Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022

BỘ MẶT XẢO TRÁ CỦA LỘC PHẠM VÀ VIỆT TÂN


Mới đây, Việt Tân đăng bài của Lộc Phạm, cố tình xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta khi y xỏ mồm vào câu chuyện lùm xùm xung quanh bài hát: “Gia tài của mẹ” do Khánh Ly tự ý hát ở Đà Lạt, trong đó có câu “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Lộc Phạm, Việt Tân cho rằng: “khía cạnh mờ ám, bẩn thỉu của cuộc chiến là chiến tranh xâm lăng”. Với giọng điệu của kẻ bán nước, rắp tâm chia cắt đất nước, dâng miền Nam cho Mỹ, chúng viết: “Hiệp định đình chỉ chiến sự Genève năm 1954, các điều khoản của nó đã phân định rõ ràng rằng: Có 2 nước Việt Nam mà đường ranh giới được ấn định là vĩ tuyến 17, phần phía Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, phần phía nam là Việt Nam Quốc Gia mà một năm sau đó là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Đem quân đánh chiếm một quốc gia khác, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước luật pháp quốc tế đã thực hiện một cuộc xâm lăng”.
Những lời lẽ trên đây phun ra từ cái miệng bẩn thỉu của Lộc Phạm và Việt Tân cho thấy dã tâm bán nước đã khiến chúng trắng trợn bịa đặt, đổi trắng thay đen đến táng tận lương tâm và vô liêm sỉ. Sự thật là: Khu phi quân sự dọc theo 2 bờ sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) được lập ra ngày 21/7/1954 theo Hiệp Định Genève về Đông Dương năm 1954, với mục đích tạm thời ngăn cách lực lượng vũ trang giữa một bên là lực lượng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với bên kia là quân đội Pháp và đồng minh. Dự kiến đường giới tuyến tạm thời sẽ bị xóa bỏ sau cuộc tổng tuyển cử 2 năm sau đó. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève còn nhấn mạnh: “Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị và lãnh thổ” và “Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam”. Nhưng Mỹ rắp tâm xâm lược Việt Nam đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Genève, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm làm công cụ rồi đưa 54 vạn quân Mỹ, lôi kéo thêm gần 10 vạn quân chư hầu vào miền Nam, xây dựng đội quân ngụy tay sai tới hơn 1 triệu tên; trong khi Quân giải phóng miền Nam thời điểm 1968 chỉ có khoảng 130.000 người. 604.481 tên xâm lược từ Mỹ và các nước vào miền Nam cùng 1 triệu quân ngụy đối đầu với 130.000 Quân giải phóng miền Nam, có tới 6 triệu lượt lính Mỹ thay nhau đến xâm lược Việt Nam, Mỹ huy động 60% lục quân và lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và không quân, bao gồm cả không quân chiến lược B52, hạm đội 7 với cả tàu sân bay được huy động vào cuộc chiến, đổ xuống Việt Nam số lượng bom đạn gấp 3 lần chiến tranh thế giới thứ II, giết hại hơn 3 triệu thường dân, đến khi nhân dân miền Nam đứng lên đánh trả, cả nước hiệp lực giải phóng miền Nam làm hơn 58.000 tên Mỹ bị tiêu diệt, chúng mới chịu ký Hiệp định Pari rút quân về nước. Chương I, Điều I của Hiệp định Pari ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, không hề có điều nào nói “Có 2 nước Việt Nam” như Việt Tân bịa đặt. Cả thế giới đều biết đến địa đạo Củ Chi như thành phố ngầm hàng trăm km nhiều tầng dưới lòng đất để bám trụ đánh Mỹ ngay sát cửa ngõ Sài Gòn là do đồng bào Củ Chi tự đào, tự xây dựng đã nói lên ý chí quyết tâm giành độc lập, thống nhất đất nước của đồng bào miền Nam. Chị Võ Thị Mô, dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú từng bám địa đạo chiến đấu nhiều năm, sau hòa bình một đoàn làm phim người Mỹ đến làm phim về chị và Củ Chi. Biết hoàn cảnh chị khó khăn, một người Mỹ hỏi: “Chị cần gì, nhà, xe, phương tiện sản xuất… chúng tôi sẽ giúp đỡ”. Chị nói: “Tôi không cần gì, chỉ mong sao đồng bào tôi được sống trong hòa bình, đất nước tôi không bị ai xâm lược”. Câu trả lời khiến người Mỹ sửng sốt và càng hiểu thêm khát vọng giành độc lập, thống nhất đất nước của người dân Việt Nam ngay ở miền Nam Việt Nam.
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” – Chân lý đó không bao giờ thay đổi, cả thế giới đều biết và tôn trọng điều đó, làm sao bàn tay bẩn thỉu của Việt Tân có thể che được ánh mặt trời? Làm gì có chuyện người Việt Nam xâm lược nước Việt Nam? cũng chưa bao giờ có điều ước quốc tế nào chia cắt Việt Nam thành hai nước và cho phép quân đội nước ngoài xâm nhập VIệt Nam.
Sự xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn chỉ càng vạch trần bộ mặt xảo trá, phản nước, hại dân, suốt đời liếm gót giày quân xâm lược của Việt Tân chứ không lừa bịp được ai.
ST
Có thể là hình ảnh về hoa và văn bản cho biết 'Nhận diện sự thật'
177
18 bình luận
18 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

