Thứ Năm, 14 tháng 3, 2019

CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN



NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ
BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA TỔ QUỐC

Ngày 17/2/1979, cách đây 40 năm cả dân tộc Việt Nam đã nghiêng mình tưởng nhớ đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc kéo dài 10 năm (1979-1989), chống lại cuộc xâm lược tàn bạo và phi nghĩa của Trung Quốc. Có thể nói đây là một sự kiện lịch sử bi tráng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc. Thời gian vừa qua có nhiều ý kiến trái chiều và nhận thức chưa thật đúng về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Việc chúng ta cần phải nhắc đến nó, ghi nhận nó một cách thực sự khách quan, lấy chuẩn mực pháp lý quốc tế làm thước đo để đánh giá, là việc làm hết sức quan trọng và cũng không thể bóp méo sự thật gây hiểu lầm dư luận.
Thật vậy, chỉ khi nào chúng ta đánh giá đúng và sòng phẳng về lịch sử, chúng ta mới không mắc bẫy đối phương, củng cố vững chắc đoàn kết dân tộc và tận dụng được tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ từ bè bạn quốc tế và nhân loại tiến bộ. Ngày 17/2/1979, Đặng Tiểu Bình đã phát động cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam dưới chiêu bài “phản công tự vệ”, “dạy cho Việt Nam một bài học”. Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng là Quảng Ninh và Hà Tuyên lực lượng khoảng hơn 600 nghìn quân. Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ ta đã tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình hữu nghị tuyền thống giữa nhân dân hai nước và khằng định: “Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta nhất là các tỉnh Việt Bắc, Tây Bắc một lần nữa phát huy cao độ truyền thống cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Trên mặt trận Lạng Sơn: Trung Quốc sử dụng các Quân đoàn 43, 55 và 54 (dự bị), có 160 xe tăng, xe bọc thép, 350 pháo cơ giới, chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng và khu vực thị trấn Đồng Đăng.
Trên mặt trận Cao Bằng: phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 41, 42 và Quân đoàn 50 (thiếu) làm lực lượng dự bị, hai trung đoàn địa phương tỉnh Quảng Tây, 4 trung đoàn độc lập, có 225 xe tăng, xe bọc thép, hơn 300 pháo cơ giới và nhiều đơn vị sơn cước, hàng chục tiểu đoàn các xã giáp biên giới và hàng nghìn dân binh chia làm hai cánh: một cánh do Quân đoàn 41 đảm nhiệm tiến công vào Thông Nông, Hà Quảng và một cánh do Quân đoàn 42 đánh vào thị xã Cao Bằng và tiêu diệt Sư đoàn 346 của ta.
Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn (nay là tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái): Trung Quốc sử dụng Quân đoàn 13, 14, một sư đoàn Quân đoàn 50, cùng một số trung đoàn địa phương, có 100 xe tăng, xe bọc thép và 450 khẩu pháo hỗ trợ, chia làm hai cánh: Một cánh do Quân đoàn 13 đảm nhiệm tiến công theo hữu ngạn sông Hồng đánh vào thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường; một cánh do Quân đoàn 14 theo tả ngạn sông Hồng đánh vào Mường Khương, Bản Phiệt, Phố Lu.
Trên mặt trận Lai Châu: Phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 11 đánh vào Pa Nậm Cúm, Nậm Cáy, Nậm Xe; mục tiêu chính là thị trấn Phong Thổ.
Trên mặt trận Hà Tuyên (nay là Hà Giang và Tuyên Quang): Trung Quốc huy động 2 sư đoàn và một số trung đoàn địa phương chi làm ba mũi tiến công vào các khu vực Thanh Thủy, Đồng Văn và Méo Vạc.
