Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

NHIỀU CHÍNH SÁCH "KHÁ MẠNH TAY" ĐỂ TINH GIẢN BIÊN CHẾ


Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách là một nội dung đột phá. Theo đó, sẽ tăng thêm biên chế đối với cấp xã, nên phải báo cáo Bộ Chính trị để bổ sung số biên chế này. Về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, Bộ Nội vụ đề xuất chính sách "khá mạnh tay" để có thể thực hiện ngay việc sắp xếp.
Đề xuất tăng thêm biên chế cán bộ, công chức cấp xã
Bộ Nội vụ đang xây dựng dự thảo các nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế; khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách.
Theo đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, việc xây dựng 3 nghị định này liên quan đến việc tạo điều kiện cho sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tới đây.
Đồng thời khẳng định, năm 2023, 2024 là thời điểm tập trung cao nhất để sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã cho nên cần phải chuẩn bị đầy đủ các cơ chế, chính sách để tổ chức thực hiện.
Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách là một nội dung đột phá. Theo đó, sẽ tăng thêm biên chế đối với cấp xã, nên phải báo cáo Bộ Chính trị để bổ sung số biên chế này.
Khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm
Nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế phải tích hợp một số nghị định liên quan đến chính sách tinh giản biên chế.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho biết, dự thảo nghị định đưa ra chính sách "khá mạnh tay" để có thể thực hiện ngay việc sắp xếp.
Về dự thảo Nghị định khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho rằng, đây là nghị định rất khó, mang tính chính trị cao.
Trong bối cảnh chúng ta đang tích cực đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, một bộ phận cán bộ có tư tưởng chần chừ, giữ an toàn, sợ sai, cần có những cơ chế, chính sách để cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
Về dự thảo Nghị định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, gồm 3 chương, 15 điều. Cần sớm trình Chính phủ ban hành để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung nhằm thể chế hóa chủ trương tại Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị.
Về đối tượng áp dụng, có hai loại ý kiến: Ý kiến thứ nhất, đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước; ý kiến thứ hai, đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước (kể cả cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý).
Về nguyên tắc khuyến khích, bảo vệ cán bộ, có 5 nguyên tắc: (1) Khuyến khích mọi cán bộ năng động, sáng tạo trong phạm vi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; (2) Phải được tiến hành kịp thời, dân chủ, công khai, minh bạch; (3) Phải bảo đảm không trái Hiến pháp và Điều lệ Đảng; (4) Khi thực hiện mà xảy ra thiệt hại thì phải xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, được xem xét miễn xử lý trách nhiệm; (5) Trường hợp lợi dụng chủ trương thì bị xử lý nghiêm.
Về dự thảo Nghị định quy định về tinh giản biên chế (thay thế Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20-11-2014, Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31-8-2018 và Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 1-12-2020), gồm 5 chương và 25 điều.
Dự thảo đã đưa ra các nội dung sửa đổi, bổ sung về đối tượng áp dụng, các trường hợp tinh giản biên chế, các chính sách tinh giản biên chế, chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ, công chức cấp xã có tuổi thấp hơn tối đa đủ 10 tuổi đến trên 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, chính sách tinh giản biên chế đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030 nghỉ ngay trong thời gian 6 tháng kể từ khi có quyết định sắp xếp của cơ quan có thẩm quyền.
Về dự thảo Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố (thay thế các Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 112/2011/NĐ-CP và Nghị định số 34/2019/NĐ-CP), gồm 4 chương và 40 điều.
Dự thảo đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung về quy định chức danh, số lượng, tiêu chuẩn (khung năng lực) và nhiệm vụ cụ thể (bản mô tả công việc) của từng chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, về chế độ phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, chế độ hỗ trợ đối với người trực tiếp tham gia hoạt động ở thôn, tổ dân phố, phụ cấp kiêm nhiệm,.../.
Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 1 người và đang đứng

LỜI BÁC DẶN NĂM XƯA: “TRÍ TUỆ VÀ SÁNG KIẾN CỦA QUẦN CHÚNG LÀ VÔ TẬN”


Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng”.
Cách đây tròn 65 năm, trong lưu bút ghi tại triển lãm ngành Hậu cần quân đội (1-4-1958), Bác Hồ viết: “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”.
Đây không chỉ là lời nhắc nhở với riêng cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân đội, mà là cho đến hôm nay vẫn là bài học đạo đức dành cho tất cả chúng ta về ý thức gần dân, trọng dân và phát huy sức mạnh của Nhân dân trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào.
Không quá khi nói biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam là lòng dân. Lời Bác nhắc nhớ cảnh dân làng góp cơm, góp cà để cậu bé Gióng vươn mình thành người khổng lồ đánh đuổi giặc Ân. Những tích truyện dân gian về các bậc tiên hiền đã dựa vào sức mạnh của Nhân dân để đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi vẫn truyền miệng đời đời. Là tiếng hô “Sát Thát” rung chuyển điện Diên Hồng của bô lão cả nước, “chúng chí thành thành” bảo vệ non sông xã tắc vững vàng trước vó ngựa Nguyên Mông. Là Lê Lợi trong những ngày khởi nghĩa Lam Sơn còn trong trứng nước, đã được những vợ chồng lão nông đang bắt cá, bà hàng nước ven đường cứu giúp lúc gian nguy; được dân bản dưới chân núi Phay Lệnh, Phay Tong giúp đặt bẫy Pát giết bầy chó ngao của giặc Minh... Là Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền, nhất mực tôn La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là “bậc thầy để thờ”, 2 lần tìm để hỏi kế diệt giặc; thâu nạp quanh mình những sĩ phu đứng đầu đất Bắc Hà như Ngô Văn Sở, Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm... thành những cánh tay đắc lực cho sự nghiệp thống nhất sơn hà.
Và, chẳng phải hình ảnh chiếc xe thồ là biểu tượng cho sáng kiến của Nhân dân, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đấy sao.
Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng...” (Lòng nhân ái và đức khoan dung, NXB Hà Nội, 2020). Trong căn lán Nà Lừa - Tân Trào trước ngày tổng khởi nghĩa, Bác lâm bệnh nặng, được “Ông cụ lang già người Tày xem mạch, sờ trán Bác rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng. Sau đó Bác tỉnh. Hôm sau, Bác ăn thêm vài lần với cháo loãng nữa, cơn sốt nhẹ dần...” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký) - chẳng phải cũng là biểu hiện sinh động của trí tuệ quần chúng.
Hoạt động cách mạng trong sự đùm bọc của Nhân dân, vì thế mà trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, Bác luôn đề cao tư tưởng trọng dân, vì Nhân dân phục vụ, coi trọng sức mạnh vĩ đại của Nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân. Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch”. “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước, Người đã có bài viết với tiêu đề “Tìm người tài-đức” đăng trên Báo Cứu quốc để quy tụ, tập hợp nhân sĩ, trí thức mang tài năng, đảm lược ra giúp nước. Cùng với lời hiệu triệu, ứng xử của Bác với nhân sĩ, trí thức cũng trở thành những bài học luôn nóng hổi tính thời sự. Ví như chuyện, sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với phía Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946 nhằm kéo dài hòa bình. Trước lúc trở về Tổ quốc, Bác gặp và nói với kỹ sư Phạm Quang Lễ - thời điểm đó đang được nước Pháp hết sức trọng dụng vì tài năng, rằng: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. Chỉ thế thôi và cách mạng Việt Nam có được một Thiếu tướng, Giáo sư, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa sau này.
Học tập và làm theo tư tưởng trọng dân và phong cách gần dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cấp ủy, chính quyền cần luôn quan tâm phát huy dân chủ, đề cao ý kiến của Nhân dân. Có các giải pháp để tiếp tục tập hợp, đoàn kết, cổ vũ và khuyến khích Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước “đem sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân”.
ST
Có thể là hình ảnh về 2 người

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 03/4


“Giúp nhân dân nước bạn là tự giúp mình” .
Trích trong thư gửi các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3 tháng 4 năm 1953: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.
Thực hiện tuyên bố chung “Đoàn kết Việt - Miên - Lào chống Pháp”, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Quân đội nhiệm vụ vừa giúp bạn tổ chức, xây dựng lực lượng, vừa cùng quân và dân nước bạn trực tiếp chiến đấu chống quân thù. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta tham gia làm nhiệm vụ quốc tế phải coi việc giúp đỡ bạn là tự giúp mình.
Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta đã luôn sát cánh, gắn bó, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ quân đội và nhân dân các nước bạn trên tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, trong sáng và vô tư, cùng nhau đánh bại kẻ thù chung để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, xây dựng và phát triển đất nước.
Mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc. Đó là mối quan hệ mẫu mực hiếm có, trong sáng, rất mực thủy chung, được xây đắp trên tinh thần quốc tế vô sản, tạo nên một sức mạnh giúp nhân dân hai nước vượt qua mọi khó khăn, giành được thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, làm cho hai dân tộc ngày càng phát triển.
Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào vẫn được Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội hai nước không ngừng củng cố và tăng cường. Hợp tác chính trị ngày càng bền chặt, hợp tác quốc phòng - an ninh được giữ vững, hợp tác kinh tế không ngừng được tăng cường, hợp tác giáo dục, văn hóa, xã hội ngày càng đa dạng… mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt - Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, tích cực giúp đỡ bạn, nhất là Quân đội Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình trong khu vực và trên thế giới./.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'TƯ TƯỞNG Há CHÍ MINH MÃI MÃI SOI SÁNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM'

GIỚI HẠN NÀO CHO SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM?


Những ngày cuối tháng 3-2023, Bộ Nội vụ tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Đây là nghị định cụ thể hoá Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Đây là vấn đề mới, khó thu hút sự quan tâm không chỉ đội ngũ cán bộ, đảng viên mà toàn xã hội. Bởi cuộc sống luôn biến động, nhất là khi tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh… đang đặt ra những khó khăn, thách thức không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Không có cơ chế khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ sáng tạo, dám đột phá, đương đầu với thử thách, khó thúc đẩy được công cuộc đổi mới đi lên.
Nhưng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm đến đâu?
Lằn ranh giữa đổi mới, thực hiện các ý tưởng sáng tạo, dám làm những suy nghĩ chưa từng có với cố ý làm trái rất mỏng manh. Hơn nữa, dù đã có rất nhiều tiến bộ nhưng hệ thống pháp luật của ta chưa đồng bộ. Cùng một vấn đề, áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra áp dụng luật khác thì thành sai. Thời điểm này có thể đúng, khi kiểm tra ở thời điểm khác lại sai, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung chưa được thể chế hóa…
Tuy nhiên, không vì thế mà cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý có tinh thần trách nhiệm cao chùn bước.
Quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi cán bộ phải có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Trong đó có những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn, nhằm mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, dân tộc. Không có một Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc dám vượt lên đường lối làm ăn tập thể để “giao khoán ruộng" cho nông dân, làm sao chúng ta có được "khoán 10", nhờ đó mà đất nước mới thoát khỏi nền nông nghiệp năng suất thấp?
Việt Nam chẳng những không phải vất vả lo dân thiếu lương thực mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo, khi tiềm năng đất đai, lao động, sự sáng tạo của nông dân được khai thác triệt để. Mặc dù khi đó, cái giá phải trả của người đi tiên phong là những sóng gió, thăng trầm. Không có một Tổng Bí thư Trường Chinh với tầm nhìn sáng suốt, bản lĩnh quyết đoán làm sao những sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cấp được bảo vệ, thực hiện thành công trên cả nước?
Giữa bao vây cấm vận, muôn vàn bao khó khăn bộn bề của đất nước, không có bước đi mang tính "vượt rào" của Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt; không có tinh thần kiên định "nói và làm" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh làm sao chúng ta có sức mạnh phá bỏ những rào cản nằm ngay trong chính bộ máy lãnh đạo, xoá bỏ tình trạng trì trệ, bảo thủ, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đất nước và làm sao có được thành tựu rạng rỡ của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua?
Có được tinh thần sáng tạo, dám nói, dám làm ấy phải chăng không chỉ có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp của Đảng mà trong suy nghĩ của những cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn ghi lòng tạc dạ lời dạy của Bác Hồ làm kim chỉ nam trong mọi hành động: Việc gì có lợi cho dân ta phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh. Đấy cũng là giới hạn rộng lớn mà mỗi cán bộ, đảng viên thoả sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của Nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng Đảng
Có thể là hình ảnh về 8 người và mọi người đang đứng