BINH PHÁP CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG

 

Đối với Trung Quốc, ta chỉ ngang với một tỉnh của họ, nên không thể dùng một trận mà đòi lại được biển đảo. Còn giả sử ta có phép mầu tiến hành chiến tranh thắng được Trung Quốc thì đất nước cũng nát tan (nếu có thì thằng mỹ vô cùng khoái trá vì nó lợi nhất). Dọn nhà tránh hàng xóm đã khó còn dọn nước để tránh láng giềng là điều không thể. Làm một trận đòi lại của đã mất cũng không được. Vấn đề biển đảo chỉ có thể dùng chiến lược ngoại giao mềm dẻo nhưng cương quyết để đối phó với TQ. Ta đối phó bằng chính sự cao thượng, đúng sai, phải trái để giành lấy sự ủng hộ quốc tế. Bằng ngược lại, ta đã nhỏ yếu, lại ứng xử theo kiểu trẻ con, xỏ xiên thì ta sẽ được nhận lại thái độ gì, và ta cũng sẽ làm được gì họ?
Tham vọng bành trướng bá quyền vốn là “đặc sản” của người Tàu và cũng là bản tính chung của các đế quốc. Nhưng sau bao cuộc chiến đẫm máu đã dẫn tới xu hướng của thời đại: đối thoại thay cho đối đầu, nước ta cũng đã thực hiện thành công chính sách ngoại giao đa phương. Ai cũng biết ông cha ta vừa thắng giặc phương Bắc xong vẫn sang triều cống làm hòa. Bây giờ không còn vậy nhưng vẫn phải hiểu, chiến lược ngoại giao phải phụ thuộc vào thế và lực của ta, không phải muốn sao cũng được. Sai lầm trong đối ngoại là sẽ dẫn tới thảm họa, bất kể nước nào.
Vấn đề biển đảo vẫn còn nguyên đó. Ta tốt nhất vẫn là “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Cuộc đấu tranh ngoại giao phải luôn kiên trì, không ngừng nghỉ, phải kiên quyết hỗ trợ và bảo vệ cho ngư dân bám biển. Còn không “im lặng nghĩa là đồng ý”, nước ta sẽ vĩnh viễn mất biển!
Nhưng cũng phải thực tế, làm sao đừng để lợi bất cập hại. Lực ta có hạn mà lại đòi mọi cái theo ý mình sẽ là ảo tưởng. Cơ sở để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là tranh thủ luật pháp quốc tế. Thế giới sẽ ủng hộ ta không chỉ vì ta mà còn vì lợi ích của chính họ. Không ai muốn Trung Quốc bành trướng thành siêu cường, rồi có thể tùy tiện áp đặt mọi sở thích cũng như tham vọng của họ lên toàn thế giới.
Nước ta năm 1887, vua thì bị bắt đi đầy, tên nước đã bị xóa, tức đã mất hoàn toàn vào tay Pháp, thành bộ phận của Liên bang Đông Dương. Không ai muốn một tấc đất mà hàng ngàn năm Tổ Tiên ông cha ta đã đổ máu gìn giữ được, nhưng sức ta có hạn, không phải mọi thứ đều như ý.
Năm 1956 khi Pháp buộc phải rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Geneve 1954, trong bối cảnh ta chưa củng cố và quản lý tốt các vùng biển đảo, Trung Quốc đã tranh thủ chiếm cụm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến 1974, được sự thỏa hiệp của Mỹ, Trung Quốc khiêu khích dẫn đến sự manh động nổ súng trước của quân ngụy Sài gòn, rồi lấy cớ mạnh tay đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa kể cả đảo Tri tôn xa lơ xa lắc.
Đối với Trường Sa, chúng ta là nước đầu tiên làm chủ cả một vùng biển đảo rộng lớn, nhưng chúng ta chỉ đóng giữ được ở một số đảo nổi. Không chỉ Trung Quốc, năm 1971, Philippines đã lấn chiếm 5 đảo phía Đông Trường Sa, đến 1973, họ lấn tiếp hai đảo ở phía Bắc. Với Malaysia, cho đến năm 1979, họ đã chiếm 7 đảo phía Nam Trường Sa.
Đặc biệt năm 1988, nhân cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, ta đang tập trung vào việc rút quân khỏi Campuchia, Trung Quốc đã đánh chiếm 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa bắt đầu là bãi đá ngầm Chữ thập mà nay chúng đã cải tạo thành một pháo đài. Như vậy hậu quả của các cuộc xung khắc thật tai hại, nhất là với nước lớn sát vách như TQ, họ tranh thủ cơ hội xâm lấn đất của ta, rồi dù có bình thường hóa trở lại, đòi những gì ta đã mất là rất khó, nhất là vùng hải đảo xa xôi, họ hoàn toàn có thể bịa ra căn cứ pháp lý chủ quyền như hiện tại mọi người đã thấy về "Cái lưỡi bò".
Đến hôm nay, Trung Quốc chưa gây chiến trên Biển Đông là vì phe hiếu chiến chưa nắm quyền. Đến khi đó, từ việc khoét sâu mâu thuẫn đến leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh, từ xung đột tranh chấp tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc như cuộc chiến năm 1979.
