Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

Nhìn nhận tác động phán quyết Biển Đông sau bốn năm

Ngày 12/7/2016, Tòa trọng tài quốc tế thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) đã ra phán quyết cho vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Tòa kết luận rằng các quyền và nghĩa vụ của các thành viên UNCLOS (trong vụ này là Philippines và Trung Quốc) đều được điều chỉnh bằng Công ước và vì vậy mọi yêu sách biển không phù hợp với Công ước đều bị bác bỏ, trong đó yêu sách biển của Trung Quốc dựa trên đường 9 đoạn hoàn toàn bị bác bỏ.

Sau phán quyết trên, Trung Quốc đã thực hiện chính sách 3 không (không chấp nhận thẩm quyền của Tòa, không công nhận phán quyết và không thi hành phán quyết), áp dụng mọi biện pháp để giảm thiểu ảnh hưởng của phán quyết: Từ đe dọa, vận động các nước không ra tuyên bố ủng hộ tới mở cuộc chiến pháp lý bác bỏ các luận điểm của phán quyết qua các tuyên bố ngoại giao và nghiên cứu hơn 500 trang của Hội luật quốc tế Trung Quốc. Quan chức ngoại giao Trung Quốc còn gọi phán quyết là tờ giấy - “just a piece of paper” được vứt vào thùng rác của lịch sử. Đồng thời, Bắc Kinh sử dụng chiến lược cây gậy và củ cà rốt trong quan hệ với các nước trong khu vực, song song thực hiện sáng kiến Một vành đai Một con đường và các công cụ kinh tế là các hành động đe nẹt, cưỡng chế.

Từ thời điểm phán quyết có hiệu lực đến nay, Trung Quốc đã có nhiều hoạt động ngang ngược, gây bất ổn tình hình trên khu vực Biển Đông. Điển hình là vụ ngăn cản hoạt động dầu khí của Việt Nam tại lô 136/03 khu vực Tư Chính tháng 7/2017 và vụ bao vây cắt đường tiếp tế cho quân đồn trú trên đảo Thị Tứ đang do Philippines kiểm soát tháng 8/2017. Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng cường các hoạt động trên đảo nhân tạo xây dựng trái phép, tiếp tục áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá, và các hoạt động khác nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng của Biển Đông. Năm 2019, tàu Trung Quốc bỏ mặc 22 ngư dân Philippines bị đâm chìm trên biển, tàu Hải dương địa chất 8 xâm nhập vào lô 06.01 gây áp lực với Việt Nam. Năm 2020, Trung Quốc còn sử dụng thường xuyên sức mạnh áp chế, với tần suất cao hơn và phạm vi bao trùm toàn bộ các vùng biển trong phạm vi đường 9 đoạn. Tàu cá Việt Nam bị đâm chìm, tàu Philippines bị tàu Trung Quốc khóa mục tiêu, Indonesia phát hiện tàu Trung Quốc quanh biển Natura, West Capella bị quấy nhiễu trong vùng thềm lục địa Malaysia. Một số tập đoàn nước ngoài ngừng hợp đồng thăm dò, thẩm lượng dầu khí do có bóng dáng của sự đe nẹt từ Trung Quốc. Cao điểm là việc Trung Quốc ngang ngược tuyên bố thiết lập 2 quận hành chính Nam Sa và Tây Sa trong tháng 4/2020. Đó là chưa kể hoạt động đặt tên các thực thể chìm trên thềm lục địa Việt Nam, lập các trạm nghiên cứu khoa học trên các đảo nhân tạo, đưa chiến đấu cơ ra Trường Sa, Hoàng Sa, tăng tập trận tại Biển Đông, duy trì cấm đánh bắt cá và tuyên bố cấm các hoạt động đáy biển theo chiến dịch Biển Xanh (Blue Sea Code) khởi động tháng 4/2020. 

