Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

. NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ THUẬN LỢI

Một là, tăng trưởng kinh tế trong những năm qua đã thể hiện rõ nét những thành tựu đổi mới, nâng cao đáng kể chất lượng đời sống nhân dân. Những thành quả của tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã khẳng định đường lối xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy, không có con đường nào chỉ có thuận lợi mà không có khó khăn, hay nói cách khác - không bao giờ có con đường chỉ đầy hoa hồng. Chính vì vậy, không thể vì những khó khăn trước mắt mà hoài nghi con đường chân chính - đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã chọn.

Hai là, chính trị, xã hội ổn định, dân trí ngày càng cao, các quyền tự do, dân chủ ngày càng được thực hành rộng rãi trong xã hội. Những giá trị này hoàn toàn phù hợp với lý tưởng của Mác, với tâm nguyện của Hồ Chí Minh. Coi trọng tự do và dân chủ, quá trình dân chủ hóa trong Đảng và dân chủ hóa trong xã hội chính là thành công của tất cả cán bộ, đảng viên, của mọi người dân Việt Nam. Đây là nền tảng để có được sự ổn định của đất nước, đại đoàn kết dân tộc, là tiền đề để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Ba là, nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha quan tâm đến tình hình đất nước. Khác với một số xã hội người dân có thể lãnh cảm với chính trị, chỉ quan tâm đến cá nhân mà không quan tâm đến cái chung thì ngược lại, ở Việt Nam trên nhiều phương diện, tinh thần trách nhiệm xã hội của người dân rất cao. Người dân không chỉ biết đến quyền lợi, mà còn thấu hiểu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình; không chỉ biết đến cá nhân mà còn biết đến cộng đồng, đến cái chung; không chỉ quan tâm đến bản thân mình mà còn quan tâm đến người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Mác - Lênin và Hồ Chí Minh.

Bốn là, quá trình hội nhập quốc tế mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới, biết được nhiều kinh nghiệm quốc tế, học được từ nhiều tấm gương của thế giới, tiếp xúc với các hệ giá trị, các tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó vươn lên để khẳng định vị thế Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, rộng mở, bao dung, truyền thống này rất thích hợp với yêu cầu hội nhập của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu bám rễ được ở Việt Nam, hòa quyện với văn hóa Việt Nam chính nhờ tinh thần bao dung này.

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Một là, xây dựng niềm tin tuyệt đối của dân đối với Đảng, đối với chế độ là vấn đề khó khăn. Nguyên nhân trực tiếp của thách thức trên chính là tệ nạn nhóm lợi ích, tham nhũng. Đặc biệt là “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

Hai là, đã xuất hiện hiện tượng một bộ phận đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân lơi là, thậm chí coi thường việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuất hiện khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến củng cố nền tảng tư tưởng. Tính chiến đấu về mặt tư tưởng chưa được đề cao. Xuất hiện tâm lý ngại đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận. Một số người coi thường lý luận, chỉ quan tâm đến thực tiễn mà không hiểu rằng lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời.

Ba là, sự tấn công của các thế lực thù địch và phản động ngày càng tinh vi hơn. Trước đây, các thế lực thù địch và phản động thường xuyên tạc, phủ nhận trực tiếp nền tảng tư tưởng của Đảng, hoặc tấn công cá nhân, bôi nhọ đời tư các nhà kinh điển và các lãnh tụ thì trong thời gian qua, bên cạnh các phương thức cũ, chúng tấn công về mặt lý luận ngày càng nhiều hơn. Ngày càng có nhiều bài viết dài, sâu, đứng trên lập trường, cách tiếp cận phương Tây, trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ở một mức độ tinh vi hơn, nhiều lý thuyết được dịch, truyền bá vào Việt Nam nhằm pha loãng hoặc nhằm dần thay thế cho hệ tư tưởng chính thống.

Một số kẻ cơ hội chính trị hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa dân chủ xã hội, cho rằng chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải đạt được thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản. Một số người đã phản bác khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa, phản đối chuyên chính vô sản; phê phán những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, như chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị thặng dư,... Một số khác lại cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống chưa hoàn chỉnh, các lý luận về mặt triết học, kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều điểm lạc hậu. Tất cả mưu toan thâm hiểm và tinh vi đó của các thế lực thù địch và phản động cần phải bị bóc trần và đấu tranh ngăn chặn.


LÀM THẤT BẠI CÁC TIN GIẢ TRÊN MẠNG XÃ HỘI


Mặc dù tin giả xuất hiện từ lâu, ở mọi thời kỳ song những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội thì tin giả cũng xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành vấn nạn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, nhận diện tin giả, nguyên nhân xuất hiện và tác hại của nó làm cơ sở nâng cao cảnh giác, chủ động phòng, chống tin giả, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hiện nay.