Nếu chiến tranh trên bộ thì TQ chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển, sự thiệt hại của TQ dù lớn cũng sẽ là nhỏ so với thực lực tổng thể của họ. TQ sẽ có thể mất thật nhiều lính, mất nhiều tỷ đô la, một phần lớn vũ khí sẽ bị hư hại, nhiều tàu sẽ chìm, song với tiềm lực khổng lồ họ rất sẵn sàng bổ sung nhanh chóng và duy trì cuộc chiến lâu dài.
Trong khi phía VN có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, VN sẽ gây thiệt hại nặng cho đối phương về vũ khí trang bị, con người, nhưng chắc chắn chúng ta cũng sẽ có thiệt hại và buộc phải kéo dài và xé nhỏ cuộc chiến. Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hao tổn sức người sức của và hy sinh mất mát ta vẫn chưa thể có chiến thắng triệt đễ cuối cùng dù kéo dài đến 5 năm , 10 năm , 50 năm hay lâu hơn nữa..
Khi nói, phán, chửi, chê.. thì rất dễ, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy biết bao nhiêu chuyện phức tạp.
Lực lượng hải quân và không quân VN hiện nay đang được hiện đại hóa, có tính răn đe cao, làm cho TQ chùn bước chứ không làm cho họ ngừng ý định bành trướng xuống phương Nam. Vì những lẽ đó, mới có xu hướng lấy đại cuộc làm đầu, nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ gìn hòa bình và sự ổn định trong khu vực.
Nhưng khi có chiến tranh, VN ít nhiều gì cũng sẽ ảnh hưởng tới vấn đề chủ quyền, suy giảm năng lực phòng thủ, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền lớn hơn, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ còn nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn hơn nữa.
Bây giờ khi xảy ra cái gì, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo VN vi phạm lung tung rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger TQ, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ VN, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ VN, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Vòng tròn bất tử, Gạc Ma ... thì ắt sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột không dứt…Bởi vậy hành động của những kẻ xét lại lịch sử rất phù hợp với dã tâm của TQ chứ không chỉ phù hợp với riêng bọn phản động hải ngoại ở mỹ.
Thành phần Trung Quốc theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc thì lâu nay luôn có dã tâm, chỉ cần chúng lên cầm quyền TQ là xong. Và còn bao nhiêu thế lực Mỹ - Tây Âu, phản động đang rình rập tìm cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ khác nhau. Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng tình hình vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Từ khi VN giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. Còn khi chúng chưa kéo tới đánh thì ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng bị tạm chiếm.
Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của TQ và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp. Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà TQ tuyên bố. Bác bỏ những tuyên bố chính thức của TQ…
Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, tự chủ sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên những vùng Trung Quốc coi là của mình và tuyên bố chủ quyền.
VN công khai và chính thức, quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, cả thế giới biết VN đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lãnh hải, lãnh thổ với TQ.
Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của TQ, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của TQ, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. VN ý thức rõ điều đó, nhưng vẫn làm, vì nó là chủ quyền.
Tất cả những gì liên quan tới chủ quyền, lãnh thổ thì VN đều đã làm những gì có thể làm, những gì trong khả năng thực tế mà thế và lực VN hiện nay có thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay hòa bình ổn định của VN trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan điểm, lập luận, và lợi ích của TQ. Và bảo vệ hòa bình trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, vì khi có chiến tranh thì VN có thế yếu hơn so với tương quan lực lượng quân sự giữa các bên liên quan.