ÔNG CHA TA ĐÁNH GIẶC: NGHI BINH BẢO VỆ ĐOÀN XE


Cuối tháng 2-1969, Tiểu đoàn 102, Binh trạm 32, Bộ tư lệnh Đoàn 559 được lệnh vào nhận hàng hóa ở huyện Bố Trạch (Quảng Bình) và vận chuyển vào chiến trường miền Nam. Tiểu đoàn đã huy động hơn 80 xe vận tải các loại gồm Zil-157, Zil-130, A-30 để chở vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm từ miền Trung chi viện cho miền Nam ruột thịt.
Những ngày đầu xuân, những chú "tuấn mã Trường Sơn" phủ kín lá ngụy trang nối đuôi nhau hành quân vào chiến trường. Trời gần sáng rõ, chiếc xe đi đầu xuyên qua rừng già ra khoảng trống ở lưng chừng núi, bị máy bay trinh sát OV-10 phát hiện và bắn đạn khói. Nhận biết tình huống chẳng lành, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng nhanh chóng chỉ huy đoàn xe lùi lại phía sau, ẩn nấp vào các vách đá, dưới những tán cây cổ thụ, bẻ cành cây ngụy trang kín thân xe.
Với sự “chỉ điểm” của chiếc OV-10, ít phút sau, chiếc phản lực bổ nhào xuống cắt bom đánh phá nhưng không trúng mục tiêu. Khu vực này chưa có trận địa pháo phòng không yểm trợ nên cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 102 chỉ còn cách đánh trả với các loại vũ khí có trong tay. Rất nhanh chóng, sau khi trao đổi với Ban chỉ huy Tiểu đoàn, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng yêu cầu bộ đội lấy súng tiểu liên AK, CKC cơ động ra vị trí cách xa xe ô tô, lợi dụng địa hình, địa vật, khi chiếc OV-10 bay xuống thấp trinh sát mục tiêu là nổ súng ngăn chặn. Do địa hình hai bên là núi cao nên chiếc máy bay OV-10 không dám bay thấp vì sợ bị trúng đạn, việc “chỉ điểm” vì thế không chính xác. Vậy nên máy bay phản lực chỉ thả các loạt bom vu vơ, không trúng được đoàn xe.
Tuy nhiên, kẻ địch cũng không chịu thua, chúng giả vờ quay đi, một lúc sau trở lại trinh sát xem ta có động tĩnh gì không. Lúc này, đoàn xe của Tiểu đoàn 102 vẫn án binh bất động dưới tán rừng già. Chỉ khi nhận thấy tình hình đã an toàn, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng mới cho lệnh đơn vị tiếp tục lên đường xốc tới miền Nam.
(Ghi theo lời kể của Đại tá Nguyễn Thuận Quảng, nguyên giảng viên Khoa Hậu cần-Kỹ thuật, Học viện Quốc phòng).
Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang đứng và ngoài trời

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ!

Ngày 02 tháng 4:
“Việc quản lý, kỷ luật tài chính kém, tinh thần trách nhiệm kém, kiểm tra đôn đốc kém và cho rằng bốn cái đó mở cửa cho tham ô lãng phí”.

Cách đây 100 năm, ngày 2-4-1923, tại tư gia luật sư Phan Văn Trường ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã họp bàn với nhiều Việt kiều đang sống ở Pháp về việc thành lập một tổ chức lấy tên là “Hội Thân ái” để giúp đỡ những đồng bào Việt Nam sống trên đất Pháp. Sau cuộc họp này, hội đã được thành lập ngay trong tháng 4-1923.

Ngày 2-4-1924, Tập san “Inprekorr” của Quốc tế Cộng sản (bản tiếng Pháp) đăng bài “Chủ nghĩa đế quốc Pháp dám làm những gì?” của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi thuật lại sự kiện thực dân Pháp đồng lõa với đế quốc Anh ở Ấn Độ hay chính sách đối với những người dân Tripôli đang trốn sang lánh nạn tại Tuynidi vì bị đế quốc Ý l.ùng b.ắt, bài báo kết luận bằng câu: “Chủ nghĩa đế quốc Pháp quả là không hề ngại ngùng nhúng tay vào những t.ội á.c b.ỉ ổ.i nhất”.