Trên mặt trận Quảng Ninh: Quân Trung Quốc huy động 2 sư đoàn bộ binh, chia làm hai mũi: Một mũi tiến công vào Thán Phán (Móng Cái) và một mũi tiến công vào Cao Ba Lanh (Bình Liêu).
Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đánh trả quyết liệt các đợt tiến công của quân Trung Quốc. Ta đã bẻ gẫy nhiều mũi tiến công, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý đồ đánh nhanh, chiếm nhanh, buộc quân Trung Quốc phải đưa lực lượng dự bị chiến lược vào hỗ trợ, cứu nguy cho lực lượng bị bao vây, cô lập ở Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai. Tuy nhiên, với ưu thế về vũ khí trang bị và thế quân đông, quân Trung Quốc đã tiến sâu vào nội địa ta trên một số hướng như Cao Bằng (khoảng 40-50km), Lạng Sơn, Lào Cai (khoảng 10-15km) và lần lượt chiếm các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Cam Đường, Lạng Sơn, thị trấn Phong Thổ và một số địa bàn trên vùng biên giới phía Bắc sau khi ta chủ động chuyển lực lượng về tuyến sau.
Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân và dân các tỉnh biên giới giáng trả mạnh mẽ, bị tổn thất nặng nề, đồng thời bị dư luận tiến bộ trên thế giới và trong nước lên án mạnh mẽ, ngày 05/3/1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân trên tất cả các hướng. Với truyền thống nhân nghĩa, bao dung và mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ ta chỉ thị cho  lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh về nước. Từ ngày 06/3/1979, phí Trung Quốc vừa rút quân, vừa đánh phá, gây nhiều thiệt hại về người và của đối với đồng bào ta ở một số vùng giáp biên giới. Đến ngày 18/3/1979, về cơ bản Trung Quốc đã rút quân khỏi nước ta. Mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế, từ sau ngày 18/3/1979, phía Trung Quốc vẫn chiếm đóng trái phép một số điểm cao thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (nay là Hà Giang), có nơi sâu từ 200 đến 500 mét, thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình luôn căng thẳng và kéo dài đến năm 1989.
Chúng ta với tư cách một quốc gia độc lập có chủ quyền lãnh thổ, trước hành động xâm lược của Trung Quốc, chúng ta có quyền cầm vũ khí để tự vệ, bảo vệ lãnh thổ của mình. Đấy là cuộc chiến tranh chống xâm lược, không thể nhập nhèm như cách Trung Quốc nói là “hành động phản công tự vệ”, càng không thể chấp nhận khi họ nói phải “dạy Việt Nam một bài học”. Cho đến bây giờ, dư luận đang rất đồng tình với những việc chúng ta đã làm.
Để bảo vệ hòa bình thì không cách nào khác là phải giáo dục cho các thế hệ nhận thức đúng đắn về lịch sử, trong đó có 3 cuộc chiến năm 1974, 1979-1989 và 1988. Chúng ta gác lại quá khứ, hướng tới tương lai nhưng không được phép lãng quên lịch sử. Chúng ta hãy đánh giá phải - trái, đúng - sai, bạn - thù, phải tuân thủ luật pháp quốc tế trên cơ sở những ứng xử nhân văn của con người với con người trong cộng đồng, là việc làm có ý nghĩa, sẽ có tác dụng tích cực nhằm củng cố hơn nữa mối quan hệ của các nước, đặc biệt gây dựng được lòng tin đã từng mất đi bởi cuộc xung đột vô lý, phi nghĩa đó. Còn nếu ai đó muốn cố tình lái lệch đi bản chất của nó để che đậy những âm mưu, toan tính không lành mạnh, đặc biệt những tham vọng chính trị hoặc cố tình hiểu sai, nó sẽ chỉ làm cho lòng dân yêu nước, cũng như dư luận tiến bộ thế giới càng mất đi niềm tin. Chính điều đó tạo nên sự mâu thuẫn, sự hiểu lầm lẫn nhau./.

