diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến mọi mặt đời sống xã hội, càng nhận thấy giá trị sâu sắc lời căn dặn của Bác năm xưa; đặc biệt, nó đã trở thành định hướng quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận hiện nay phải vươn lên để lãnh trách nhiệm trước Đảng, trước dân, khắc phục mọi khó khăn, yếu kém, nhạy bén, tham mưu giải quyết một cách kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để cho mọi người ai cũng phải làm dân vận, ai cũng biết làm dân vận và ai cũng được làm dân vận, chứ không phải là công việc riêng cán bộ chuyên trách.

Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trong suốt hành trình hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, đã chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, hằng năm có hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi phức tạp về an ninh, chính trị, dân tộc, tôn giáo; các Đoàn kinh tế - quốc phòng đã tích cực giúp đỡ nhân dân chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng nông thôn mới, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, giữ gìn an ninh chính trị… theo đúng phương châm “Nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin” được cấp uỷ, chính quyền, nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, tiếp tục giữ vững và phát huy tốt truyền thống tốt đẹp “đến dân mừng, đi dân nhớ, ở dân thương”.

 LÒNG YÊU NƯỚC: NGỌN LỬA BẤT DIỆT, SOI SÁNG CON ĐƯỜNG LỊCH SỬ DÂN TỘC

Trong dịp lễ Quốc khánh 2/9 vừa qua, lòng yêu nước của nhân dân ta lại được thể hiện rõ nét qua nhiều hành động ý nghĩa, những phong trào sôi nổi và đầy tự hào.

Lịch sử dân tộc Việt Nam là một bản anh hùng ca bất khuất, kiên cường, là câu chuyện về một dân tộc luôn biết đoàn kết, chung lòng vì độc lập tự do, đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Từ ngàn đời nay, cha ông ta đã ghi danh vào sử sách bằng những chiến công hiển hách, từng bước giành lại độc lập cho Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn minh rực rỡ của dân tộc.

Trong dòng chảy lịch sử ấy, lòng yêu nước luôn là ngọn lửa bất diệt, soi sáng con đường lịch sử dân tộc, thúc đẩy tinh thần quốc gia vươn lên. Và ngay cả trong thời bình hiện nay, khi đất nước đang trên đà phát triển, lòng yêu nước của người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, càng được thể hiện rõ nét qua những hành động thiết thực, những phong trào sôi nổi, đầy tự hào.

Năm 2020, khi đại dịch Covid-19 hoành hành, dân tộc Việt Nam đã chung tay, đoàn kết như một con tim đập chung, đẩy lùi dịch bệnh, thể hiện sức mạnh phi thường của tình thân và lòng yêu nước. Hình ảnh những y bác sĩ miệt mài trên tuyến đầu chống dịch, những người dân tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng dịch, hay những hành động tình nguyện giúp đỡ người khó khăn, đã trở thành tấm gương sáng cho thế giới về sự đoàn kết và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Và trong dịp lễ Quốc khánh 2/9 vừa qua, lòng yêu nước của người dân Việt Nam lại một lần nữa được thể hiện rõ nét qua những hành động thiết thực, những phong trào sôi nổi và đầy tự hào.

Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên mái nhà, trên cửa các hộ gia đình, đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, thể hiện rõ nét niềm tự hào dân tộc. Không chỉ dừng lại ở việc treo cờ, các bạn trẻ còn sáng tạo, biến lá cờ đỏ sao vàng thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa mang ý nghĩa truyền thống, vừa thể hiện sự năng động, sáng tạo.

Bên cạnh đó, trào lưu biến hình đầy tự hào về tà áo dài truyền thống, về cờ đỏ sao vàng truyền thống, văn hóa, dân tộc Việt Nam, cũng lan tỏa rộng rãi. Các bạn trẻ tự tin diện những bộ áo dài truyền thống, tự hào khoe sắc màu văn hóa dân tộc, đồng thời khẳng định bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.

Những hành động thiết thực, những trào lưu ý nghĩa như vậy, chính là minh chứng rõ ràng cho lòng yêu nước nồng nàn của người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Họ không chỉ biết yêu nước bằng lời nói, mà còn thể hiện bằng hành động thiết thực, sáng tạo, đầy tự hào.

Việc người người nhà nhà thay ảnh đại diện Quốc kỳ mừng ngày Quốc khánh, là minh chứng cho sự đoàn kết, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam. Họ biết rằng, mỗi cá nhân là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của quốc gia, và họ luôn sẵn sàng góp phần cho sự phồn vinh của Tổ quốc.

Còn nhớ, năm 2023 Trần Quyết Chiến - là một cơ thủ bi-a đã ba lần giành chức vô địch World Cup Carom 3 băng do Liên đoàn Billiard thế giới tổ chức vào các năm 2018, 2023 và 2024. Anh nhận lời mời tham dự sự kiện thi đấu giao hữu do Liên đoàn Billiards and Snooker Trung Quốc (CBSA) tổ chức tại Thượng Hải (Trung Quốc). Sự kiện này đã mời những tay cơ hàng đầu thế giới ở nội dung carom 3 băng.

Tuy nhiên trong ngày thi đấu đầu tiên, trận đấu giữa Trần Quyết Chiến và đối thủ đã bị lồng ghép hình ảnh "đường lưỡi bò" trên sóng truyền hình. Ngay khi nắm thông tin và trao đổi qua điện thoại với HLV, Quyết Chiến đã bỏ giải, lập tức trở về Việt Nam bất chấp việc có thể không bao giờ được mời dự các giải lớn hoặc bị mất nhiều tiền thù lao vì hành động đột ngột này.

