Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

NGÀY 10/8/1961 - NGÀY CỦA TỘI ÁC CHIẾN TRANH MÀ MỸ - NGỤY ĐÃ ĐỔ XUỐNG ĐẦU NHÂN DÂN VIỆT NAM - NGÀY KHÔNG THỂ NÀO QUÊN VÀ KHÔNG ĐƯỢC QUÊN

 

Cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam chấm dứt đã hơn bốn mươi sáu năm, nhưng những hậu quả của nó vẫn hằn sâu và nhức nhối. Trong đó, "nỗi đau da cam/dioxin" hằng ngày vẫn hành hạ và dày vò nhiều gia đình Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ngày 10/8/1961, quân đội Mỹ rải những lít chất độc đầu tiên xuống miền Nam Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh hoá học tàn bạo kéo dài 10 năm trong cuộc xâm lược Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã rải xuống miền Nam Việt Nam, một phần lãnh thổ của Lào và Campuchia 72 triệu lít chất độc hóa học, trong đó có 44 triệu lít chất da cam chứa 170kg dioxin, một chất độc cực kỳ độc hại đã gây ra nhiều loại bệnh như ung thư, suy nhược thần kinh, suy giảm hệ thống miễn dịch, tai biến sinh sản và dị tật bẩm sinh…
Có tới hơn 26 ngàn thôn ấp ở miền Nam Việt Nam bị phun rải và có hơn 3 ngàn thôn ấp bị ảnh hưởng trực tiếp với số dân từ 2,1 đến 4,8 triệu người. Hiện nay, trên cả nước Việt Nam có khoảng hơn 150 ngàn trẻ em bị di tật bẩm sinh với các căn bệnh như liệt, chậm phát triển trí tuệ, mù, câm, điếc và các lại dị tật khác. Gia đình và bản thân các em đang phải sống trong hoàn cảnh hết khó khăn, đau khổ và lo lắng về cả vật chất lẫn tinh thần, cả về thể xác lẫn tâm hồn và cả về nhà cửa lẫn thức ăn thuốc men hàng ngày. Và cũng không biết tới bao giờ những người cha, người mẹ của những đứa con ấy mới được nghỉ ngơi khi trong họ luôn đăm đắm trong lòng một nỗi lo nếu chẳng may họ qua đời thì ai sẽ là người chăm sóc, trông nom họ.
Đúng như nhiều nhà nghiên cứu đã cho biết rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Mỹ gây ra là một trong những cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại và hậu quả của nó còn ảnh hưởng nặng nề đến nhiều thế hệ mà nghiêm trọng nhất là tác hại của chất độc da cam hay còn gọi là dioxin. Tiếng súng chiến tranh đã tắt sau hơn 47 năm, tuy nhiên sự đau khổ tột cùng và dòng nước mắt vẫn tuôn rơi trong các gia đình là nạn nhân của loại chất độc hủy diệt này.
Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày đế quốc Mỹ sử dụng chất độc dioxin trên chiến trường Việt Nam để phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa nhưng nỗi đau thì vẫn còn đó.
“Em có mắt nhưng không thể ngắm nhìn,
có đôi môi xinh nhưng không thể cười nói,
có đôi tay nhưng không thể nâng niu,
có đôi chân nhưng không thể bước,
có trái tim nhưng chẳng biết buồn vui…”, đó là hình ảnh của những nạn nhân chất độc da cam mang theo nỗi đau quằn quại về thể xác và sự trống rỗng trong tâm hồn. Để rồi, giờ đây, việc xoa dịu nỗi đau da cam không còn là trách nhiệm của riêng cá nhân, tổ chức nào mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội; để rồi chúng ta sẽ biết trân trọng và sống ý nghĩa hơn trong cuộc đời này.
61 năm trôi qua sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cuộc sống của người dân Việt Nam đang thay da đổi thịt từng ngày, từng giờ, đất nước ngày càng ổn định, phát triển và khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Nhiều ngôi nhà cao chọc trời đã mọc lên, nhiều công trình đã và đang được xây dựng, những nam thanh, nữ tú vui vẻ cắp sách tới giảng đường, người nông dân vui mừng với mùa màng bội thu. Nhưng đâu đó sau những ngôi nhà cao đồ sộ hay những lũy tre làng xanh ngắt, những cánh đồng bát ngát vẫn còn biết bao người lính Việt Nam cũng như gia đình họ đang phải âm thầm chịu đựng những mất mát, những di chứng của cuộc chiến tranh “hóa học” mà đế quốc Mỹ đã gây ra.
Những năm qua, dù Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành luôn có sự quan tâm ân cần, thiết thực đến những nạn nhân bị nhiễm thứ chất độc quái ác này. Ngày 10/8 hàng năm cũng là dịp để mọi người trong xã hội chung tay hành động vì những nạn nhân chất độc Da cam/dioxin, để xoa dịu phần nào nỗi đau lớn lao trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, nỗi đau mang tên chất độc Da cam/dioxin và những di chứng dai dẳng của nó từ bao lâu nay vẫn là điều nhức nhối. Thế nên mới hiểu được sự hy sinh, mất mát cũng như lòng dũng cảm, anh dũng chiến đấu với kẻ thù xâm lược của các những thế hệ cha anh đi trước để nhân dân Việt Nam có được cuộc sống hòa bình, phát triển như ngày nay.
Thiết nghĩ rằng, mỗi con người Việt Nam và đặc biệt là thế hệ trẻ thanh thiếu niên Việt Nam – những người sinh ra khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng và thống nhất hôm nay hãy cùng nhau chung tay bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp và phát triển. Cùng với đó, hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ gia đình và các nạn nhân là di chứng của loại chất độc nguy hiểm này bằng cả vật chất và tinh thần, bằng cả hành động và lời nói để giúp họ vươn lên trong cuộc sống và làm vơi đi nỗi đau, mất mát mà họ phải trải qua, đó là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, của cả cộng đồng và cả nhân loại.
=====
Sưu tầm
Đào Thị Bích Khuyên và 109 người khác
23 bình luận
8 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Quan hệ giữa tăng trưởng kỉnh tế và phát triển văn hóa giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc

 

 

Trong phương châm phát triển, Việt Nam chủ trương phát triển đồng bộ các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải đặt trong mối quan hệ phát triển hài hòa các lĩnh vực văn hóa, xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Điều đó mi thể hiện đúng bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩã mà Việt Nam phấn đấu xây dựng, do vậy các cấp, các ngành, các địa phương phải quán triệt và giải quyết tốt đúng đắn mối quan hệ này để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. Trong điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nhất là các tranh chấp chủ quyền biển, đảo đã và đang đặt ra vấn đề phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ này không chỉ dừng lại ở nhận thức mà còn phải hiện thực hóa các phương châm chiến lược, cụ thể hóa trong các chính sách, chương trình quốc gia, bảo đảm các điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Quan hệ giữa giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

 


Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh các mặt cấu thành quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu, để bảo đảm sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, giải phóng và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Những đổi mới đã mang lại kết quả to lớn: tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài, cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện, an sinh xã hội được chú trọng, xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tích cực, v.v... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát triển đa dạng các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất đa dạng của các hình thức sở hữu và với xu hướng liên kết giữa các chủ thể sở hữu.

Quan hệ giữa giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa

 


Điểm đột phá trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, đã khẳng định kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của nhân loại; ; khẳng định phải sử dụng kinh tế thị trường như một phương tiện chính yếu, tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việt Nam quyết tâm chuyển đổí sang cơ chế thị trưởng, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trưởng song không chấp nhận phát triển kinh tế thị trường bằng mọi giá, mà phải hướng tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới tiếp tục đòi hỏi phải nhận thức rõ, thống nhất  và có các giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chế độ xã hội chủ nghĩa - có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

 


Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy, chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

 


Đây là đặc trưng thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện kinh tế nhiều thành phần, khắc phục nhận thức coi nhẹ các thành phần kinh tế thuộc chế độ sở hữu tư nhân. Đồng thời, đặc trưng khẳng định khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, với một nền kinh tế phát triển cao thì quan hệ sản xuất phù hợp với trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất lúc đó phải là quan hệ sản xuất tiến bộ dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa.

Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội. Mặt khác, nền kinh tế chỉ có thể phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.  Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.

 

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, do nhân dân làm chủ- điểm cốt lõi của chế độ xã hội chủ nghĩa

 


 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiều nội dung lý luận và thực tiễn mi được nêu ra, trong đó nội dung quan trọng nhất là xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng. Đây là một bước phát triển lý luận mới mang tính đột phá của Đảng Cộng sản Việt Nam và là cơ sở để các kỳ Đại hội sau tiếp tục phát triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác đinh: xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng gồm tám đặc trưng, trong đó: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, do nhân dân lao động làm chủ là đặc trưng căn bản.

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là hệ mục tiêu của đổi mới, đồng thời là đặc trưng khái quát nhất cần đạt tới của cả thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xẫ hội chủ nghĩa, hoàn thiện từng bước xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với nhu cầu, đặc điểm thực tiễn của Việt Nam trên các phương diện. Đặc trưng này là kết quả của sự kết hợp những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

 

“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, nhưng chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Nhân dân làm chủ xã hội là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai trò chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ. Chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ.