Năm 1988, trong CQ88 ở Trường Sa, chúng ta không thể để leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô lớn trên biển mà chúng ta rất bất lợi, có nguy cơ mất trắng vì còn đó sự xâu xé của nhiều nước tại Trường sa.
Trong tất cả những hành động đó, có thể thấy rõ ràng là: Xưa nay VN luôn đặt chủ quyền lên trên hết, vì chủ quyền thì khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh.Ta không hy sinh chủ quyền chỉ vì muốn hòa bình. Ta không dùng chủ quyền để đánh đổi hòa bình phụ thuộc. Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian 1979-1992 đó đã cho chúng ta thấy rất rõ sự nhất quán trước sau như 1, chúng ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa tìm cách giữ cho nó trong sự kiểm soát, không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang cuộc chiến, cố gắng vãn hồi hòa bình, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.
Người làm chính trị luôn lo đến cái lợi lớn của đất nước, cái tổng thể, cái chung nhất, cái lâu dài, cái bền vững, không để những tiểu tiết làm hư đại sự, không vì muốn thỏa mãn những cảm tính, tự ái nhất thời mà làm hỏng đại cuộc. Vì những lẽ lợi - hại đó, vẫn sẽ có những hạn chế phần nào trong báo chí và dư luận để phục vụ cho sách lược đối ngoại chung đối với Trung Quốc, giữ cho tất cả trong vòng kiểm soát, không leo thang căng thẳng, dần đưa tới mâu thuẫn, từng bước đưa đến xung đột quân sự và chiến tranh quy mô. Đồng thời không để thế lực thứ ba nào lợi dụng tình hình căng thẳng giữa hai bên để trục lợi.
Còn đối với những kẻ phản động, từng có "thành tích" bán nước, theo giặc 3 đời vẫn luôn miệng tuyên truyền dối trá nâng quan điểm về những cái gọi là "đại họa mất nước" (?) v.v. thì họ là những kẻ thù hận điên cuồng, u mê mù quáng, không dám chấp nhận sự thật. Chúng ta không quan tâm và không hy vọng gì vào những phần tử này. Khi Việt Nam giữ quan hệ bình thường với Trung Quốc thì họ vẫn sẽ còn tiếp tục bám vào đó, sống ký sinh lên trên đó và tiếp tục chửi bới.
Nhưng nếu Việt Nam chuyển sang chống Trung Quốc như trong giai đoạn 1979-1992 thì cũng không có khả năng nào họ theo VN chống TQ, mà trái lại họ sẽ càng lợi dụng phá thêm và mong muốn TQ chiến thắng, như họ đã từng mong muốn "Trung Cộng đánh thẳng vào Hà Nội giết sạch Việt Cộng" năm 1979. Bọn Fulro và bọn khủng bố tiền thân của Việt Tân nhân cơ hội chiến tranh đó, đã "đục nước béo cò", "thừa nước đục thả câu" mà thừa cơ đánh phá vào trong nước, đem tiền giả, ma túy, súng đạn vào khủng bố trong nước. Những kinh nghiệm từ lịch sử vẫn còn rành rành.
Đây là bọn phản quốc và trên thực tế đã chống dân tộc, chống đất nước, chống Tổ quốc nhiều đời, nhiều lần trong lịch sử hiện đại, chứ không chỉ có chống Đảng Cộng sản, chống Hồ Chí Minh, chống CNXH, chống CNCS. Họ trung thành với Vatican, với Pháp, với nước Mỹ chứ không phải trung thành với nước Việt. Họ yêu bản thân chứ không yêu nước. Mục đích tối hậu của họ là lật đổ Nhà nước Việt Nam để phục hận sau khi những lợi ích gắn liền với giặc xâm lược của họ bị mất sạch sau khi Việt Nam thắng Mỹ. Họ muốn trở về rửa hận, lấy lại những gì đã mất, để tranh quyền giành ghế, tranh giành quyền lực để được làm ông nọ bà kia. Mối quan hệ phức tạp Việt - Trung chính là một trong những chiêu bài để họ nắm lấy, khai thác, và lợi dụng để thực hiện mục đích tối hậu đó, vì lợi ích riêng của chính bản thân họ, bất chấp lợi ích chung của đất nước và dân tộc.
Người làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự hòa bình chính là cái lợi lớn đó. Lãnh đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích chung đó. Họ đặt tình cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn cái tình cảm cá nhân với 1 người hay 1 nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng cái lâu dài hơn cái nhất thời.
Họ cũng căm tức nhưng họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền để cảm xúc, cảm tính điều khiển hành động, không được hành động cho đã cái nư bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy thì đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền lãnh hải lãnh thổ, thì sao đây?
ST