Đến nay, hành động dứt khoát, quyết liệt có ý thức bảo vệ màu cờ sắc áo và hình ảnh đất nước của Trần Quyết Chiến vẫn được nhắc nhớ và khen ngợi.

Mới đây nhất hồi cuối tháng 8 vừa qua, lá cờ Quốc kỳ Việt Nam lại tung quay trên sàn đấu trí tuệ thế giới trong giải Olympic Vật lý thiên văn quốc tế (IOAA). Đây là lần đầu tiên cả 5 học sinh Việt dự Olympic Vật lý thiên văn quốc tế (IOAA) đều giành huy chương, gồm hai bạc, ba đồng.

Cụ thể, ngày 27/8, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cho biết, hai học sinh giành huy chương bạc là Nguyễn Bá Linh, Nguyễn Xuân Hoàng. Ba huy chương đồng thuộc về Nguyễn Thị Thu Minh, Lưu Quang Minh, Đàm Ngọc Bảo Lâm.

Cả 5 là học sinh lớp chuyên Lý, trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam. Trong đó, Lâm học lớp 11, còn lại học lớp 12.

Hình ảnh các em học sinh trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam giơ Quốc kỳ Việt Nam khi nhận giải thật sự là một hình ảnh đầy tự hào về trí tuệ Việt.

Tất cả những điều này cho thấy, lòng yêu nước của người dân Việt Nam vẫn luôn nồng nàn, được tiếp nối qua từng thế hệ. Nó không chỉ là một cảm xúc mà còn là một tinh thần đoàn kết, một lực lượng mạnh mẽ đẩy động sự phát triển của dân tộc. Hy vọng rằng, ngọn lửa yêu nước sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn người Việt Nam, góp phần xây dựng một Việt Nam phồn vinh và thịnh vượng./. 

 KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ CỦA “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”

Vừa qua trên trang “Vietnamthoibao”, Lê Bá Vận có giật tít: “Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9 Danh Chính Ngôn Thuận Sự Thành?” đã cố tình đưa ra nhiều luận điệu sai trái, bóp méo, xuyên tạc giá trị của bản Tuyên ngôn độc lập, cho rằng: “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập lời lẽ hằn học, lập luận ngoa ngôn hồ đồ, từ ngữ không chính xác. Không xứng đáng là một bản tuyên ngôn nghiêm túc”. Cần khẳng định ngay: đó là những luận điệu sai trái, bóp méo sự thật lịch sử của Lê Bá Vận, bởi lẽ:

Thứ nhất, “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận đầy mẫu mực

Với hơn 1.000 chữ, bản Tuyên ngôn có ba phần theo bố cục chặt chẽ của văn chính luận: Cơ sở pháp lý - cơ sở thực tế - khẳng định. Phần đầu bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền với trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp. Lời lẽ của hai bản tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lý không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách đầy sáng tạo: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Phần kế tiếp, trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu với sự liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho cả thế giới biết chiêu bài “khai hóa, bảo hộ” với những việc làm độc ác của thực dân Pháp. Và trước những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp chúng ta buộc phải “rũ bùn đứng dậy”, làm cuộc cách mạng giải phóng chính mình…

Kết thúc phần cơ sở thực tiễn, Tuyên ngôn đã nhấn mạnh: “Sự thật là từ mùa Thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật...” và “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”. Sau khi đã làm rõ cơ sở pháp lý và nêu ra cơ sở thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng những lời lẽ đanh thép để tuyên bố nền độc lập của dân tộc, đồng thời khẳng định “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

Thứ hai, “Tuyên ngôn độc lập” là một áng hùng văn lập quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục của một áng văn chính luận mẫu mực, Tuyên ngôn Độc lập có thể sánh với những áng hùng văn của các bậc tiền nhân như bài thơ Thần “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn hay “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. “Tuyên ngôn độc lập” là sự kết tinh khát vọng độc lập mấy nghìn năm của dân tộc và cũng tỏ rõ ý chí, quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập, xứng đáng được xếp vào hàng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta.

Bên cạnh sứ mệnh khai sinh, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, bản “Tuyên ngôn độc lập” là bản Tuyên ngôn về nhân quyền, về cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc và mỗi con người của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thực hiện lời thề độc lập, dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã anh dũng chiến đấu suốt 30 năm chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam phải chống lại nhiều thế lực xâm lược hùng mạnh và tàn bạo để bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng. Hơn ai hết, người Việt Nam hiểu rõ giá trị của hòa bình, độc lập, tự do. Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, trọng sự hòa hiếu, luôn luôn mong muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới, nhưng quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với lời thề bất hủ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Như vậy, “Tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945 là tuyên ngôn lập quốc của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện sâu sắc ý chí, khát vọng của nhân dân ta về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chỉ có những kẻ vẫn đang tự giam mình trong bóng đêm thù hận, theo đuổi mưu đồ chính trị lỗi thời, đi ngược với lợi ích, truyền thống văn hóa, nhân văn của dân tộc như Lê Bá Vận mới đưa ra nhiều luận điệu sai trái, cố tình bóp méo, xuyên tạc giá trị của bản “Tuyên ngôn độc lập”. Những luận điệu sai trái, xuyên tạc sự thật đó của y và đồng bọn cần phải bị lên án và đấu tranh bác bỏ.