Tuy chưa có định nghĩa rõ ràng, thống nhất về tin giả nhưng có thể hiểu tin giả là những thông tin sai, được tán phát dưới vỏ bọc tin tức. Cách hiểu này sát với nghĩa của từ “fake news” trong tiếng Anh, hiện đang được sử dụng nhiều trên truyền thông. Những tin giả kiểu xuyên tạc có ở tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... song chúng thường xuất hiện khi có những sự kiện chính trị, xã hội quan trọng như đại hội đảng, bầu cử, họp Quốc hội, các chính sách, luật pháp mới ban hành, hay các hiện tượng "nóng", gây tranh cãi trong đời sống hiện thực, chẳng hạn thiên tai, dịch bệnh, các vụ việc vi phạm pháp luật... Các sự kiện này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hình ảnh, video clip nhưng được chỉnh sửa hoặc cắt ghép và thường được đăng tải trên các trang thông tin không chính thống, qua các nền tảng mạng xã hội và các ứng dụng tin nhắn hay các công cụ tìm kiếm trên internet. Động cơ của các đối tượng tán phát tin tức giả loại này có thể vì nhiều mục đích khác nhau như: Tài chính, chính trị, hạ uy tín của cá nhân, tổ chức một cách có chủ đích hay chỉ đơn giản là để trêu đùa, nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng, động cơ của các đối tượng xây dựng và tán phát tin giả liên quan đến tài chính.

Việt Nam đã có khoảng 75 triệu người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để giải trí, liên hệ với bạn bè, chia sẻ khoảnh khắc, mẹo vặt trong cuộc sống và kể cả quảng cáo bán hàng(1). Thống kê của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao cho thấy, từ khi dịch Covid-19 xuất hiện, trên không gian mạng Việt Nam đã có hơn 900.000 thông tin liên quan đến tình hình dịch bệnh. Theo Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, chỉ hơn hai tháng, công an các đơn vị, địa phương trong cả nước đã xác minh, làm việc với gần 700 trường hợp đưa tin sai sự thật; đã có hơn 300 đối tượng trong nước tung tin giả về dịch Covid-19 trên không gian mạng bị cơ quan chức năng xử lý(2). Điều đó cho thấy, tin giả trên không gian mạng là vấn đề rất phức tạp hiện nay.

Có nhiều nguyên nhân làm xuất hiện và lan truyền tin giả. Đối với tin sai lệch, một mặt do sự thiếu cẩn trọng của người tạo và đưa tin trên các phương tiện truyền thông, mặt khác do sự chủ quan, thiếu trách nhiệm của người quản lý khi duyệt và cho phép lưu hành tin. Đối với tin xuyên tạc, sở dĩ loại tin này được tán phát rất nhanh so với khả năng phát hiện, ngăn chặn và xử lý của cơ quan chức năng là do: 1) Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ khiến một người có thể dễ dàng tạo lập một website, một trang blog, fanpage... trên các mạng xã hội mà không phải bỏ ra khoản chi phí nào, dẫn đến làm gia tăng lực lượng tạo dựng, tán phát tin giả và việc kiểm soát các tin giả là vấn đề không đơn giản; 2) cũng do sự phát triển của công nghệ, các đối tượng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sản xuất và tán phát tin giả trực tuyến một cách nhanh chóng song việc phát hiện và xử lý với các đối tượng này đang còn nhiều khó khăn; 3) do những tin giả được chia sẻ rộng rãi trên truyền thông xã hội, sau đó được Google và các công cụ tìm kiếm khác xếp hạng cao giúp chúng được tìm thấy dễ dàng hơn, làm cho các tin giả gia tăng với số lượng lớn và lan truyền nhanh; 4) chính những thông tin sai lệch từ các cơ quan báo chí trên các phương tiện truyền thông là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tin xuyên tạc; 5) từ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng mạng xã hội để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; 6) do mục tiêu trục lợi hoặc quảng bá danh tiếng từ việc "câu like", "câu view" của một số cá nhân, tổ chức và nhận thức, trách nhiệm của người sử dụng mạng xã hội chưa cao trong tiếp nhận và chia sẻ các tin giả; 7) năng lực trong quản lý, phát hiện, ngăn chặn tin giả của các cơ quan chức năng còn hạn chế và các chế tài xử lý với các đối tượng tạo lập và tán phát tin giả còn bất cập...

Tin giả, nhất là tin xuyên tạc được tạo dựng, tán phát từ các cá nhân hay tổ chức trên mạng xã hội liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đều gây nên những hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân, cộng đồng và văn hóa dân tộc cũng như thái độ, suy nghĩ và quyết định của người dân với nhiều vấn đề của đất nước. Một trong những hệ quả không hề nhỏ mà các tin tức giả gây ra, đó là làm suy giảm niềm tin của công chúng vào truyền thông của đất nước nói chung và báo chí nói riêng, khiến cho công chúng không xác định được đâu là những nguồn tin đáng tin cậy để tiếp nhận... Đáng lưu ý, trong điều kiện các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang triệt để lợi dụng internet và mạng xã hội để tiến hành “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, điều này không chỉ làm gia tăng số lượng tin giả mà tính nguy hại của nó cũng tăng lên...

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, phát hiện, ngăn chặn và phòng, chống tin giả là việc làm cấp bách hiện nay. Để phòng, chống tin giả trên không gian mạng đòi hỏi sự vào cuộc của tất cả các cấp, ngành, các lực lượng cũng như mỗi người dân với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho mọi người dân về tác hại của tin giả cũng như hành vi vi phạm pháp luật trong tạo dựng và tán phát tin giả.