Phản ứng của Trung Quốc có thể nói là rất “cùn” khi bất chấp luật pháp quốc tế. Mặc dù vậy, các phán quyết của Tòa án và trọng tài quốc tế đã có tác động rất lớn đến nhận thức và hành xử của các nước có quyền lợi trực tiếp liên quan đến Biển Đông, làm sáng tỏ những câu hỏi đặc thù và vì vậy có một sức thuyết phục pháp lý đáng kể. Phán quyết là chất xúc tác cho Malaysia đệ trình thềm lục địa mở rộng về phía Bắc tháng 12/2019 khi các thực thể ở Trường Sa được cho là không có thềm lục địa riêng để chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng này. Hành động của Malaysia là dịp để các nước làm sáng tỏ lập trường của mình về Biển Đông sau phán quyết. Công hàm Philippines gửi Trung Quốc ngày 6/3/2020 lần đầu tiên khẳng định các kết luận của phán quyết tại diễn đàn Liên hợp quốc. Công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam khẳng định UNCLOS là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Indonesia, gửi 2 công hàm ngày 26/5/2020 và 12/6/2020, ủng hộ phán quyết trọng tài Biển Đông năm 2016 rằng không một thực thể biển nào trong quần đảo Trường Sa được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và bản đồ đường 9 đoạn rõ ràng thiếu cơ sở luật quốc tế, hoàn toàn ngược lại với Công ước Luật biển 1982. Mỹ cũng tham gia vào cuộc chiến này với công thư ngày 1/6/2020 và tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo ngày 14/7/2020 về chính sách của Mỹ ở Biển Đông với lập trường nhất quán, trung lập trong vấn đề chủ quyền nhưng lên án mọi yêu sách biển phi pháp, không phù hợp với luật biển quốc tế. Tiếp theo là một loạt sự ủng hộ từ các nước khác như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, EU... đều đòi hỏi thực thi phán quyết để bảo đảm quyền tự do biển cả. Hội nghị cấp cao ASEAN36 ngày 26/6/2020 khẳng định UNCLOS là cơ sở để xác định các danh nghĩa biển, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp trên các vùng biển và UNCLOS xác định khung pháp lý cho việc tiến hành tất cả các hoạt động đại dương và biển.

Những gì thực tế lịch sử 4 năm qua sau phán quyết Biển Đông cho thấy sự ủng hộ ngày càng nhiều của cộng đồng quốc tế theo đúng chuẩn mực luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982, và có thể thấy rõ, Trung Quốc đang rất đơn độc với lập luận quyền lịch sử và đòi hỏi các thực thể đi ngược lại các quy định của luật quốc tế, bao gồm UNCLOS.

Không chỉ chính phủ mà người dân trên khắp thế giới, nhất là người dân Trung Quốc cần được biết đến phán quyết,  đến các kết luận “không thể đàm phán” của phán quyết. Mọi mưu toan đặt luật lệ riêng đứng trên các quy định của UNCLOS đều không thể chống lại bánh xe của lịch sử. 

Đặc biệt, phán quyết Biển Đông ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài quốc tế là điểm tựa cho các nước ASEAN cùng nhau đoàn kết, tích cực đấu tranh vì một trật tự dựa trên luật pháp với vai trò trung tâm của ASEAN nhằm đạt mục tiêu hòa bình, ổn định và năng động trong khu vực.

(Nguồn tham khảo: Tổng hợp từ các bài viết của Đại sứ Nguyễn Hồng Thao Phó Chủ tịch thứ 2 Ủy ban luật pháp quốc tế Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2017-2021 đăng trên báo điện tử https://vietnamnet.vn).

Ấn tượng mạnh với thông điệp của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gửi tới Đại hội đồng LHQ

 

Ấn tượng mạnh với thông điệp của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gửi tới Đại hội đồng LHQ

 

Ngày 24/9/2020, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu gửi tới Hội nghị thảo luận chung cấp cao khóa 75 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc diễn ra từ ngày 22 tới 29-9 tại trụ sở LHQ ở New York, Mỹ. Bài phát biểu của Tổng bí thư, Chủ tịch nước là thông điệp gây ấn tượng mạnh, khẳng định rõ ràng chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam.

Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong bài phát biểu, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho rằng cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực phải được tôn trọng và phát huy, do đó, Liên Hiệp Quốc phải thực sự là tổ chức gắn kết, mà ở đó mỗi thành viên, không phân biệt lớn nhỏ hay giàu nghèo, được đóng góp tiếng nói về những vấn đề cùng quan tâm. Tổng bí thư, Chủ tịch nước cũng cho rằng Hiến chương Liên Hiệp Quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế cần phải được đề cao và thúc đẩy như những chuẩn mực hành xử của cả các nước lớn và nhỏ trong quan hệ quốc tế. Các nước cần cam kết và chung tay hành động mạnh mẽ hơn nữa để thúc đẩy phát triển bền vững, bao trùm và nhân văn, chẳng hạn đại dịch COVID-19 vừa qua gây ra nhiều xáo trộn trên toàn thế giới chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc.