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2019

Để có cách nhìn đúng về cuộc chiến đấu trên biên giới phía Bắc -1979


Định vị cuộc chiến để bắc cầu hữu nghị

Dưới góc nhìn của một nhà khoa học, GS Vũ Minh Giang (Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) nhấn mạnh, với Việt Nam, lịch sử không chỉ có xây dựng đất nước mà luôn luôn sẵn sàng cầm vũ khí chống ngoại xâm để gìn giữ độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, điều đó ngấm vào máu của Việt Nam, là một phần sức mạnh, thậm chí nó thành văn hóa Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước được coi là giá trị tinh thần vô cùng quý giá của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh của Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước đó được đẩy lên mức cao nhất khi thế lực khác đụng đến giá trị thiêng liêng nhất là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc chiến 1979 thể hiện tập trung cao độ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước.
Theo GS Vũ Minh Giang, việc nhìn lại và định vị tính chất cuộc chiến không phải để khắc sâu hận thù, khuếch rộng hay kích động tâm lý bài Trung Quốc mà như một cách để nhắc nhở trong quan hệ hai nước có vết hằn, hố ngăn cách cần bắc cầu hữu nghị vượt qua, để tương lai không tái diễn.
Việc đưa ra những nhận định đúng đắn về cuộc chiến đấu chính là sự tiếp nối truyền thống, hun đúc khí chất của người Việt Nam, dung dưỡng sức mạnh nội lực của người Việt Nam, cùng với xây dựng đất nước hùng cường, quân đội mạnh để bảo vệ đất nước.
Đánh giá đúng cuộc chiến đấu và giảng dạy, tuyên truyền theo hướng tích cực để có bài học lịch sử. Các hình thức giáo dục thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình của Việt Nam, dập tắt muôn đời chiến tranh nhưng sẵn sàng đứng lên cầm vũ khí khi quân xâm lược kéo đến.
Trong tình hình hiện nay, Văn bản Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh coi lợi ích của quốc gia, dân tộc là tối thượng. Ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đó thể hiện ở nhiều lĩnh vực, song tập trung nhất vẫn chính là an ninh - quốc phòng, do đó, mỗi người lính phải luôn gắn bó máu thịt với dân.
“Chữ “Quân đội Nhân dân” mà Bác Hồ đặt cho không phải là danh từ đẹp đâu mà là bản chất của quân đội ta nên hai chữ “Nhân dân” phải khắc ghi. Như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói: Trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức thì đạo quân xâm lược hùng mạnh đến đâu cũng đều thất bại” – GS Vũ Minh Giang nhấn mạnh./.