Cũng trong tháng 4-1924, trên Tạp chí “Quốc Tế Nông Dân”, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Nông dân Bắc Phi”, trên cơ sở khảo sát nền văn hóa và đời sống của nông dân ở các nước đã trở thành thuộc địa của Pháp như Tuynidi, Marốc hay Angiêri... Tại đó: “Chế độ thuộc địa Pháp đã phá vỡ tính tập thể của dân bản xứ và thay vào đó bằng sự c.ướp đ.oạt t.rắng t.rợn... Bọn thực dân rốt cuộc là kẻ chiến thắng và những người dân bản xứ phải ngoan ngoãn phục tùng chúng và nhường đất cho chúng”. Bài báo cũng đưa ra câu hỏi: “Chế độ thuộc địa đem lại lợi ích gì cho những người nông dân nghèo nước Pháp? Không! Chỉ có những tên chính khách bẩn thỉu, những bọn con buôn tham lam và tư bản lớn được lợi mà thôi!”. Từ thực tiễn đó, tác giả liên hệ: “Khó có thể nói rằng ai trong số họ: người An Nam ở Đông Dương, người da đen ở Cônggô hay là Xênêgan, hay là người bản xứ ở Bắc Phi, bị b.óc l.ột nhiều hơn?”; rồi đi đến kết luận: “Người Bắc Phi sẽ biến khỏi mặt đất nếu giai cấp vô sản giác ngộ không đến cứu họ khỏi nền “văn minh” quái vật”.

Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Đoàn kết giai cấp”, thuật lại một sự kiện diễn ra trong phong trào công nhân ở Brazil (lúc này đang là thuộc địa của Bồ Đào Nha), để đi đến một kết luận quan trọng: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người b.óc l.ột và giống người bị b.óc l.ột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.

Ngày 2-4-1960, chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Bác nêu lên “tình trạng tham ô lãng phí nhắc từ lâu nhưng lâu nay không ai làm” và phân tích tình trạng đó xuất phát từ việc quản lý, kỷ luật tài chính kém, tinh thần trách nhiệm kém, kiểm tra đôn đốc kém và cho rằng “bốn cái đó mở cửa cho tham ô lãng phí”. Bác chỉ thị cho các bộ phải khắc phục tình trạng trên bằng cuộc vận động kết hợp với phong trào thi đua sản xuất, kết hợp tuyên truyền giáo dục, kỷ luật, thưởng phạt và tăng cường công tác kiểm tra./.
Theo sách: "Hành trình theo chân Bác"!
Yêu nước ST.

LÀM GÌ ĐỂ GIỮ VỮNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA!

         Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị của nước ta. Điều này đang thách thức nghiêm trọng chủ quyền chính trị (quyền tự quyết về mô hình, thể chế chính trị) của Việt Nam.

Toàn cầu hoá
là xu hướng tất yếu
của thời đại
Toàn cầu hóa là thuật ngữ dùng để mô tả sự tăng lên về mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, văn hóa và người dân, diễn ra thông qua thương mại xuyên biên giới về hàng hóa và dịch vụ, công nghệ và các dòng vốn đầu tư, con người và thông tin.

Một trong những mặt trái của toàn cầu hóa đó là những tác động tiêu cực đối với chủ quyền quốc gia. Nói đến chủ quyền quốc gia là nói đến quyền lực tối cao của quốc gia trong việc quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại. Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:

Tác động đến chủ quyền chính trị: Toàn cầu hóa làm suy giảm quyền lực của chính phủ và nhà nước - quốc gia trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế (nhất là đối với quản lý kinh tế vĩ mô). Cùng với các mối quan hệ kinh tế xuyên biên giới và sự hình thành các tổ chức, thiết chế kinh tế quốc tế và các chuẩn mực kinh tế toàn cầu, các quốc gia đã, đang và tiếp tục sẽ không còn được tự quyết một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của mình.

Chẳng hạn, khi các quốc gia tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì phải tuân thủ các quy định, nguyên tắc trong thương mại quốc tế do WTO đề ra thay vì hành động theo ý chí riêng của mình. Cùng với đó, toàn cầu hóa cũng làm suy yếu quyền lực quốc gia trong việc tự quyết thể chế, cấu trúc chính trị. Rõ ràng, chính trị ngày càng bị định hướng bởi thị trường và khi mở cửa nền kinh tế để tham gia vào toàn cầu hóa thì nền chính trị trong nước cũng phải thích nghi với những áp lực từ thị trường xuyên quốc gia. Ví dụ, khi các nền kinh tế cùng tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu thì các quy định về thương mại quốc tế mà đã được các tổ chức kinh tế quốc tế thông qua phải được nội luật hóa thành luật pháp quốc gia của các nước thành viên (nghĩa là đồng bộ hóa luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế) hoặc các quốc gia buộc phải cải cách về kinh tế, chính trị để thuận lợi hóa việc trao đổi, buôn bán hàng hóa, dịch vụ với các nước trên thế giới.

Ngoài ra, toàn cầu hóa còn dẫn đến sự nhất thể hóa về chính trị mà sự hình thành Liên minh châu Âu (EU) là bằng chứng rõ ràng nhất. Sự ra đời của các thể chế, cấu trúc chính trị quốc tế đã góp phần quản lý, điều tiết các mối quan hệ xuyên quốc gia thông qua việc tạo ra một tiến trình xây dựng thể chế mà ở đó tổ chức mới là người quyết định các vấn đề chung liên quan đến tất cả các thành viên.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch còn lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị của nước ta. Điều này đang thách thức nghiêm trọng chủ quyền chính trị (quyền tự quyết về mô hình, thể chế chính trị) của Việt Nam.