Trong thông điệp gửi tới hội nghị, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chia sẻ ngay từ những ngày đầu lập nước cách đây 75 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo sáng lập LHQ bày tỏ ý nguyện của Việt Nam tham gia Liên Hiệp Quốc. "Mặc dù phải tới năm 1977, nguyện vọng đó mới thành hiện thực, song chính cuộc đấu tranh bền bỉ của Việt Nam giành và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước là những đóng góp cụ thể cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, cũng là những mục tiêu cao cả mà LHQ hướng tới", Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cảm ơn sự ủng hộ rộng rãi của các nước, bạn bè quốc tế dành cho Việt Nam.

Bài phát biểu nhận định, Việt Nam từ một nước nghèo, bị tàn phá bởi chiến tranh và chịu bao vây cấm vận, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình và đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

Trong cuộc chiến chống dịch COVID-19 hiện nay, dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực, quan trọng. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết Việt Nam đã và sẽ tiếp tục hỗ trợ, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với nhiều nước.

Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc tới vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 của Việt Nam, cho biết Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hiệp Quốc; tăng cường hợp tác giữa LHQ với các tổ chức khu vực, đặc biệt là ASEAN. Đồng thời ông khẳng định trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam cùng các nước thành viên đang hết sức nỗ lực để xây dựng một khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác. "Chúng tôi khẳng định cam kết cùng các nước trong và ngoài khu vực duy trì, thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982; tuân thủ các nguyên tắc kiềm chế, tránh các hành động đơn phương làm phức tạp tình hình, giải quyết tranh chấp và khác biệt bằng các biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý", Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.

Có thể nói, bài phát biểu của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thể hiện thông điệp ở cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước ta về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thế kỷ 21, đó là: Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm "Việt nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Việt Nam tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.

 (Nguồn tham khảo: https://tuoitre.vn/).

 

TĐC

TRĂN TRỞ CỦA TỔNG BÍ THƯ VỀ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ XIII

Để chuẩn bị cho đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, từ tháng 6/2019 đến nay, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã có ba bài viết với nhiều nội dung quan trọng về công tác nhân sự.

Trong đó, bài viết về nhân sự Uỷ viên BCH Trung ương khoá XIII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nêu rõ phải vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc. Cụ thể là phải thật sự là những nhân sự tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; bảo đảm tiêu chuẩn chung của cán bộ (8 có).

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh, kiên quyết không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài, đủ tiêu chuẩn; đồng thời không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII những người có một trong 6 khuyết điểm (6 không).

Trong đó, 8 có gồm:

Một là, có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Hai là, có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động.

Ba là, có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm.

Bốn là, có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc, bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực, kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi.

Năm là, có ý thức giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ.

Sáu là, có trí tuệ, tầm nhìn tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Bảy là, có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công, qua thực tiễn tỏ rõ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có năng lực sáng tạo, nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có sản phẩm cụ thể, rõ rệt, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công.

Tám là, có ý thức trách nhiệm và khả năng tham gia thảo luận, đóng góp các quyết định chung của Ban Chấp hành Trung ương, đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.

6 Không gồm:

1. Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm, thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh.

2. Vi phạm tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình.

3. Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị.

4. Không chịu nghiên cứu, học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút.

5. Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính.

6. Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.

Hãy cảnh giác“ma trận” xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ


Có thể nói rằng, lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền về biển, đảo để xuyên tạc sự thật, kích động dư luận và gây rối vốn là “nghề” của các thế lực thù địch muốn chống phá Việt Nam. Và như một thói xấu cố hữu, thường thì cứ mỗi khi nước ta đứng trước những sự kiện trọng đại, ngón nghề này lại được chúng tung ra để phá bĩnh, làm đảo lộn tình hình.

Trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, dư luận tiến bộ trong nước và quốc tế không khỏi bức xúc khi trên mạng xã hội xuất hiện những thông tin xuyên tạc vấn đề chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chỉ cần bớt chút thời gian suy ngẫm, đối chiếu và nhìn nhận một cách thấu đáo, có thể kết luận đây là luận điệu của các phần tử cơ hội, phản động, thường xuyên rình rập cơ hội để chống Đảng, chống Nhà nước và gây xáo trộn cuộc sống ổn định, hòa bình hiện nay của nhân dân Việt Nam. Ở đâu đó, trên các trang mạng xã hội hay các diễn đàn quy tập nhiều phần tử bất mãn, rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc tổ chức đại hội Đảng hơn vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo”; hoặc cố tình xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương đấu tranh giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thông qua những “thuyết âm mưu” nhuốm màu kích động như: Việt Nam lôi bè kéo cánh, đi với nước này, chống nước kia; và rằng, không đánh nhau thì mất biển, mất đảo, thế nước lâm nguy...