Nhận thức thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

 


Với tinh thần đổi mới, đến Đại hội lần thứ IX (2001), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan niệm về "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Theo đó, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Như vậy, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, song phải biết kế thừa, chắt lọc những thành tựu, tinh hoa văn minh mà nhân loại đã đạt được ngay cả trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Đây là quan điểm có ý nghĩa quan trọng trong việc thống nhất về nhận thức không chỉ trong Đảng, mà trong toàn xã hội để trên cơ sở đó, triển khai các hoạt động cả về mặt lý luận và thực tiễn cho phù hợp hơn. Đến nay, vấn đề thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn phải tiếp tục được nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn cả về lý luận và thực tiễn.

 

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

 


 Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sau khi giành được chính quyền về tay mỉnh sẽ bắt tay vào xây dựng một hình thái mới - đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Đây là thời kỳ lâu dài, khó khăn phức tạp, vừa có kế thừa, phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản, vừa xây dựng những yếu tố, những cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Khi xã hội mới đủ sức vận động trên cơ sở nền tảng cùa chính nó, thì chuyển dần lên chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, thực hiện bước quá độ là một tất yếu khách quan đối với mọi nước sau khi giai cấp công nhân đã giàhh thắng lợi trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn đầu.

 Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức rõ rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp

Vì: phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bàn chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh để lại hậu quả nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại công cuộc cải tạo và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp. Do vậy, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài vi nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nên không thể nóng vội, giản đơn. Tính chất đan xen, phức tạp và lâu dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam biểu hiện rõ nét đường lối phát triển kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau. Nhận thức mới này đã khắc phục được những biểu hiện nóng vội, đốt cháy giai đoạn, vi phạm quy luật khách quan đã diễn ra thời kỳ trước đổi mói.

 

NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM – TRÁCH NHIỆM CỦA MỖI CÔNG DÂN

 


Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nói đến nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, những nhận thức trong thời kỳ đổi mới là xuất phát từ thực tiễn, là sự kế thừa, sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thời kỳ trước đổi mới (1986 trở về trước) nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có nhiều điểm mang tính đặc thù. Những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từng bước khắc phục những quan niệm giản đơn trước đây. Sau hơn 35 năm đổi mới, một hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hình thành, ngày càng sáng rõ - thể hiện ở nhận thức đúng đắn hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về mô hỉnh của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được phác thảo trên những nét căn bản, làm cơ sở khoa học để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế, sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nghiên cứu bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là trách nhiệm của công dân Việt Nam trong công cuộc đổi mới.

 

Xây dựng Nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng

 


        Nhà nước xã hội chủ nghĩa không dung hòa với bệnh quan liêu, tham nhũng. Quan liêu làm tha hóa bản chất quyền lực nhà nước, làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, là một thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”. Chính vì vậy phải loại trừ bệnh quan liêu ra khỏi bộ máy nhà nước. Quan liêu, tham nhũng là hiện tượng xa lạ với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng lại là một căn bệnh rất dê phát sinh, nhất là khi nirác chưa ton tại trẽn cơ sơ cua chính nó. Trên thực tế, nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa đa nhicm phái cAn bệnh này ở những mưc đọ khác nhau. Để bảo đảm nhà nưóc trong  sạch, vững mạnh, phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ cản bệnh nguy hiểm này. Tuy nhiên, còn nhà nước là còn khả năng quan liêu, tham nhũng. Do đó, cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đòi hói phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ và lâu dài. V.I.Lênin viết: “Chỉ khi nào toàn thể nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới cỏ thể đả phá chủ nghĩa quan liêu đcn cùng, đên thắng lợi hoàn toàn được”[1]. Vì vậy để đoạn tuyột với quan liêu, tham nhũng, theo V.IếLênin phải “thi hành ngay những biện pháp khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu”, và, do đó, khiến không một ai có thể biến thành “quan liêu” được”[2].Nước ta xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa từ một xẵ hội không kinh qua chế độ dân chủ tư sản, một xã hội mà trình độ kinh tế, văn hóa còn thấp kém, thì cuộc đấu tranh đó càng khó khản, phức tạp và lâu dài. Trong quá trình xây đựng chính quyền cách mạng, chính quyền nhân dân, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Tuy nhiên, hiện nay quan liêu, tham nhũng ở nước ta đang thực sự là nguy cơ lớn, nó đang có chiều hướng lộng hành, gây bất bình trong nhân dân, làm suy yếu nhà nước, cuộc đấu tranh này, đo đó, đang nồi lẽn như một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong thời kỳ đổi mới, sau một số năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về lĩnh vực đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham nhũng, hội nghị Trung ương 4 khóa IX chì chỉ ra rằng: Chúng ta dã đạt được một số két quả có tác dụng cảnh báo, răn đc, ngăn ngừa, kiềm chế nhất định nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được các tệ nạn đó. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta đã và đang là vấn đề bức xúc. Nói về quyết tâm trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, Văn kiện Đại hội lần thứ X chỉ rồ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phỉ là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhàm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khấc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta[3].Đồng thời, trong Văn kiện này, Đảng cũng đã chỉ ra một số biện pháp cụ thể phải tiến hành sắp tới: “Phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bao gồm: bổ sung, hoàn thiện các quy định về quản lý kinh tế - tài chính, về thanh tra, kiểm tra; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp, tổ chức bộ máy gọn nhẹ; bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị; tiếp tục đồi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức. Khẩn trương và nghiêm chinh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chổng lãng phí; bổ sung, sửa đổi Luật Khiếu nại và tố cáo. Xừ lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghi hưu... Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cừ, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyên; phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, lãng phí”[4].