Giữ vững và phát huy tốt truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ"!

    “Hòa bình cũng như kháng chiến, chúng ta quyết không nên vì thắng mà kiêu. Toàn thể Nhân dân, Quân đội và cán bộ ta cần phải ghi nhớ mà thực hành”.

    Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Hội nghị Giơnevơ thắng lợi lớn”, viết ngày 28 tháng 7 năm 1954 được Báo Nhân dân đăng trên số 209, từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 7 năm 1954. Đây là lúc nhân dân ta vui mừng, phấn khởi với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Điều đó là hoàn toàn xứng đáng, nhưng cảm giác đó cũng dễ dẫn đến tâm lý tự kiêu, say xưa chiến thắng mà thỏa mãn dừng lại. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phân tích và làm sâu sắc hơn thắng lợi của nhân dân ta trong Hội nghị Giơnevơ nói riêng, trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung. Người không quên nhắc nhở nhân dân và quân đội ta cần nhận rõ, thắng lợi đó rất quan trọng nhưng chỉ là bước đầu trên con đường đi tới độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải tiếp tục đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng thống nhất, hành động nhất trí, ra sức đấu tranh để: Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, xây dựng dân chủ thật sự. Chúng ta đã giành thắng lợi trong kháng chiến, nhất định sẽ thành công trong hòa bình.

    Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là phương châm hành động để cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân quán triệt và thực hiện có hiệu quả trong lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, xây dựng tinh thần đoàn kết toàn quân một ý chí, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước và hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấu triệt lời thề: Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thẳng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, giữ vững và phát huy tốt truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. St

 


Phụ nữ Quân đội phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam...

"Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người nói trong bài phát biểu tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc, ngày 1/8/1960, Báo Nhân dân đăng trên số 2327, ngày 2/8/1960.