Vạch trần chân tướng và đường đi của những chiêu trò này là việc nhất thiết phải bàn, phải làm. Chúng ta tự hào khẳng định, lịch sử quá trình dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước đã chứng minh, trong mỗi người dân Việt Nam là một trái tim yêu nước. Khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia đứng trước những thách thức hoặc bị xâm phạm, lòng yêu nước được người dân thể hiện bằng cách dồn tối đa sự quan tâm, thường xuyên dõi theo những thông tin liên quan. Lợi dụng tâm lý này, các đối tượng thù địch đưa ra những thông tin sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân nhằm mục đích cuối cùng là xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và quân đội. Cùng với việc phê phán các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền Việt Nam, các đối tượng này cũng đồng thời quy chụp lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta "phản ứng chậm" hoặc "né tránh, không dám đối đầu, đang tâm để chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị đe dọa” (!). Mưu đồ cốt lõi của những luận điệu này là khiến lòng dân mất yên, dần mất niềm tin vào lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Càng nguy hiểm hơn khi nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để kích động, kêu gọi người dân “xuống đường” thể hiện lòng yêu nước, từ đó gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp tục chống phá.

Một thực tế khác cần nhìn nhận, đó là trong khi đa số người dân nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gần như “miễn nhiễm” với những luận điệu xuyên tạc, hồ đồ và cũ rích ấy, thì vẫn còn khá nhiều người "sập bẫy", trong đó chủ yếu là những người mới hoặc ít tiếp xúc với internet, mạng xã hội. Sự thiếu nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước khiến họ chưa kịp chắt lọc thông tin đúng-sai, dễ bị cuốn vào “ma trận phản động” trên internet.

Cùng với việc nhận diện âm mưu của các thế lực thù địch chống phá sự ổn định của Việt Nam thông qua chiêu bài về chủ quyền lãnh thổ, việc nắm vững chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tỉnh táo để hấp thụ đầy đủ bản chất của vấn đề là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta là kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Điều này đã được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và được chứng minh trong cách thức Việt Nam giải quyết vấn đề Biển Đông, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Hiện nay Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Kinh tế đối ngoại cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, một số khu vực, địa bàn còn tiềm ẩn sự phức tạp về an ninh-trật tự, nhất là về vấn đề lãnh thổ, biên giới, biển đảo. Hơn bao giờ hết hãy cảnh giác với những quan điểm cực đoan về vấn đề Biển Đông và khẳng định cần phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không bao giờ nhân nhượng trước những vấn đề thuộc về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam hàng năm nhấn mạnh chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ của Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: “Chúng ta mong muốn hòa bình, chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chúng ta xây dựng quốc phòng cũng vì mục đích hòa bình. Nếu một khi đất nước chúng ta bị chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì chúng ta cũng phải cầm súng vì hòa bình. Chúng ta chỉ sử dụng sức mạnh quốc phòng trong tình huống tự vệ khi đất nước bị xâm hại, trước hết là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc, sự ổn định của chế độ”.

Ngoài ra, Sách trắng Quốc phòng cũng khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam là "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế", "không tham gia liên minh quân sự", và bởi vậy, quan điểm cho rằng Việt Nam “bài nước này, thân nước kia” hay “đi theo nước này, chống nước kia”, suy cho cùng chỉ là dối trá, lừa phỉnh dư luận.

Những bài học đắt giá từ các cuộc chiến tranh trong quá khứ đã khiến nhiều nước, trong đó có cả những quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh, đang đi theo hướng lấy đối thoại, luật pháp quốc tế làm “kim chỉ nam” cho mọi hành động liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, thay vì cổ xúy cho xung đột và đối đầu. Điều đó càng chứng minh rằng quan điểm, chủ trương, đường lối, đối sách của Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và giải quyết các vấn đề liên quan là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia cũng như cuộc sống hòa bình, ổn định hiện có, là vấn đề chiến lược, việc đại sự, đòi hỏi phải có chủ trương, đường lối, đối sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả và bền vững. Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò, luận điệu kêu gào, xuyên tạc, kích động để không mắc mưu những phần tử xấu và thế lực thù địch để rồi ngập chân trong thứ “ma trận” quái gở mà chúng cố tình giăng ở khắp nơi.