Tác động đến chủ quyền kinh tế: Các mối quan hệ thương mại quốc tế, đầu tư và các mạng lưới kinh tế do các tập đoàn xuyên quốc gia tạo ra là một trong các đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế. Do đó, có thể nói các tập đoàn xuyên quốc gia mới là chủ thể chính vận hành hệ thống thương mại và đầu tư toàn cầu; các quốc gia đóng vai trò điều tiết, quản lý vĩ mô và tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư quốc tế (bằng chứng là các hiệp định thương mại tự do mà các nước tham gia nhằm mục đích chính là thuận lợi hóa hoạt động thương mại quốc tế - vốn chủ yếu do các tập đoàn xuyên quốc gia thực hiện). Cùng với đó là sự phát triển, mở rộng hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia, chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia cũng ngày càng suy giảm. Thực tế cho thấy phần lớn quyền khai thác, kinh doanh các nguồn tài nguyên thiên nhiên chiến lược như dầu mỏ, kim loại quý hiếm,… chủ yếu thuộc về các tập đoàn xuyên quốc gia. Ngoài ra, hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia hiện nay cũng đang thách thức khả năng thu thuế của các chính phủ trên thế giới. Điều này có nghĩa là làm suy yếu khả năng quản lý, vận hành nền kinh tế của các chính phủ.

Bên cạnh những thuận lợi, những thời cơ, toàn cầu hoá cũng có những tác động tiêu cực đến chủ quyền quốc gia - dân tộc.
Với nhận thức toàn cầu hóa là xu thế lớn, tất yếu của thời đại và muốn phát triển chúng ta không thể đứng ngoài quá trình đó, Đảng ta đã chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chủ trương nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa “độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” - thực chất là bảo vệ chủ quyền quốc gia trong hội nhập quốc tế. 

Chủ trương này đã cho thấy, Đảng ta đã nhận thức rõ những nguy cơ, thách thức của toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia.

Trước tình hình mới, để bảo vệ chủ quyền quốc giatrong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần phải có những giải pháp đồng bộ:

Một là, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về mặt lý luận và cả thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh đó là con đường đúng đắn, là sự lựa chọn của lịch sử và phù hợp nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân ta. Thực tế cho thấy, để giữ vững độc lập, tự chủ thì cần bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hay pháp trị… để can thiệp vào đời sống chính trị của nước ta. Liên quan đến vấn đề chế độ xã hội chủ nghĩa thì chúng ta tuyệt đối không cho phép bên ngoài can thiệp hay tranh cãi.

Hai là, chủ động tham gia xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới, đồng thờixây dựng các chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế. Hiện nay, chúng ta đã tham gia khoảng hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng nhất. Để bảo đảm chủ quyền quốc gia, Việt Nam cần chủ động tham gia xây dựng các chuẩn mực mới trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc chính đáng, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế - chính trị của đất nước và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Ba là, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý các vấn đề xuyên biên giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của các mối quan hệ xuyên quốc gia và những thách thức từ các tập đoàn xuyên quốc gia đặt ra, chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật cùng các cơ chế quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế để quản lý hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia cũng như nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề kinh tế xuyên biên giới.

Bốn là, chúng ta cần đổi mới nhận thức và có cách tiếp cận toàn diện đối với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không chỉ có tác động tiêu cực đối với chủ quyền quốc gia mà còn có tác động ở chiều ngược lại đó là góp phần củng cố độc lập, chủ quyền quốc gia. Chúng ta sẽ không thể giữ vững độc lập, tự chủ trong tình trạng đối đầu hoặc bị cô lập. 

Ngoài ra, thông qua việc tham gia vào các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới sẽ giúp chúng ta khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền chính trị thế giới. Nguyên tắc cơ bản nhất trong quan hệ quốc tế đó chính là nguyên tắc chủ quyền, do đó, khi tham gia nền chính trị quốc tế nghĩa là các quốc gia cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia của nhau và cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau./.
Yêu nước ST.

Một mưu sâu, kế hiểm cần vạch trần, tiếp tục đấu tranh

  

Sự tái diễn mưu sâu, kế hiểm ở Việt Nam

Trước tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới vô cùng phức tạp như hiện nay, muốn bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đạt hiệu quả; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống hệ tư tưởng tư sản, lối sống thực dụng phương Tây và sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại mà những người chống cộng đang cố tình gieo rắc, thẩm thấu, muốn nó xâm nhập nhanh vào Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta còn phải vạch trần sự giả dối và kiên quyết, kiên trì đấu tranh khắc phục những tàn dư tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản do chế độ cũ để lại, còn tồn tại dai dẳng ở nước ta, trong Quân đội ta.

Cùng với việc chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đang cố tình tấn công xuyên tạc bản chất của quân đội cách mạng, bôi nhọ thanh danh “Bộ đội Cụ Hồ”, tái diễn âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, biến Quân đội hành đội quân vô dụng.

 Âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là đem hệ tư tưởng và chính trị tư sản, chủ nghĩa cơ hội – xét lại thay thế chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, họ cố tình làm cho Quân đội ta từ bỏ lý tưởng XHCN, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chấp nhận con đường TBCN theo sự sắp đặt của phương Tây và những người theo đuôi họ; làm cho Đảng, Nhà nước ta mất chỗ dựa vững chắc là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân để dễ bề thao túng chính trị vì mục đích phản động.

Chiêu thức “gây gió từ bên ngoài để tạo bão ở bên trong” là dùng loại vũ khí tư tưởng tư sản để tạo ra tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh của kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ phương Tây với cách “đánh hội đồng” như kiểu NATO, EU và phương Tây đang áp dụng tấn công, bao vây, cấm vận, phong tỏa nước Nga hiện nay để “làm con ngáo ộp” đe dọa những người dân “yếu bóng vía” ở Việt Nam.