Gạc Ma 1988: Trường Sa, bài học lịch sử bằng máu


         Ngày 14/3/1988 là một ngày đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Đó là ngày Trung Quốc xua quân tấn công các chiến sĩ công binh của Việt Nam tại khu vực Trường Sa. Máu đã loang trên mặt biển Đông. 64 chiến sĩ của chúng ta đã mãi mãi không trở về.
          Nhiều bài viết gọi đây là cuộc “hải chiến Trường Sa”. Cách gọi này hoàn toàn không đúng với bản chất của sự kiện. Bởi vì, bên Trung Quốc đã dùng hải quân trang bị vũ khí tấn công, gồm cả pháo tầm xa, còn bên ta chỉ là các chiến sĩ công binh với vũ khí bộ binh phòng vệ. Bản chất của nó phải được gọi đúng tên là một cuộc thảm sát những người lính công binh Việt Nam do lực lượng hải quân Trung Quốc gây ra.
          Trung Quốc còn tàn độc hơn khi không cho phép các tàu của lực lượng chữ thập đỏ ra cứu các nạn nhân, cho dù đây luôn là thông lệ quốc tế trong chiến tranh.
          Sự kiện đã diễn ra hơn 30 năm, niềm đau thương, mất mát tưởng chừng như lắng dịu. Tuy vậy, những bài học kinh nghiệm luôn cần được đặt ra, để làm sao cho bánh xe lịch sử không lặp lại lần nữa. 
          Cho đến năm 1987, Trung Quốc chưa hề có mặt trên bất cứ cấu trúc nào tại Trường Sa, và họ nhận thấy đây là một bất lợi. Vì thế, từ đầu năm 1988, Trung Quốc đã ráo riết cho quân lên chiếm một số cấu trúc địa lý thuộc Trường Sa, bao gồm: Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven.
          Về phía Việt Nam, mặc dù tiềm lực còn hạn chế về mọi mặt nhưng chúng ta cũng quyết tâm cho các lực lượng công binh ra xây dựng một số cấu trúc tại Trường Sa, nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền.
          Thời điểm năm 1988, Việt Nam rơi vào “thế” vô cùng hiểm nghèo. Chật vật qua hai cuộc chiến tranh với hai đối thủ “hạng nặng” Pháp và Mỹ, Việt Nam vừa giành được thống nhất đất nước, vết thương chiến tranh chưa kịp lành, kinh tế chưa hồi phục thì ngay sau đó, quân Khmer đỏ tấn công biên giới Tây Nam. Khi Việt Nam đang phải truy đuổi quân Khmer đỏ thì Trung Quốc dàn quân tấn công Việt Nam trên 6 tỉnh biên giới phía Bắc.
          Kinh tế đất nước chật vật, chạy ăn từng bữa, chiến tranh liên miên, đã khiến Việt Nam rơi vào thế khó. Thời điểm đó, trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam gần như bị cô lập hoàn toàn. Mỹ vẫn đang cấm vận Việt Nam, Trung Quốc tấn công biên giới năm 1979 và liên tiếp những năm sau đó là thời điểm căng thẳng tột độ giữa hai nước.
          Sau sự kiện Campuchia, ASEAN quay lưng ghẻ lạnh với Việt Nam. Chỗ dựa duy nhất của Việt Nam là Liên Xô và khối Đông Âu thì lúc này đang trong cơn rệu rã (năm 1989 bức tường Berlin sụp đổ và năm 1991, Liên Xô tan rã).
          Khi Việt Nam rơi vào thế cùng chính là thời cơ của Trung Quốc. Dư luận quốc tế thì đang chú ý đến sự kiện Campuchia, tiềm lực Việt Nam thì kiệt quệ, đây chính là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc ra tay chiếm Trường Sa mà không bị sự phản đối nào đáng kể.
          Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam ngày 14/3/1988, dư luận quốc tế thờ ơ, các nước ASEAN bàng quan cho rằng đây là chuyện riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, kể cả Malaysia và Philippines là những quốc gia trực tiếp có lợi ích tại Trường Sa.
          Bài học lịch sử qua sự kiện Gạc Ma là khi thế và lực của Việt Nam suy kiệt, thì đó sẽ là “thời” của Trung Quốc, họ sẽ thẳng tay tấn công, xâm lấn, thâu tóm lãnh thổ. Trong bất kỳ bối cảnh nào, chính sách đối ngoại luôn hết sức quan trọng, nhất là đối với những nước nhỏ như Việt Nam. Nếu dư luận quốc tế lên tiếng thì Trung Quốc cũng khó mà trơ tráo và hung hăng đến thế. Thêm nữa, đừng mong chờ có “cao nhân” nào cứu giúp, tham chiến, khi chiến tranh xảy ra.
Trường Sa hôm nay