 

“Bất thình lình ngã ngựa”?


Có phải những người cha mẫu mực trong gia đình, người cán bộ có “uy” trong cơ quan, đơn vị có quá trình vi phạm kỷ luật tinh vi chưa lộ ra, mắc sai lầm và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật là cú bất thình lình ngã ngựa!

Tâm tư cuối phiên xét xử nói: “Trong suốt quá trình công tác, tôi chưa bao giờ bị kỷ luật, nhưng đến cuối đời tôi lại vướng vào vòng lao lý. Đây là cú sốc tâm lý hết sức nặng nề, là trải nghiệm vô cùng cay đắng, nghiệt ngã” hay “Sau nhiều năm công tác, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại phải có ngày, có kết cay đắng như hôm nay, phải đứng trước tòa nói lời sau cùng tại phiên tòa với bản án sẽ dành cho sắp tới” hoặc “Tôi chưa được học kinh tế”….

Đứng ở góc độ con người, “cú sốc” này là dễ hiểu. Có lẽ, rất nhiều, rất nhiều quan chức từ cấp đia phương đến trung ương cũng có cảm xúc tương tự khi “bất thình lình ngã ngựa”. Càng là người “đức cao vọng trọng”, càng là người có chức tước và vai vế, có tiếng nói trong cơ quan, tổ chức… thì lại càng dễ sốc. Trước khi bị khởi tố, bị tuyên án trước toà, bọn họ hầu hết đều là người cha mẫu mực trong gia đình, người cán bộ có “uy” trong cơ quan, đơn vị và xã hội. Họ hẳn rằng cũng đã nói và chỉ đạo “làm điều hay lẽ phải”, từng được coi là “tấm gương sáng” để cấp dưới noi theo.

Hình ảnh ông Nguyễn Thành Tài, ông Đinh La Thăng, ông Trương Minh Tuấn và nhiều cựu lãnh đạo cấp cao khác, phải trả giá vì những sai lầm khác nhau mà phải chua chát giãi bày: “Sau 35 năm công tác, trải qua nhiều cương vị khác nhau, bị cáo luôn cố gắng phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao… Hôm nay, bị cáo không bao giờ nghĩ mình phải đứng trước phiên tòa để nói lời sau cùng như thế này. Đây thực sự là sự đau xót và bất hạnh đối với bị cáo và gia đình.” và mong mỏi xin được ăn cái Tết cuối cùng với gia đình, bạn bè, người thân rồi sau đó sẽ chấp hành án phạt tù mà chưa biết bao giờ mới được ra.

Đó quả thực là những “trải nghiệm vô cùng cay đắng, nghiệt ngã” mà họ - những cựu quan chức cấp cao, đều “không bao giờ”, “chưa bao giờ”… nghĩ đến.

Cú rơi thẳng đứng từ đỉnh cao quyền lực xuống vực sâu, hỏi sao không “đau”, không “chua xót”, bẽ bàng…?! Những “lời nói sau cùng” của các bị cáo tại toà sở dĩ thường khiến người ta chú ý là bởi ở vào thời điểm đó, họ (thông thường) sẽ bộc lộ những tâm tư, cảm xúc sâu kín, nói ra những lời gan ruột của bản thân, giãi bày không chỉ với toà mà với người thân, gia đình, đồng nghiệp… Ở vào thời điểm đó, họ thể hiện rất rõ con người họ. Đáng tiếc là, ngay cả khi đã bị truy tố, nghe Viện Kiểm sát luận tội… nhiều vị vẫn “ngây thơ” không biết rằng mình đã làm sai, đã vi phạm pháp luật. Không biết có bao nhiêu phần trăm chân thật trong lời “thú nhận”, nhưng dù là gì thì cũng đều gây thất vọng. Là những người đứng đầu một địa phương, một ngành mà không nắm được, không hiểu biết về pháp luật của lĩnh vực mình phụ trách… vậy có xứng đáng với niềm tin của người dân hay không?

Hoá ra (công tác nhân sự) những người giới thiệu các vị ấy đã nhầm? Hay bản thân các bị cáo cũng tự nhầm lẫn về năng lực của bản thân? Vai trò của cơ quan tham mưu ở đâu? Hay cấp trên nói, cấp dưới cũng chỉ “dạ, thưa” và “tuân thủ, làm theo chỉ đạo”? “Công thì phải thưởng, tội thì phải xử lý” các vị này khi con đương chức nói rất chính xác.