Tuy vậy, đên Đại hội lần thứ XI, XII,XIII Đảng vẫn thấy rằng: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”[5], rằng tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn diễn biến phức tạp[6]. Vì vậy, khẳng định phải tiếp tục đẩy mạnh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.



[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1977, t.38, tr.205.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1976, t.33, tr. 134.

[3]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.45-46.

[4]  Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.46-47.

[5]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172.

[6] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu loàn quôc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.19.

Phát huy chức năng xã hội trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước

 


Cũng như các nhà nước khác, nhà nước xã hội chủ nghĩa có cả chức năng bạo lực trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng. Nhưng điểm khác nhau hết sức cơ bản so với các nhà nước bóc lột là đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu. V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng, thực chất của chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Điều chủ yếu trong nền chuyên chính của giai cấp công nhân là những nhiệm vụ và chức năng có tính chất sáng tạo, là “đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh là điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản”[1]. Bởi lẽ, “xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”[2]. Đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn, một phương thức sản xuất có năng suất lao động cao hơn không phải vì lợi ích ích kỷ của một giai cấp, mà vì lợi ích của sự tiến bộ xã hội, vì lợi ích của quảng đại quần chúng lao động. Như vậy xét về bản chất, sứ mệnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước có khả năng thực hiện tốt nhất chức năng xã hội của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện chức năng xã hội vượt qua được những trở ngại mà bất kể một nhà nước bóc lột nào cũng không thề vượt qua được, trở ngại về sự đối kháng về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế giữa giai cấp thống trị với quần chúng lao động.

Trước đây, trong quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, ở những mức độ khác nhau chúng ta đã quá nhấn mạnh tính giai cấp, tính chính trị của nhà nước, ít quan tâm nghiên cứu chức năng xã hội của nhà nước. Thậm chí có thòi kỳ còn quan niệm một cách giản đơn về phát huy chức năng xã hội cùa nhà nước: Nhà nước can thiệp càng sâu, càng tỉ mỉ vào các quá trình kinh tế - xã hội càng tốt. Hậu quả là bộ máy nhà nước ừở nên nặng nề, cồng kềnh, cách thức hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Kinh tế - xã hội bị gò bó, kém năng động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân đẩy chủ nghĩa xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

Trong đổi mới, Đảng ta một mặt vẫn kiên trì quan điểm giai cấp trong xây dựng và đổi mới nhà nước, mặt khác rất chú trọng cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước cho phù họp với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức bộ máy như thế nào, cơ chế quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ra sao, sự can thiệp của Nhà nước vào các quá trình kinh tê - xã hội ở mức độ nào là thích hợp để phát huy vai trò của chức năng xã hội của Nhà nước đã và đang là vấn đề đặt ra ở nước ta.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát huy chức nãng xă hội của Nhà nước, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII khi nói về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xă hội 5 nám 2016-2020, Đảng ta đã chỉ ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây'. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung tạo dựng thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, thông suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Phân định rõ chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường. Nhà nước quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội băng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết phù hợp với kinh tế thị trường, giảm thiểu can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xă hội và hội nhập quốc tế. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ tốt nhất người dân và doanh nghiệp. Khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, văn hóa, nghệ thuật,...Xây dựng chính phủ kiến tạo[3], nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiêp là tiêu chí đánh giá tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiộm giải trình. Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giàn, gắn với nâng cao chất lượng chính sách, pháp luật; quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm đối với từng thủ tục hành chính. Công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục hành chính. Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý kiến nghị và kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo, quản lý, điều hành từ Trung ương đến cơ sở. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa Trung ương và địa phương, bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của Trung ương và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp. Xác định rõ thẩm quyền, ừách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với chính quyền các cấp.



[1]  V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1977, t.39, tr.16.

[2] V.I.Lẽnin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1977, t.39, ữ.25.

[3] Chính phủ kiến tạo xuất hiện trong văn bàn chính thức của nhà nước ta là trong Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 18-12-2016 về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021.