Thực tế cho thấy, ngoại trừ một bộ phận cá nhân, tổ chức cố tình tạo dựng và tán phát tin giả nhằm mục đích tài chính, chính trị, còn đa số cộng đồng mạng tham gia chia sẻ, thậm chí có trường hợp cũng tạo lập và tán phát những thông tin sai lệch song điều này là do tâm lý hiếu kỳ hoặc để thu hút sự chú ý của cư dân mạng. Điều đó cho thấy, đa số người tham gia mạng xã hội chưa hiểu rõ về tác hại của tin giả và những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tham gia mạng xã hội. Bởi vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường, gia đình và xã hội về nhận thức, trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức tham gia mạng xã hội. Tập trung giáo dục cho người dân cách thức nhận biết tin giả, nâng cao nhận thức của người tiếp nhận thông tin, biết sàng lọc các nguồn thông tin để tiếp nhận và chia sẻ lại trên các mạng xã hội, đồng thời tránh tung tin thất thiệt vi phạm quy định pháp luật. Đi đôi với việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi tin giả trên mạng xã hội.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong phòng, chống tin giả.

Thời gian qua, chúng ta đã ban hành Luật An ninh mạng và nhiều nghị định liên quan đến quy định xử lý các hành vi vi phạm về tin giả, gần đây nhất là Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3-2-2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử chính thức có hiệu lực từ ngày 15-4-2020. Điều này góp phần tạo hành lang pháp lý trong quản lý, xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến tin giả. Tuy nhiên, vẫn tồn tại số lượng lớn tin giả trên mạng xã hội, cho thấy tính răn đe của các quy định hiện hành vẫn còn mức độ. Bởi vậy, tiếp tục có những quy định “mạnh tay” hơn để xử lý các đối tượng xây dựng và tán phát tin giả là hết sức cần thiết. Hiện tại, nhiều nước trên thế giới đã ban hành những đạo luật riêng để xử lý tin giả, trong đó Nghị viện Đức ngày 30-6-2017 đã thông qua một dự luật nhằm xử lý các phát ngôn gây thù hận, các tài liệu phạm tội và các tin tức giả trên các mạng xã hội. Theo đó, các nền tảng mạng xã hội phải xóa bỏ các nội dung kể trên trong vòng 24 giờ sau khi nhận được thông báo, nếu không sẽ phải đối mặt với mức phạt lên tới 50 triệu euro.

Ba là, nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng và các điều kiện bảo đảm cho phòng, chống tin giả.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng các phương tiện truyền thông và người sử dụng gia tăng, nhất là mạng xã hội, đây là cơ sở, điều kiện để tin giả xuất hiện và lan truyền với tốc độ nhanh, đặc biệt trước âm mưu, thủ đoạn lợi dụng mạng xã hội để chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải chú trọng nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ đủ để phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý kịp thời tin giả cũng như các đối tượng tạo lập, tán phát tin giả, tránh để bị động dẫn đến hậu quả không mong muốn.

Bốn là, tăng cường thông tin chính thống, bảo đảm chính xác, kịp thời, góp phần ngăn chặn tin giả.

Cùng với việc giáo dục, nâng cao nhận thức của người tiếp nhận thông tin, các cơ quan truyền thông, báo chí cần đẩy mạnh các nội dung thông tin, bảo đảm kịp thời, chính xác, nhất là trước các vụ việc, sự kiện “nóng”, được dư luận đặc biệt quan tâm. Qua đó định hướng, dẫn dắt thông tin đúng trên mạng xã hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tin giả, tin tiêu cực. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí một mặt cần làm tốt việc bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ phóng viên, mặt khác nêu cao trách nhiệm trong quản lý, kiểm tra, xét duyệt chặt chẽ các thông tin trước khi cho đăng tải, tránh xảy ra những sai sót để các đối tượng lợi dụng tán phát tin giả.

Năm là, phối hợp chặt chẽ với các nhà mạng trong quản lý, xử lý tin giả.

Trước nhiều chỉ trích của các quốc gia, trong đó có Việt Nam về sự thiếu quan tâm của các nhà mạng đối với vấn nạn tin giả, gần đây, quản lý một số mạng xã hội, công cụ tìm kiếm như: Facebook, YouTube, Google,... đã đưa ra cam kết và thực hiện một số biện pháp nhằm chống lại thông tin giả mạo được chia sẻ trên các nền tảng của mình. Điều này được đánh giá là bước tiến lớn trong việc đẩy lùi nạn tin giả của các mạng xã hội. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng của Việt Nam cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ và có các biện pháp kiên quyết hơn để các nhà mạng phải vào cuộc một cách thực sự trong việc ngăn chặn, phát hiện và kịp thời gỡ bỏ, không để tin giả lan truyền trên mạng xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến an ninh mạng nói riêng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước nói chung, nhất là trong dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng. 


Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cho Tổng khởi nghĩa thành công


Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của LLVT, gồm các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu đã trở thành một trong những lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trong cả nước.