Từ đó, họ ra sức xuyên tạc chủ trương, đường lối đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Cổ suy cho chiêu trò này là việc sùng bái, ca ngợi một chiều sức mạnh của đồng đô la, của kinh tế thị trường và “sự phóng khoáng của nền dân chủ tư sản” và lối sống thực dụng phương Tây. Đây là cái cách mà những người đối lập với Đảng ta dùng nó để mê hoặc, làm lóa mắt không ít người dân “mơ mộng cuộc sống mới” bằng sự hấp dẫn của đồng đô la và lối sống thực dụng phương Tây cùng với ảo vọng “đổi đời”, “không cần làm vẫn sung sướng”. Họ hy vọng rằng, những tư tưởng tư sản bằng nhiều con đường khác nhau, nhất là thông qua mạng xã hội, sớm đến Việt Nam, xâm nhập, thẩm lậu nhanh chóng vào đầu óc người dân, nhất là cán bộ, chiến sĩ quân đội và lớp trẻ, biến họ thành những con người khác, ngưỡng mộ lối sống phương Tây, theo đuôi họ.

Thế nhưng, do mất cảnh giác, một số cơ quan kinh tế và báo chí ở nước ta đôi khi đã đăng tải những thông tin có lợi cho đối phương một cách vô ý thức, đã ca ngợi không công cho CNTB và phương Tây. Sự mập mờ, không phân biệt rõ đúng sai, lợi và hại trong thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta: Việt Nam sẵn sàng làm bạn, làm đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thông qua con đường mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), đã bị các thế lực thù địch lợi dụng đưa hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa xấu độc và lối sống thực dụng của phương Tây xâm nhập vào nước ta.

Điều này ít nhiều đã làm cho không ít người dân, nhất là một số người có học thức, đã từng “Tây học” có tâm lý “dị ứng” với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật, các nguyên của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cho rằng học thuyết này đã lỗi thời, không phù hợp với Việt Nam, cần “thay máu cho hệ tư tưởng”… Từ đó, tán phát, làm lây lan hệ tư tưởng tư sản và lối sống thực dụng phương Tây với sự kích hoạt những ham thích mù quáng cũng như sự ham muốn, khoái lạc một cách thiếu tỉnh táo, thiếu óc phê phán, thiếu phản biện đối với một số sản phẩm trí tuệ, văn hóa mà phương Tây cho là “cấp tiến”, là “mốt”, hết lời ca ngợi, đang tìm mọi cách du nhập, thẩm lậu vào nước ta.

Không bao giờ mắc mưu của địch

Quân đội là một xã hội thu nhỏ và đương nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng tư sản và nọc độc của các sản phẩm văn hóa độc hại và lối sống thực dụng của phương Tây, dù chưa phải là nhiều bởi con em bộ đội từ nhân dân mà ra, từ xã hội mà vào quân đội. Song, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, xét một cách tổng thể, sự xâm nhập trực tiếp của hệ tư tưởng tư sản và văn hóa phương Tây vào Quân đội tất nhiên là khó khăn hơn so với môi trường và đời sống dân sự. Bởi, Quân đội ta có kỷ luật “sắt”, đã có bề dày lịch sử truyền thống gần 80 năm theo Đảng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Hơn thế, Quân đội ta đã trải qua “thử lửa chiến tranh” nên bản lĩnh rất kiện định vũng vàng, vì thế chẳng có thế lực thù địch nào có thể lung lạc được bản chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của người quân nhân cách mạng. Cho nên, các thế lực thù địch đã và đang cố gắng tìm mô thức, thủ đoạn mới nhằm pha loãng chính trị của Đảng ta trong Quân đội bằng cách bôi đen hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, xuyên tạc bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; từ đó tạo ra sự thờ ơ về chính trị trong toàn quân đến mức có thể thực hiện được âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, “phi đảng cộng sản” Nhà nước Việt Nam.

Điệp khúc này đã diễn trong quân đội Liên Xô và quân đội các nước Đông Âu trước đây. Bây giờ họ muốn tái diễn nó ở Việt Nam nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” thông qua thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta, đe dọa sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Chúng ta đã dự lường hết những biến chứng, các kịch bản mà họ rắp tâm thực hiện để chia rẽ, gây sự khủng hoảng về lãnh đạo trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta với sự hình thành các phe phái, các nhóm lợi ích, cũng như sự khác biệt về quan điểm chính trị trong hạt nhân lãnh đạo của Đảng.

Với cách nhìn đó, các thế lực thù địch đã nhầm to và thất vọng về sự kiên định, không bị tha hóa, biến chất của Đảng ta trong Quân đội. Đảng ta đứng vững, không bao giờ mắc mưu “diễn biến hòa bình”, bị “phi chính trị hóa” quân đội. Rõ ràng, kịch bản này không thể thực hiện ở Việt Nam bởi sự lãnh đạo của Đảng ta thể hiện rõ sự đoàn kết, nhất trí cao; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đều ý thức rõ ràng về sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng, trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta đã giữ gìn sự trong sáng như giữ gìn con ngươi của mắt mình khi tuyên truyền và đem lại nhận thức chung cho toàn xã hội; mọi người dân đều nhận thức rõ: bất cứ ai, thế lực nào có hành vi chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì đó là một tội ác và nó lập tức bị lên án, phán xét theo đạo lý và pháp lý Việt Nam.

Cho nên lề thói thực dụng chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa độc hại của phương Tây được các thế lực thù địch sử dụng nhằm pha loãng môi trường chính trị ở Việt Nam; qua đó phá hoại chính trị, tư tưởng, tổ chức quân đội đã bị quân và dân ta tẩy chay, luôn đề phòng, cảnh giác cao; không bao giờ mắc mưu địch. Những người chống cộng đã chủ quan, nhầm lẫn và tự chuốc lấy thất bại bởi các âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam đã bất thành.