Đây là giai đoạn miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng CNXH càng được chú trọng, số lượng phụ nữ công tác trong các cơ quan chính quyền từ trung ương đến cơ sở tăng cao; đặc biệt, trong Quốc hội khóa II có tới 53 đại biểu Quốc hội là nữ. Khẳng định Đảng, Chính phủ và Nhân dân ta đã đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ và đó cũng là một thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy: “Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”, kế thừa và phát huy truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã tích cực học tập, rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; từ các phong trào thi đua rộng lớn của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ, tiêu biểu với các phong trào thi đua “Ba đảm đang”, phong trào “Đồng khởi”… đã xuất hiện nhiều nữ anh hùng dũng cảm trong chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được lịch sử vinh danh, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, xứng đáng với 8 chữ Vàng Bác Hồ trao tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, phát triển hiện nay, lời Bác Hồ dạy năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn để các thế hệ phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, ra sức học tập, rèn luyện theo 4 phẩm chất: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, ngày càng có nhiều phụ nữ phấn đấu trở thành chính trị gia, nhà khoa học giỏi, nhà quản lý năng động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phụ nữ Quân đội tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, học tập, lao động sáng tạo, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để cùng với phụ nữ cả nước thực hiện trọn vẹn lời Bác Hồ dạy năm xưa. St

 

  

Một số điểm mới về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm


Ngày 06/7/2022, Bộ Chính trị ban hành Quy định 69-QÐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

Quy định 69 gồm 4 chương, 58 điều quy định nội dung vi phạm và hình thức kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật.

Trước đây, quy định về kỷ luật đảng viên và kỷ luật tổ chức đảng được nêu tại hai văn bản khác nhau: Quy định số 07-QĐi/TW ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm và Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.

Tuy nhiên, đến Quy định 69-QÐ/TW (Quy định 69) đã gộp cả quy định về kỷ luật đảng viên và kỷ luật tổ chức Đảng vào cùng một văn bản. Theo đó, hình thức kỷ luật đảng viên và tổ chức Đảng được nêu tại Điều 7 Quy định 69 gồm Tổ chức Đảng: Khiển trách; cảnh cáo; giải tán. Đối với đảng viên chính thức: Khiển trách; cảnh cáo; cách chức nếu đảng viên chính thức có chức vụ; khai trừ. Đối với đảng viên dự bị: Khiển trách; cảnh cáo.

Quy định 69-QÐ/TW áp dụng đối với tổ chức đảng (gồm cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể, thay đổi do chuyển giao, chia tách, sáp nhập) và đảng viên (gồm cả đảng viên bị tuyên bố mất tích, đảng viên đã qua đời nhưng có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng).

Trường hợp tổ chức đảng, đảng viên vi phạm nội dung chưa nêu trong Quy định này thì căn cứ vào Điều lệ và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ và quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội để xử lý kỷ luật cho phù hợp với Quy định này.

Thêm trường hợp chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật đảng viên

Điều 5 Quy định 102 chỉ đặt ra hai khoản quy định về các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử lý kỷ luật đảng viên gồm chưa xem xét kỷ luật đối với đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc mất khả năng nhận thức, bị ốm nặng đang điều trị nội trú trong bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (từ cấp huyện trở lên) xác nhận. Không kỷ luật đối với đảng viên vi phạm đã qua đời trừ trường hợp người này vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong khi đó, theo khoản 14 Điều 2 Quy định 69, trường hợp chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật đảng viên gồm chưa xem xét kỷ luật trong trường hợp đảng viên là nữ đang mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc là nam nhưng do vợ chết hoặc vì khách quan, bất khả kháng cũng đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Bị bệnh nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện. Nhưng nếu người này có sức khỏe ổn định (được ra viện) thì vẫn bị xem xét kỷ luật. Đảng viên đã qua đời thì không kỷ luật trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Chưa thi hành kỷ luật đối với đảng viên bị tuyên bố mất tích: Vẫn xem xét, kết luận nhưng chưa xử lý. Khi phát hiện người này còn sống thì thi hành.