Căn cứ vào điều kiện đất nước ta bị thực dân Pháp áp bức bóc lột nặng nề, Đảng ta mới ra đời đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chính trị là phải “tổ chức đội tự vệ của công nông”. Theo chủ trương đó, trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, nhiều đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) lần lượt ra đời ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) đã ra nghị quyết về Đội tự vệ, xác định những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của đội tự vệ, cơ sở đầu tiên để xây dựng LLVT cách mạng của Đảng.

Vào những năm trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa, giành chính quyền, một số đội du kích, tự vệ chiến đấu lần lượt hình thành ở những nơi có phong trào cách mạng, kể cả miền núi, trung du và đồng bằng. Trên cơ sở quân du kích hình thành trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Đảng quyết định thành lập Đội du kích Bắc Sơn (2-1941). Tại các tỉnh Nam Kỳ, quân du kích ra đời, phát triển trong quá trình chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940). Đó là những đội du kích tập trung làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng và chiến đấu bảo vệ các khu căn cứ, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích tại các huyện, xã.

Đội du kích Bắc Sơn đã qua rèn luyện, thử thách trong cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chấn chỉnh tổ chức và đổi tên thành Trung đội Cứu quốc quân 1 (sau Hội nghị Trung ương 8), sau đó lần lượt tổ chức Trung đội Cứu quốc quân 2 (9-1941) và Trung đội Cứu quốc quân 3 (2-1944). Phương châm xây dựng, hoạt động của Cứu quốc quân là vừa chiến đấu để bảo vệ, vừa mở rộng, phát triển và củng cố khu căn cứ.

Trên cơ sở Cứu quốc quân và các đội du kích, tự vệ chiến đấu phát triển ở các chiến khu Cao-Bắc-Lạng, Thái-Hà-Tuyên, để có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ hơn, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, theo chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh. Với việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh dấu bước phát triển về tổ chức của LLVT cách mạng, gồm ba thứ quân bước đầu hình thành: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực; đội du kích tập trung của các tỉnh, huyện và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở khắp các làng xã.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), cùng với sự phát triển của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân, hàng loạt đội du kích, tự vệ chiến đấu tiếp tục hình thành ở các chiến khu, các căn cứ cách mạng trong cả nước. Điển hình là Đội du kích Ba Tơ hình thành trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (3-1945), Trung đội giải phóng quân ra đời ở chiến khu Quang Trung và Du kích cách mạng quân hình thành ở chiến khu Trần Hưng Đạo. Các đội vũ trang này ngày càng phát triển trong cao trào chống Nhật, cứu nước.

Để chuẩn bị một LLVT quy mô tổ chức lớn đón thời cơ chuyển lên Tổng khởi nghĩa, Đảng gấp rút phát triển đội quân chủ lực, thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Cứu quốc quân và các đơn vị vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải phóng quân (15-5-1945). Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu bước phát triển về quy mô tổ chức của LLVT cách mạng của Đảng, gồm ba thứ quân cơ bản được hình thành, trong đó các đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp thành bộ đội chủ lực giải phóng quân; các đơn vị du kích tập trung của các tỉnh, huyện chuyển thành giải phóng quân địa phương và các đội du kích, tự vệ tổ chức ở các căn cứ vũ trang, từ miền Bắc vào miền Trung đến tận miền Nam.

Thực hiện mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và đồng chí Hồ Chí Minh, Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu trở thành lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành khởi nghĩa. Từ ngày 14 đến 18-8-1945, LLVT hỗ trợ nhân dân nhiều địa phương tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở các xã, huyện, tiến lên giải phóng thị xã. Từ ngày 16 đến 20-8, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân tiến đánh giải phóng các thị xã (nay là thành phố) Thái Nguyên, Tuyên Quang. Đặc biệt, thắng lợi của khởi nghĩa ở các thành phố lớn Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) đã đập tan sức kháng cự của quân Nhật và bọn tay sai, góp phần tác động mạnh tới các địa phương cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước cơ bản hoàn thành.

Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 khẳng định, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đúng đắn và chỉ đạo xây dựng, phát triển LLVT với quy mô tổ chức, mở đầu từ các đội tự vệ công nông, đội du kích, tự vệ chiến đấu, Cứu quốc quân đến đội quân chủ lực, tiến tới hình thành LLVT ba thứ quân. Đồng thời, tổ chức, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả vai trò nòng cốt của LLVT, cùng toàn dân chuyển từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở các địa phương, phát triển thành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc.VNĐ

 

Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay


Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã và đang gây ra nhiều tác hại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những biến thể của “diễn biến hòa bình”, với những biểu hiện, như: xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên,... trong đó có đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là quá trình diễn ra trong nhận thức, tư tưởng, thái độ, tình cảm, hành vi của mỗi người theo chiều hướng tiêu cực, suy giảm và biến đổi về bản chất, đi ngược lại bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là tổng thể hoạt động của tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thể trong Quân đội và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện các chủ trương, biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, chính sách và luật pháp để ngăn chặn nguồn gốc, nguyên nhân và khắc phục biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mỗi sĩ quan trẻ, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ vững mạnh về mọi mặt, có lý tưởng, hoài bão phấn đấu vươn lên, khẳng định tài năng, trí tuệ trong thực tiễn.

Đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội là những người được đào tạo cơ bản, có nhiệt huyết trong công việc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt. Tuy nhiên, do chưa trải nghiệm nhiều trong thực tiễn, nhất là những tình huống phức tạp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, nên khi có tình huống xảy ra dễ lúng túng, mất phương hướng, dẫn đến mắc vào mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Nhận rõ điều đó, những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội; thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, tạo sự chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, việc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Một số chủ thể, lực lượng chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này, còn có tư tưởng chủ quan, coi nhẹ, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; nội dung, hình thức, biện pháp còn đơn điệu, thiếu đồng bộ, tính hiệu quả chưa cao. Do vậy, một số biểu hiện lệch chuẩn giá trị trong nhận thức và hành động của sĩ quan trẻ chưa được khắc phục kịp thời. Một bộ phận sĩ quan trẻ còn bị chi phối bởi những tiêu cực ngoài xã hội và sự kích động, chống phá của các thế lực thù địch, nên chưa tích cực, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, nhất là học tập chính trị; thiếu yên tâm xây dựng Quân đội, bản lĩnh chính trị chưa thật vững vàng, vi phạm vào quy định về những điều đảng viên không được làm, có biểu hiện xa rời thực tiễn, cơ sở, v.v.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” đã đạt được những kết quả tích cực, song còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Trong khi đó, tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, khoét sâu vào những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… đã tác động nhiều chiều đến sự phấn đấu, rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Bởi vậy, việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ đang là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay; trong phạm vi bài viết, xin đề xuất một số nội dung, biện pháp sau đây: 

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ Quân đội hiện nay. Nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ luôn có vị trí quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động phòng, chống với biểu hiện này. Nếu các chủ thể, lực lượng nhận thức không thống nhất, không xác định rõ trách nhiệm thì không thể phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Trong đó, cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị - xã hội trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các chủ thể cần nhận thức rõ các biểu hiện, tác hại, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ hiện nay; những vấn đề nổi lên cần quan tâm giải quyết, không để lây lan, kéo dài, chi phối đến tình hình chung toàn đơn vị. Trên cơ sở đó, xác định yêu cầu, biện pháp thiết thực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ ở các cơ quan, đơn vị trong Quân đội hiện nay.

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Sĩ quan trẻ trong Quân đội sinh ra và lớn lên trong hoà bình, nhận thức, tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, lợi ích, quan hệ xã hội có sự phát triển rất cao, song cũng rất đa dạng, phức tạp. Đặc biệt, họ chưa được rèn luyện, thử thách trước khi vào Quân đội nên dễ mắc phải những khuyết điểm, hạn chế về phẩm chất chính tri, đạo đức, lối sống, ý chí quyết tâm, sự hy sinh, cống hiến, trách nhiệm đối với Tổ quốc, gia đình và bản thân. Nếu không chủ động phòng ngừa những diễn biến tiêu cực về tâm lý, tư tưởng thì dễ xảy những hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân chính dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ. Để chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần tích cực đổi mới nội dung, hình thức tiến hành phù hợp lứa tuổi trẻ, đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị, song phải toàn diện cả về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác quản lý. Đối với công tác tư tưởng, tích cực đổi mới nội dung giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; nắm, quản lý, phân tích, đánh giá, phân loại và giải quyết tư tưởng; dự báo xu hướng vận động của những tư tưởng tiêu cực dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đối với công tác tổ chức, chú trọng vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong công tác quản lý, đổi mới hình thức, biện pháp quản lý các mối quan hệ xã hội, quản lý tư tưởng, phát huy dân chủ trong chấp hành kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy, môi trường văn hóa,... đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; tăng cường tổ chức các buổi tọa đàm, thông tin chuyên đề trên các phương tiện thông tin đại chúng; duy trì và phát huy tốt các hình thức thông báo chính trị, đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truyền thanh nội bộ, góp phần nâng cao nhận thức về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để sĩ quan trẻ tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của mình.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, các cơ quan chức năng đối với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội chịu trách nhiệm lãnh đạo nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ ở cơ quan, đơn vị mình; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, được thể hiện trong nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng, kế hoạch công tác của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và hoạt động của các tổ chức quần chúng. Cơ quan chính trị các cấp làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất với đảng ủy cấp mình những chủ trương, biện pháp lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền thực hiện chủ trương, nghị quyết của đảng ủy cấp mình, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên về nhiệm vụ quan trọng này. Với tư cách là người chủ trì về chính trị của đơn vị, chính ủy, chính trị viên trực tiếp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chính trị thuộc quyền, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đồng thời, trực tiếp tiến hành các hình thức tuyên truyền, giáo dục, nói chuyện thời sự, báo cáo chuyên đề cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhân dân nơi đóng quân về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội theo cương vị, chức trách được giao.

Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ. Thông qua tự học, tự giáo dục, rèn luyện, đội ngũ sĩ quan trẻ củng cố thêm những kiến thức về pháp luật, kỷ luật Quân đội và các kiến thức cần thiết khác. Đồng thời, bồi đắp, cập nhật thêm nhiều kiến thức mới, giúp cho quân nhân không bị hụt hẫng, lạc hậu trước sự phát triển của thực tiễn và sự chống phá của các thế lực thù địch. Từ đó, bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, ý thức chấp hành kỷ luật,… góp phần hình thành và phát triển bản lĩnh cho đội ngũ sĩ quan trẻ trước diễn biến phức tạp của tình hình. Vì vậy, cùng với sự giáo dục của tổ chức, đoàn thể, mỗi sĩ quan trẻ phải chủ động xây dựng cho mình kế hoạch, nội dung, biện pháp tự học tập, tự giáo dục, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đơn vị và chức trách của mỗi người. Thông qua những hoạt động đó, giúp cho đội ngũ sĩ quan trẻ đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu, nhận thức rõ quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc; tìm ra cách thức, biện pháp tự rèn luyện, tự học tập để phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả hơn. Để phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của sĩ quan trẻ, cần chú trọng xây dựng động cơ đúng đắn, thái độ, trách nhiệm cao trong mọi hoạt động; quan tâm, định hướng, giúp sĩ quan trẻ xây dựng nội dung, kế hoạch, phương pháp tự học tập, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp kế hoạch công tác chung của đơn vị; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, uốn nắn kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, v.v.

Năm là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của sĩ quan trẻ. Trước hết, cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ, ứng xử có văn hóa trong đơn vị theo đúng điều lệnh, điều lệ Quân đội; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Cùng với đó, tổ chức tốt các hoạt động thi đua, khen thưởng gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và các phong trào, cuộc vận động khác; chú trọng nhân rộng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”, mô hình sáng tạo, hiệu quả

Dể nhân rộng và phát huy. Đồng thời, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; nhu cầu về đọc báo, đọc sách, văn hóa, văn nghệ, xem phim, thể dục - thể thao, chế độ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho sĩ quan trẻ. Những nhu cầu chính đáng đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, chăm lo giải quyết hài hòa, thỏa đáng, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, hợp tình, hợp lý, không máy móc, cứng nhắc. Trên cơ sở đó, khơi dậy, động viên tinh thần, góp phần ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay.Bài 1. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên

Cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.


Quân đội đẩy mạnh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng


Chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh đó.

Hiện nay, công nghệ thông tin, không gian mạng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi và xảo quyệt. Chúng thiết lập các trang website, blog, mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”, phát tán các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu, độc để chống phá. Thủ đoạn chính của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót khuyết điểm; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ mối quan hệ mật thiết Quân đội với nhân dân, v.v. Qua đó, thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và Quân đội; truyền bá lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mục ruỗng về tổ chức, băng hoại đạo đức xã hội. Các thông tin được chúng nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn thật - giả, tốt - xấu, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm. Quân đội là một trong những đối tượng chúng chống phá quyết liệt, vì đây là lực lượng chủ yếu, nòng cốt bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của chúng là “phi chính trị hóa” Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất công cụ bạo lực sắc bén, không còn giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.