Cần nói cho rõ rằng, điều mong muốn của các thế lực thù địch là thông qua tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, gieo rắc lối sống thực dụng, các sản phẩm văn hóa phương Tây vào Quân đội là cố tình làm tăng lên số lượng những tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của Quân đội ta có tư tưởng và lợi ích theo lề thói thực dụng và lợi ích nhóm trong Quân đội. Những người chống cộng đã hy vọng là đến một lúc nào đó sức mạnh của đồng đô la có thể phát huy tác dụng, mua chuộc được những người đứng đầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; từ đó làm biến dạng tổ chức Quân đội, hiện thực hóa âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội; gạt bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ra khỏi Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sự khoét sâu mâu thuẫn giữa cấp trên và cấp dưới, giữa đồng cấp với nhau, giữa các đơn vị với nhau…sẽ làm mất dần tinh thần đoàn kết nhất trí, sự tương thân, tương trợ lẫn nhau của một đội quân cách mạng. Theo đó, mục tiêu, lý tưởng, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Quân đội ta, của các chi bộ, tổ đảng chỉ còn lại quan hệ bằng lợi ích vật chất lạnh lùng theo lợi ích nhóm. Đến lúc ấy, hệ tư tưởng tư sản và sác sản phẩm văn hóa xấu độc của phương Tây chiếm lĩnh trận địa tư tưởng, văn hóa trong Quân đội; lề thói thực dụng chủ nghĩa sẽ giương oai, tác quái, làm cho sức mạnh chiến đấu của Quân đội suy giảm nghiêm trọng; sợi dây thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân và Quân đội sẽ bị cắt đứt; Đảng sẽ “chênh vênh” vì mất chỗ dựa. Cái điệp khúc “đánh bại quân đội Liên Xô” được tái diễn ở Việt Nam có thể thành công.

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – bí kíp mọi thành công

Các thế lực thù địch hy vọng rằng, trong các tổ chức đảng và công tác đảng, công tác chính trị của Quân đội sẽ không còn hiệu lực, sẽ không còn sự tự phê bình và phê bình; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cuộc vận động “phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy. Sự toan tính thực dụng lan tràn từ trên xuống dưới, khi mỗi quân nhân chỉ lấy lợi ích làm động cơ phục vụ. Điều đó sẽ dẫn đến thái độ, hành vi cầm chừng, các quân nhân cũng chỉ nghĩ làm gì và làm như thế nào để mình có lợi sẽ thay thế sự trung thực, dũng cảm đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng.

Chúng ta đã nhận diện rất rõ âm mưu thâm độc của chiêu trò “phi chính trị hóa” quân đội – một đòn đánh thâm sâu, cốt để tách sự lãnh đạo của Đảng ra khỏi Quân đội ta, làm cho Quân đội bị lạc đường, chệch hướng XHCN, Quân đội trở nên vô dụng; lúc đó, các thế lực thù địch sẽ nhanh chóng hạ gục Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội ta.

Bài học này đã được áp dụng thành công ở Liên Xô và Đông Âu nhưng các thế lực thù địch không thể áp dụng ở Việt Nam và họ đã thất bại thảm hại khi cuộc đấu tranh chống “phi chính trị hóa”, “phi đảng hóa” ở Việt Nam đã trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta. Trong đó, sự kỳ vọng áp đặt sự thống trị của hệ tư tưởng tư sản của phương Tây lên xã hội Việt Nam đã thất bại thảm hại.

Chúng ta đã luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quân đội và trong xã hội Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta đã giáng cho chủ nghĩa thực dụng và văn hóa phương Tây những đòn chí mạng. Nguy cơ đe dọa, làm suy yếu và phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của “Bộ đội Cụ Hồ” đã hoàn toàn thất bại.

Một đội quân có truyền thống, bản chất cách mạng gần 80 năm, đã “đánh đông dẹp tây”; làm cho hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã phải cuốn cờ, rút hết quân về nước. Một quân đội như như thế thật anh hùng, đâu dễ “bắt nạt”, một quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân thì chắc chắn không cho phép bất cứ thế lực nào thực hiện “phi đảng cộng sản” trong xã hội Việt Nam; “phi chính trị hóa” trong Quân đội ta. Đó là một điều chắc chắn./.


Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên để xây dựng Đảng vững mạnh

 Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên là một khâu rất quan trọng của công tác đảng viên, có tác động nhiều mặt đến các khâu khác của công tác đảng viên như đánh giá, phân tích chất lượng, khen thưởng, kỷ luật, xây dựng kế hoạch công tác đảng viên. Do đó, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên góp phần quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, vì sức mạnh của toàn Đảng là do sức mạnh của đội ngũ đảng viên tạo nên.

Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên là một nội dung, biện pháp cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng Đảng góp phần củng cố đội ngũ,nâng cao chất lượng đảng viên. Với phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, thời gian qua, nhiều quy định, hướng dẫn, biện pháp đã được ban hành để quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên như: Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều đảng viên không được làm”; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới; quy định, hướng dẫn về phát thẻ, đổi thẻ và quản lý thẻ đảng viên; quy định, hướng dẫn về quản lý hồ sơ đảng viên; quy định, hướng dẫn về giới thiệu sinh hoạt đảng; quy định về xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảng viên; quy định quản lý đảng viên đi công tác, học tập tiếp xúc với người nước ngoài…

Nhìn chung, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã tích cực, chủ động cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên, đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp về giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, phân công công tác, quản lý, đánh giá chất lượng đảng viên, đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Việc quản lý đảng viên trước hết được thông qua sinh hoạt chi bộ hằng tháng. Đối với những đảng viên đi làm ăn xa, cấp ủy cơ sở đã thực hiện nghiêm túc việc hướng dẫn các đảng viên thực hiện đúng quy trình, thủ tục đăng ký tạm trú với chính quyền nơi đến, giữ gìn tư cách đảng viên, đóng đảng phí đầy đủ; hết thời gian đều có nhận xét của cơ quan, chính quyền địa phương ở nơi đã tạm trú.