Miễn kỷ luật đối với đảng viên thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo nhưng xảy ra thiệt hại và nguyên nhân để xảy ra thiệt hại là do khách quan, thực hiện đúng chủ trương, động cơ trong sáng, vì lợi ích chung. Do chấp hành quyết định sai trái của cấp trên hoặc bị ép buộc nhưng đã chủ động, kịp thời báo bằng văn bản về ý kiến, đề xuất của mình trước khi thực hiện.

Như vậy, so với quy định cũ, Quy định 69 về kỷ luật Đảng đã bổ sung và nêu cụ thể các trường hợp được miễn hoặc hoãn kỷ luật, chưa thi hành kỷ luật.

Bổ sung hành vi đảng viên bị kỷ luật

Điểm đáng chú ý là Quy định 69 có quy định kỷ luật với đảng viên vi phạm quy định về chống chạy chức, chạy quyền.

Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau mà gây hậu quả ít nghiêm trọng thì bị kỷ luật khiển trách: Tiếp cận, thiết lập quan hệ, tặng quà người có trách nhiệm, chức vụ, quyền hạn hoặc người có liên quan để được ưu ái, ủng hộ nhằm mục đích có được vị trí công tác, chức vụ, quyền hạn.

Tác động, mua chuộc, gây sức ép với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, bổ nhiệm mình hoặc người khác vào vị trí, chức vụ có lợi cho cá nhân.

Đặt điều kiện, gây sức ép với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, đề cử, bổ nhiệm mình.

Mặc cả, đặt điều kiện, đòi hỏi không chính đáng đối với tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm để được sắp xếp vào chức vụ, vị trí công tác.

Cảnh cáo hoặc cách chức nếu có chức vụ đối với cho mượn, thuê văn bằng, chứng chỉ (khoản 2 Điều 35). Khai trừ ra khỏi Đảng khi dùng văn bằng, chứng chỉ giả hoặc không hợp pháp để tuyển dụng vào cơ quan, để được kết nạp Đảng, được đi học, bổ nhiệm, thi nâng ngạch… (khoản 3 Điều 35).St.

 

Chống quan liêu, tham ô, lãng phí!

    Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc.”

    Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí”, đăng trên Báo Nhân dân, số 68, ngày 31 tháng 7 năm 1952. Đây là thời kỳ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta bước sang giai đoạn gay go, ác liệt, đòi hỏi phải đoàn kết chặt chẽ, thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Tuy nhiên, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên xuất hiện biểu hiện tham ô, lãng phí, quan liêu, đã được nhân dân phê bình nhưng còn có dấu diếm, chưa kiên quyết kiểm thảo và sửa chữa không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ; rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ. Ngày nay, tham nhũng, lãng phí được Đảng ta coi là giặc nội xâm, là đồng minh của chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, cần phải kiên quyết đấu tranh để bài trừ khỏi đời sống xã hội.

    Những tư tưởng về chống tham ô, lãng phí của Bác Hồ mang tầm chiến lược và có giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Thấu triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, qui định và các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; mở rộng dân chủ rộng rãi ở cơ sở; tăng cường công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, gắn với phát động và động viên sự giám sát của nhân dân theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng, không có vùng cấm để loại bỏ thứ giặc nội xâm ra khỏi đời sống xã hội đã trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành công trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

    Học tập và làm theo lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Qui định trách nhiệm của người cán bộ chủ trì và tổ chức cho cán bộ, đảng viên đăng ký cam kết chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước; thực hiện nghiêm, có chất lượng qui định về kê khai tài sản với các đối tượng theo qui định; phát huy dân chủ rộng rãi thông qua sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đơn vị, thực hiện tài chính công khai ngày, tuần, tháng; tổ chức có nền nếp, chất lượng Ngày Chính trị, văn hóa tinh thần; Ngày Pháp luật ở đơn vị. Đồng thời, tích cực triển khai nhiều biện pháp đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành hành tiết kiệm, chống lãng phí trên mọi lĩnh vực học tập, công tác, sinh hoạt ở đơn vị tạo bầu không khí dân chủ, tin cậy, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.St.