          Sau khi chiếm được Gạc Ma sau cuộc thảm sát ngày 14/3/1988, năm 1995 Trung Quốc chiếm thêm bãi Vành Khăn từ tay Phillipines. Họ đã có tổng cộng bảy cấu trúc: Gạc Ma, Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven, Xu Bi và Vành Khăn.
          Kể từ năm 2014 đến nay, lợi dụng thế giới đang tập trung vào sự kiện giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981, Trung Quốc đã âm thầm tiến hành bồi lấp các cấu trúc tại Trường Sa. Đến nay, tất cả các cấu trúc này đều đã được xây dựng và trang bị các phương tiện quân sự hiện đại, đóng vai trò như các “chiến hạm nổi” tại khu vực biển này.
          Cho đến nay, thực tế là không có một quốc gia nào có thể ngăn cản được việc Trung Quốc bồi lấp các cấu trúc tại Biển Đông, trong đó có Trường Sa. Và cùng với việc bồi lấp này, Trung Quốc đã biến các cấu trúc này thành các căn cứ quân sự quan trọng để nắm quyền chi phối, kiểm soát khu vực Biển Đông bằng sức mạnh vũ lực. 
          Bên kia Thái Bình Dương, đối thủ mạnh nhất và đáng gờm nhất của Trung Quốc là Hoa Kỳ. Việc nước này có một tổng thống đầy tai tiếng và điều hành đất nước theo cách “không giống ai” đã khiến cho Trung Quốc thay vì bị ngăn cản, lại trở nên ngày càng mạnh hơn cả về “thế và lực”.
          Một vấn đề cần đặt ra là liệu trong tương lai gần, trước việc Trung Quốc càng ngày càng mạnh và “nhe nanh múa vuốt” như vậy, có thể lặp lại việc tấn công Trường Sa tại các cấu trúc mà Việt Nam đang kiểm soát?
          Bối cảnh thế giới hiện nay cho thấy, Trung Quốc đang gặp thời. Dù không ưa Trung Quốc đi chăng nữa, cũng phải thừa nhận rằng, ảnh hưởng và thế lực của Trung Quốc càng ngày càng mạnh lên, trong khi ảnh hưởng của Hoa Kỳ - đối thủ duy nhất có đủ sức mạnh kiềm chế Trung Quốc dường như càng ngày càng đi xuống.
          Tuy nhiên dù Trung Quốc đang có thời nhưng Việt Nam không rơi vào thế cùng như trước nữa. Về đối ngoại, Việt Nam đã thể hiện chính sách uyển chuyển. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược cùng lúc với Trung Quốc và nhiều cường quốc trên thế giới. Quan hệ quân sự giữa Việt Nam và nhiều cường quốc đã liên tục phát triển. Tàu chiến Ấn Độ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… nhiều lần ghé thăm Việt Nam. Mới đây, hàng không mẫu hạm Carl Vinson của Hoa Kỳ ghé thăm cảng Đà Nẵng. Điều đó cho thấy quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới đang phát triển đáng kể, kể cả với các cựu thù như Hoa Kỳ.
          Thế của Việt Nam đã thay đổi, lực của Việt Nam cũng thay đổi theo. Dù cho tiềm lực quân sự của Việt Nam không thể so sánh với Trung Quốc nhưng cũng không phải là không có khả năng bảo vệ và gây thiệt hại cho đối phương nếu bị đối phương gây hấn, tấn công. Việt Nam đã và đang đa dạng hóa nguồn vũ khí của mình, từ tên lửa của Nga, Ấn Độ cho đến tàu chiến của Nga, Pháp… Việt Nam cũng đang cân nhắc việc mua các vũ khí hiện đại từ Hoa Kỳ để tăng cường sức mạnh phòng vệ trên biển.
          Dù hòa bình, hợp tác là xu thế của thế giới hiện nay, thế nhưng nguy cơ về xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực Trường Sa vẫn luôn hiện hữu. Nếu không cảnh giác, tỉnh táo và chủ động, Việt Nam có thể sẽ bị cuốn vào một cuộc xung đột như vậy trong tương lai.
          Vì vậy, để tránh lặp lại sự kiện Gạc Ma, một mặt Việt Nam cần tiếp tục phát triển chính sách đối ngoại đa phương, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế, để tạo thế đứng trên trường quốc tế. Mặt khác, Việt Nam cần tăng cường sức mạnh nội lực về kinh tế, quốc phòng. Mặc dù, chính sách quốc phòng của Việt Nam tập trung vào bảo vệ đất nước, nhưng nếu Việt Nam có sức mạnh quốc phòng đáng kể sẽ khiến đối phương phải cân nhắc khi tấn công vũ trang, tạo sức mạnh răn đe.
          Trong sức mạnh quốc phòng ấy, thế trận lòng dân luôn là một phần quan trọng, có tính chất quyết định trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hiện tại cũng như lâu dài.