Phần lớn đảng viên vững vàng về tư tưởng, chính trị, trung thành với sự nghiệp cách mạng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên. Kết quả công tác quản lý đảng viên là một nội dung, biện pháp cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên và hoạt động của chi bộ.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế: “Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được quan tâm đúng mức; việc rà soát, sàng lọc đảng viên chưa thường xuyên, thiếu cương quyết. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút, số đảng viên bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng”.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên,mỗi cấp ủy Đảng cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, các cấp uỷ cần có nhận thức đúng về công tác quản lý đảng viên. Đólà quản lý toàn diện về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, quản lý công việc, quản lý sinh hoạt, đời sống, quan hệ xã hội cả ở cơ quan và nơi cư trú, kết hợp việc quản lý đảng viên của tổ chức đảng với sự tham gia quản lý của chính quyền, đoàn thể, đề cao tinh thần tự quản của đảng viên. Ngoài những nội dung đó, hiện nay các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm quản lý số đảng viên đi làm ăn xa, số đảng viên làm việc ở những cơ quan quan trọng của Đảng và Nhà nước. Cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát đảng viên về lập trường tư tưởng, quan điểm chính trị, ý thức chấp hành chỉ thị, Nghị quyết, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; về hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công; mối quan hệ giữa đảng viên với quần chúng. Cần căn cứ vào quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều đảng viên không được làm” để quản lý đảng viên cho tốt.

Thứ hai, mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để chi bộ kiểm tra, giám sát thực hiện. Đây là biện pháp quan trọng thể hiện tính tích cực, chủ động và khoa học trong công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên của Đảng. Kế hoạch thực hiện và chương trình hành động, rèn luyện của đảng viên phải trên cơ sở nghị quyết của chi bộ, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình và chức trách nhiệm vụ được giao; căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, điểm mạnh, điểm yếu và khả năng của từng cá nhân. Kế hoạch cần cụ thể, chỉ rõ nội dung đăng ký, thời gian hoàn thành, tự đánh giá kết quả thực hiện nhằm bảo đảm sự chặt chẽ nghiêm túc và làm cơ sở để chi bộ theo dõi, nhận xét, đánh giá cuối năm cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho từng cá nhân thực hiện tốt kế hoạch đề ra.

Thứ ba, thực hiện đúng việc giới thiệu và quản lý đảng viên đang công tác về nơi cư trú (Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú). Cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên công tác cần chủ động liên hệ giới thiệu đảng viên với chi ủy hoặc đảng ủy cơ sở nơi đảng viên cư trú; có kế hoạch kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện các nghĩa vụ công dân nơi cư trú; đại diện cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang công tác cần định kỳ hằng năm và khi cần thiết tiến hành trao đổi ý kiến với đại diện cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang cư trú để nắm tình hình đảng viên. Cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên cư trú cần chủ động nắm chắc số lượng đảng viên, họ tên, địa chỉ công tác… của từng đảng viên cư trú ở phường, xã, khu dân cư của mình. Định kỳ và khi cần thông báo cho đảng viên biết tình hình, nhiệm vụ của địa phương có liên quan để đảng viên nắm được thông tin, gương mẫu thực hiện, vận động gia đình và nhân dân thực hiện. Định kỳ hằng năm hoặc khi cần thông báo với cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang công tác về tình hình đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nơi cư trú; đề nghị biểu dương những đảng viên thực hiện tốt và góp ý kiến với những đảng viên chưa thực hiện tốt hoặc có thiếu sót, khuyết điểm ở nơi cư trú. Thực hiện tốt quy định này sẽ tạo điều kiện cho đảng viên gần gũi với nhân dân, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; khắc phục những biểu hiện sống xa dân, thiếu trách nhiệm trong công việc của dân nơi cư trú.

Thứ tư, phân công nhiệm vụ hợp lý cho đảng viên để buộc đảng viên phải có trách nhiệm với dân, với cơ quan đơn vị, địa phương, và cũng để thử thách, rèn luyện đảng viên. Có phân công, giao nhiệm vụ thì mới có nội dung để kiểm tra, giám sát và đánh giá đảng viên. Mọi đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bao gồm nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, nhiệm vụ do tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị và các đoàn thể chính trị – xã hội phân công. Các cấp uỷ, chi bộ phải có kế hoạch phân công nhiệm vụ cho đảng viên cụ thể, sát hợp, ghi thành biên bản, vào sổ phân công đảng viên. Hằng tháng, trong sinh hoạt chi bộ, chi uỷ phải kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ đã được phân công. Cuối năm, phải căn cứ vào đó mà đánh giá, phân loại. Muốn chi bộ tốt, đảng bộ tốt thì phải luôn rà soát nhiệm vụ, luôn kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm để làm cho tốt hơn.

Vì thế, các chi bộ cần bảo đảm là tất cả các đảng viên đều phải tham gia công việc của Đảng, đều phải được phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với khả năng, điều kiện của từng đảng viên ngay từ đầu năm. Đảng viên xây dựng kế hoạch thực hiện, cuối năm tự đánh giá kết quả thực hiện và tự đánh giá bản thân. Chi bộ có trách nhiệm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ đưa vào nội dung đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm và làm căn cứ đề ra chủ trương, biện pháp giáo dục, rèn luyện đảng viên – đây cũng là cơ sở xét khen thưởng, kỷ luật, bố trí sử dụng đảng viên.

“Dân thụ hưởng” không phải là khẩu hiệu suông

 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm chủ trương “dân thụ hưởng” vào nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…