Đã bước sai thì không thể quay lại và phải đối diện với thực tế, dù trong số họ có những người đã cống hiến lớn, nhưng với sai phạm mà họ gây ra, đất nước tổn thất hàng nghìn tỷ đồng, con số thất thoát không biết bao giờ mới thu hồi đủ, những hệ lụy của nó gây ra vô cùng lớn. Những bản án được tuyên, mỗi người đều phải trả giá cho sai lầm của họ. Chỉ có điều, từ những bản án đó, từ những lời sau cuối, hối lỗi muộn mằn đó… liệu có khiến những người “chưa lộ” thấy sợ mà chùn tay, những người “thiếu hiểu biết” kịp bổ túc kiến thức hay không?

 

Một thị trường “ngầm” rất nguy hiểm


Vụ việc Công an TP Hải Phòng vừa phá đường dây mua bán trái phép hoá đơn GTGT do Ngô Văn Phát cầm đầu cho thấy “mảng tối” của kinh tế đằng sau sự hào nhoáng của những người mang mác “đại gia”, “doanh nhân lớn” không chỉ gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước, bóp méo môi trường kinh doanh, mua bán hoá đơn trái phép còn được cho là để hợp thức hoá tiền bôi trơn, hối lộ và để rửa tiền…

Nếu như trước đây công chúng trầm trồ, ngưỡng mộ những tòa biệt thự nguy nga tựa lâu đài của đại gia này bao nhiêu thì khi vỡ lở việc buôn bán hoá đơn, người ta lại ngán ngẩm bấy nhiêu, chép miệng: “Tưởng thế nào!”.

Vụ việc lần này chúng ta không phải bình luận về một trường hợp đại gia “ngã ngựa”, hay vị đại gia “khét tiếng” trong lĩnh vực nào đó sa lưới pháp luật có thể sẽ khiến dư luận hiếu kỳ, mà là đằng sau câu chuyện này hé lộ một “thị trường” mua bán hoá đơn rầm rộ làm méo mó nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Nhìn lại những vụ án mua bán hoá đơn trái phép bị triệt phá ít năm trở lại đây chúng ta dễ hiểu “hấp lực” của những chiêu trò này, trong đó có cả những trường hợp… khó ngờ, và chỉ đọc con số thôi cũng đã choáng váng, “xây xẩm mặt mày”. Theo đó, số lợi mà các đối tượng thu về không hề nhỏ.

Chẳng hạn năm 2018 dư luận cũng từng xôn xao về đường dây mua bán hoá đơn hàng nghìn tỷ đồng đầy tinh vi do “Hoa hậu Doanh nhân Thế giới người Việt” Nguyễn Thị Nhung cầm đầu. Vỏ bọc “doanh nhân thành đạt” này thật khiến ta ngỡ ngàng bởi sự xảo quyệt trong “tài” kiếm tiền của họ.

Hay như trong năm 2015, một nữ doanh nhân khác là Nguyễn Thị Thảo Quyên - Tổng giám đốc Công ty Năng Lượng Xanh và Chủ tịch HĐQT Công ty Xăng dầu Năng Lượng Xanh cũng bị phát hiện đã cùng đồng phạm xuất 3.966 hoá đơn GTGT mặt hàng xăng dầu D.O và F.O cho 101 doanh nghiệp với trị giá ghi trên hoá đơn hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trên địa bàn Hải Phòng, trong thời gian ngắn trở lại đây, cơ quan công an thành phố này đã triệt phá 3 vụ mua bán trái phép hoá đơn GTGT với giá trị khoảng 8.000 tỷ đồng.

Thị trường mua bán hoá đơn trái phép nở rộ, hậu quả nhãn tiền đương nhiên là gây nên thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước nhưng nguy hiểm còn bóp méo môi trường kinh doanh, tạo nên bất công lớn các các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Phương thức mua bán hoá đơn trái phép này còn được cho là để hợp thức hoá tiền bôi trơn, hối lộ, và để rửa tiền… Thế nên, loại hình phạm tội này cần phải bị xử lý triệt để và nghiêm khắc thì mới có tác dụng răn đe cũng như phòng ngừa được các hậu hoạ khôn lường khác.

Trong bối cảnh việc đăng ký thành lập doanh nghiệp trở nên đơn giản hơn thì công tác giám sát hoạt động “hậu thành lập” càng cần phải sát sao và chặt chẽ hơn nữa, không thể vì nó mà méo mó thị trường, giảm uy tín với cộng đồng.