TRÒ HỀ TƯỞNG NIỆM GẠC MA CỦA CLB LÊ HIẾU ĐẰNG

Gần sát ngày 14/3 nhiều "rận chủ" lại rục rịch ÂM MƯU chuẩn bị cờ (mẽo), hoa cùng khẩu hiệu tự chế kéo đến các trung tâm công cộng để hòng lôi kéo tập dượt các hoạt động chống phá chính quyền. Nhìn vào hoạt động năm nay có CLB Lê Hiếu Đằng đã tung lên mạng kêu gọi nhiều người tham gia. Có thể thấy rằng việc làm này đang cố tình cổ súy cho những hành vi gây mất ANTT.
Nếu là công dân Việt Nam chân chính thì nên thể hiện tình cảm đối với lịch sử, đối với những người ngã xuống trước đây vì đất nước với thái độ nghiêm túc, cầu thị nhất có thể. Nếu chỉ vì thái độ nhất thời hoặc chỉ vì muốn lấy le cho những kẻ bên ngoài thì chúng ta đang đi vào lối mòn bị lợi dụng cho những mục đích chính trị của kẻ khác.
Vì vậy nhìn nhận tư duy của những người có cái đầu lạnh và trái tim nóng, vì quê hương đất nước chúng ta không nên nghe những lời kích động xuyên tạc về lịch sử trước đây để rồi chính chúng ta vẽ nên những vết ô nhục hiện tại và tương lai.


Thứ Ba, 12 tháng 3, 2019

Cảnh giác với thủ đoạn khai thác không gian mạng xuyên tạc, gây rối


Với sự phát triển mạnh mẽ, phong phú tài nguyên của không gian mạng. Không gian mạng đã trở thành môi trường thúc đẩy sự phát triển của xã hội cũng như nâng cao chất lượng văn hóa tinh thần, kết nối cộng đồng. Thế giới trở lên phẳng hơn do khả năng phát triển và mở rộng của không gian mạng, đặc biệt là mạng Internet.
Tuy nhiên, từ những đặc điểm cộng đồng của không gian mạng, những thế lực chống đối Đảng, Nhà nước cũng như các loại tội phạm đã lợi dụng để tiến hành các nội dung phạm pháp của mình. Lợi dụng các sự kiện nóng của xã hội, thu hút sự theo dõi của dư luận nhằm lôi kéo định hướng dư luận gây mất ổn định, trật tự an toàn xã hội cũng như các vấn đề về an ninh, quốc phòng. Hèn hạ hơn nữa chúng còn giả mạo các quan chức nhà nước, các cơ quan công quyền để tạo sự tin cậy trong quần chúng nhân dân.
        Ví dụ như, vừa qua, khi dự thảo tiêu chuẩn quốc gia về quy phạm thực hành sản xuất nước mắm do Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT) chủ trì biên soạn được công bố đã gây ra những thông tin trái chiều trong dư luận.
Ngay lập tức, trên mạng xã hội Facebook xuất hiện trang fanpage giả mạo có tên “Ban Tuyên giáo Trung ương” liên tiếp đưa nhiều bài có thông tin thất thiệt, lèo lái dư luận một cách có chủ đích.
Từ hôm qua 11/3 đã xuất hiện loạt email lừa đảo dạng Phishing gửi cho rất nhiều người. Kịch bản là giả lời lẽ của Cảnh sát để đe dọa người nhận và yêu cầu click vào Link khai báo nhúng trong email hoặc form đính kèm.  Khi click vào link hoặc mở file, mã độc sẽ được tải về máy của các bạn để chiếm quyền điều khiển, đánh cắp thông tin hoặc đơn giản hơn là tự tay bạn khai báo thông tin cho chúng. Máy của bạn cũng có thể bị chuyển tới 1 trang có chứa mã độc hoặc lừa đảo khác.

Phishing là hình thức lừa đảo phổ biến, dùng kịch bản tâm lý công phu để đánh cắp thông tin (mật khẩu, số thẻ, tài khoản...) hoặc là bàn đạp cho các tấn công tinh vi hơn sau đó. Bối cảnh dàn dựng thường là dồn ép để bắt người nhận phải thực hiện ngay yêu cầu. Để tạo lòng tin, Phishing email hay dùng tên, website.. của các tổ chức có uy tín mà chúng mạo danh (trong mail này dùng website Bộ Công An và Quốc huy).
Hình ảnh lợi dụng quốc huy để tạo email lừa đảo




Hình ảnh giả mạo website của Ban tuyên giáo trung ương

Để cảnh giác với các thủ đoạn lợi dụng uy tín của quan chức và các cơ quan công quyền, chúng ta cần hết sức lưu ý một số điểm như:
-  Kiểm tra xem các trang web, page đó được tạo ra từ khi nào, đã có những phản hồi report gì chưa. Nếu đóng cửa không cho phản hồi thì khả năng giả mạo là rất lớn.
-  Tuyệt đối không click vào các link lạ, vào các trang cung cấp những hình ảnh, âm thanh thu hút sự tò mò vào các sự kiện nóng của xã hội.
-  Không nhập mật khẩu, tài khoản ngân hàng cùng các thông tin cá nhân, cơ quan cho các trang web lạ, không rõ nguồn gốc.
-  Nâng cao ý thức bảo vệ mình, bảo vệ cơ quan, đơn vị, tổ chức trước các thủ đoạn thu lượm, đánh cắp thông tin từ các trang mạng xã hội, mạng giải trí.

Thực hiện đầy đủ các biện pháp cơ bản nêu trên sẽ đập tan được âm mưu, thủ đoạn lợi dụng mạng xã hội, lợi dụng niềm tin của quần chúng vào các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và các cơ quan công quyền…góp phần xây dựng không gian mạng quốc gia một cách lành mạnh, có giá trị với đời sống xã hội.




LƯƠNG CỦA LÍNH GIÁ VÔ CÙNG ĐẮT ĐỎ


                             Nhiều người nói lương của lính rất cao
                             Khi về hưu biết bao người mơ ước
                             Chục triệu đồng dân thường đâu có được
                             Cảm ơn mọi người đã so sánh thiệt hơn.

          Khiến người lính chạnh se sắt nỗi buồn
          Trong chiến tranh, ôi tính gì lương bổng
          Cháy bỏng trong tim tình yêu khát vọng
          Chiến đấu quên mình giữ Tổ quốc yêu thương.

                             Ước mơ nhỏ nhoi về với đời thường
                             Dù thương tật với thân hình tàn phế
                             Hạnh phúc tột cùng được trở về bên mẹ
                             Cùng người thân mòn mỏi tháng năm chờ.

          Bao đồng đội vĩnh viễn gửi ước mơ
          Khát vọng tương lai tươi hồng ánh lửa
          Phút tử ly nắm bàn tay chặt nữa
          Lệ tuôn trào, vĩnh biệt nhé mình đi!

                             Người ở lại tai văng vẳng thì thầm
                             Tiếng vọng về từ cõi sâu tâm tưởng
                             Tình đồng đội là đỉnh cao muôn trượng
                             Sống vì nhau và chết cũng vì nhau.

          Sự linh thiêng như một phép nhiệm màu
          Thử hỏi rằng: lương bao nhiêu để đổi giành mạng sống?
          Thịt xương họ hóa cờ sao gió lộng
          Phần phật tung bay giữ cột mốc chủ quyền.

                             Các bạn ơi! Những người lính can trường
                             Bước chân đi từ Binh nhì, Binh nhất
                             Thành sĩ quan, đời gian nan nếm mật
                             Trong khốc liệt của khói lửa chiến tranh.

          Lính thời bình không thiếu sự hy sinh
          Tình cảm gia đình vợ con đau ốm
          Dù biết vậy lòng lửa sôi sóng cuộn
          Vẫn vững tâm nơi bão tố nghìn trùng.

                             Khi về hưu lương tới chục triệu đồng
                             Nhưng cái giá thì vô cùng đắt đỏ
                             Có người lính con thiếu cha dạy dỗ
                             Khi lớn lên nhiễm cái xấu đau lòng

          Có người lính vợ thiếu vắng tình chồng
          Không thủy chung đã thay lòng đổi dạ
          Có người lính thương tật đầy nghiệt ngã
          Sớm ra đi chấm dứt một phận người

                             Lương bao nhiêu trả cho đủ bạn ơi
                             Họ đi lính vì tình yêu Tổ quốc
                             Kẻ yếu hèn một tâm hồn bạc nhược
                             Đất nước này có hoa nở mùa xuân?
                                                                            St