Nhận thức đúng tình hình đó, công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chặt chẽ. Cấp ủy đảng các cấp trong toàn quân đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Các cơ quan, đơn vị đã chủ động xây dựng cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, chuyên sâu, tham gia đấu tranh và bảo đảm các điều kiện vật chất thực hiện công tác này ở từng cấp. Đồng thời, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp đã phát huy vai trò nòng cốt trong lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Cùng với đó, toàn quân đã làm tốt công tác giáo dục, định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng và thường xuyên đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức đấu tranh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện. Nhờ đó, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh mạng được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Những kết quả quan trọng đó đã khẳng định Quân đội ta luôn xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng thời gian qua còn có những hạn chế, như: lực lượng chuyên trách của một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự chủ động, nhạy bén, sắc sảo; một số sự việc đã bị kẻ xấu lợi dụng, lan truyền nhưng chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời; hình thức tiến hành chủ yếu vẫn là chia sẻ các bài viết có sẵn trên mạng; tần suất những bài viết, thông tin có chiều sâu về lý luận và thực tiễn mang tính định hướng, tính chiến đấu để đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch chưa nhiều, nên chưa tạo được sự chú ý rộng rãi và sức lan tỏa đối với cộng đồng. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong công tác quan trọng này. Trước hết, cần xác định: đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, diễn biến phức tạp, quyết liệt, thường xuyên và lâu dài. Vì vậy, để thống nhất nhận thức và hành động, cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh không khoan nhượng này. Thực hiện tốt Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”; đưa nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ hoặc chuyên đề của cấp ủy đảng và nội dung sinh hoạt của tổ chức đảng, sát với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Cấp ủy các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá phù hợp với nhận thức từng đối tượng cụ thể cần tuyên truyền, đấu tranh. Đồng thời, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình trong từng thời kỳ; không giáo điều, rập khuôn máy móc. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đề cao ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định phát ngôn,... nắm chắc tình hình trên mạng xã hội qua blog, facebook,… của những quân nhân có biểu hiện dao động, suy thoái về tư tưởng, chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để có biện pháp giáo dục; trường hợp cố tình vi phạm những quy định phải cương quyết xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Hai là, đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Muốn đấu tranh có hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ trì các cấp phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để làm được điều này, các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Các học viện, nhà trường nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, nghiên cứu lý luận chính trị, cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn trong quan điểm của Đảng về quân sự quốc phòng; luận giải thuyết phục, thấu đáo những vấn đề mới nảy sinh. Đồng thời, kết hợp đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới. Nắm chắc, hiểu rõ về tính hai mặt của không gian mạng cũng như âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch; tạo khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trước các thông tin xấu độc, cũng như tăng cường sức “đề kháng” để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Ba là, chủ động cung cấp thông tin, định hướng nhận thức tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Hiện nay, Việt Nam có hơn 58 triệu người đã sử dụng tài khoản facebook và tiếp nhận rất nhiều thông tin qua mạng xã hội này. Thế nhưng, những nguồn thông tin chính thống và có thẩm quyền từ các cơ quan chức năng trên các trang mạng xã hội lại rất ít. Khi có sự việc nhạy cảm xảy ra thường phản ứng chậm, hình thức thông tin chưa phù hợp,... khiến cho tin giả, tin bịa đặt, tin suy diễn xuất hiện tràn lan, không có nguồn để xác thực, kiểm chứng tính đúng sai, thật giả lẫn lộn, gây xáo trộn, hoang mang dư luận công chúng. Vì vậy, các cơ quan chức năng phải nhạy bén, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin theo Luật An ninh mạng và Quy chế phát ngôn, nhất là các vấn đề có liên quan đến Quân đội. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của trên, chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn đơn vị đóng quân. Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp tập trung biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo,… làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Ở từng cấp, cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác từ hệ thống ngân hàng đã được biên soạn sẵn, làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh.

Bốn là, tích cực ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Các cơ quan, đơn vị kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Bộ Tư lệnh 86, theo chức năng, nhiệm vụ đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Hoàn thiện, đưa vào khai thác, sử dụng các phần mềm quản lý kết quả đấu tranh và hỗ trợ các hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, thực hiện các chiến dịch truyền thông chủ động. Nghiên cứu, đề xuất việc sử dụng phần mềm Mocha Viettel, sản xuất điện thoại di động nội bộ, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí bảo đảm an toàn, vừa góp phần quản lý tình hình tư tưởng, dư luận và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trên không gian mạng.

Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu, các đơn vị Quân đội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.


Một số biện pháp về phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong quân đội ta hiện nay

 

Chiến lược “diễn biến hoà bình” là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch, chống các n­ước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc và đư­ợc tiến hành trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, ngoại giao,v.v…theo ph­ương thức thẩm thấu dần từng b­ước tạo sự chuyển hoá từ bên trong. “Diễn biến hoà bình” sử dụng biện pháp phi quân sự là chủ yếu, kết hợp với bạo loạn lật đổ can thiệp vũ trang khi có điều kiện thời cơ nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, giành thắng lợi cho chủ nghĩa t­ư bản mà không cần chiến tranh. Trong đó, các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng và đi sâu chống phá nội bộ Đảng cộng sản, chính quyền, chuyển hoá đội ngũ cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, phi chính trị hoá quân đội và công an.

Trong tình hình mới, âm m­ưu phi chính trị hoá quân đội của kẻ thù tuy chưa thể làm ảnh hưởng đến tinh thần, sức chiến đấu của quân đội ta; như­ng sự tồn tại của nó là hết sức nguy hiểm. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế xã hội của đất n­ước, nhất là mặt trái của cơ chế kinh tế thị trư­ờng đã ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức lối sống của một số ít cán bộ, chiến sỹ trong quân đội ta, dẫn đến “Một số cán bộ, chiến sĩ thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, kém cảnh giác với âm m­ưu thủ đoạn của địch, làm việc cầm chừng, thiếu chí tiến thủ, có những ngư­ời phai nhạt lý tư­ởng, dao động, cá biệt chịu ảnh h­ưởng của quan điểm sai trái, cơ hội. Một số ít biến chất sa đoạ, tự do vô kỷ luật, tham nhũng, thu vén cá nhân, quan liêu, quân phiệt, gây tác hại xấu” như trong Nghị quyết 79/ ĐUQSTƯ đã chỉ ra. Do vậy, để đấu tranh làm thất bại chiến lư­ợc “diễn biến hoà bình” đặc biệt là âm mư­u “phi chính trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cần làm tốt một số biện pháp cơ bản sau:

Một là: Th­ường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị tư­ tư­ởng cho cán bộ chiến sỹ. Bởi vì, bản lĩnh chính trị của bộ đội ta là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội và từng đơn vị, giữ vai trò định hư­ớng thúc đẩy hành động và hành vi của bộ đội. Các thế lực thù địch hiểu rất rõ rằng: sức mạnh trong hành động của con ng­ười đều bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc với bản lĩnh chính trị vững vàng. Chính niềm tin sắt đá vào con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, niềm tin tất thắng vào mục tiêu lý t­ưởng chiến đấu của quân đội đã tạo nên sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của quân đội và nhân dân ta. Vì vậy, trong chiến l­ược “diễn biến hoà bình” của kẻ thù với âm m­ưu chiến thắng không cần chiến tranh, chúng đã tập trung phá hoại về chính trị t­ư t­ưởng trong quân đội ta. Yêu cầu về bản lĩnh chính trị của bộ đội hiện nay có nội dung chủ yếu là: Sự kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư­ tư­ởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, có niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Sắc sảo, nhạy bén về chính trị, ứng xử kịp thời và đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội và từng đơn vị. Đồng thời,  kiên quyết đấu tranh bảo vệ đ­ường lối quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm t­ư t­ưởng sai trái và phản động, các biểu hiện  mơ hồ, ảo t­ưởng, hoài nghi dao động, lơ là mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ.

Hai là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, xây dựng mọi ph­ương án chiến đấu, luyện tập thành thạo mọi ph­ương án không để bị bất ngờ khi có tình huống xảy ra. Đây là một trong những biện pháp quan trọng, nhằm bảo đảm cho các đơn vị trong quân đội đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống; là biện pháp trực tiếp đánh bại âm m­ưu thủ đoạn của kẻ thù hòng phá hoại quân đội về tổ chức, làm suy giảm khả năng chiến đấu, vô hiệu hoá sức mạnh chiến đấu của quân đội làm ảnh hư­ởng trực tiếp đến yếu tố chính trị t­ư tư­ởng của mỗi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội ta. Mặt khác xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, luyện tập và thành thạo các phư­ơng án chiến đấu còn là cơ sở bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sỹ giữ vững niềm tin vào thắng lợi khi tình huống diễn biến phức tạp xảy ra. Đồng thời, phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn văn kiện chiến đấu, nhất là phư­ơng án phòng chống bạo loạn; tập trung nâng cao chất lư­ợng huấn luyện để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng tổ chức đảng là then chốt. Duy trì chặt chẽ đơn vị theo nề nếp chính quy và các chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm đơn vị sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ đ­ược giao trong mọi tình huống.

Ba là: Lãnh đạo, duy trì chặt chẽ công tác quản lý nội bộ, ngăn chặn và đập tan các hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp, tình báo của các thế lực thù địch. Đây là biện pháp tích cực và hữu hiệu nhằm chống lại có hiệu quả m­ưu đồ hoạt động gián điệp tình báo của chúng. Trong tình hình hiện nay, vấn đề này càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, đòi hỏi phải đư­ợc tiến hành chặt chẽ, chủ động và tích cực trong từng đơn vị quân đội. Mặt khác đối với các thế lực thù địch tiến hành chiến tranh tâm lý, hoạt động gián điệp và tình báo là một thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt nhằm khai thác bí mật quốc gia, bí mật quân sự, và lôi kéo mua chuộc cán bộ ta, gây tâm lý bất bình mơ hồ ảo t­ưởng, phá hoại về chính trị tư tư­ởng. Do đó, nội dung quản lý chính trị nội bộ ở trong từng đơn vị phải toàn diện; đặc biệt, trong nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị t­ư tưởng cần tập trung vào quản lý lập tr­ường quan điểm, thái độ chính trị, các mối quan hệ của từng quân nhân. Đồng thời phải coi trọng quản lý chặt chẽ cả tổ chức và con ngư­ời bảo đảm đơn vị luôn vững vàng kiên định về chính trị tư­ t­ưởng, trong sạch về tổ chức, thực sự xứng đáng là lực l­ượng chính trị tin cậy và trung thành của Đảng và nhân dân.

Bốn là: Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ đảng viên và các tổ chức, địa ph­ương, đơn vị bạn trong việc phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị t­­ư t­ưởng. Trong tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của quân đội cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực l­­ượng, các tổ chức tạo nên sức mạnh tổng hợp để phòng chống “diễn biến hoà bình”: Trong quân đội trư­ớc hết là các tổ chức đảng; tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức chỉ huy điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, đây là các tổ chức cơ bản nhất trong tổ chức hiện các nhiệm vụ chính trị của các đơn vị trong quân đội ta. Vì vậy, trong phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị tư­ tư­ởng cần phải coi trọng và phát huy vai trò của các tổ chức này.

Phòng chống “diễn biến hoà bình”, của các thế lực thù địch chống phá cách mạng n­ước ta là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc ta. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đư­ờng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi đ­ường lối đổi mới của Đảng, thư­ờng xuyên cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội, kịp thời xử lý có hiệu quả và đúng đắn các tình huống có thể xảy ra là trực tiếp góp phần đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, của các thế lực thù địch đối với quân đội ta./.


Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch

Các thế lực thù địch đã và đang sử dụng nhiều phương tiện, bằng nhiều con đường và với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt tấn công chúng ta trên các hướng chính sau:

Một là, xuyên tạc, bài bác, phủ định học thuyết về CNXH khoa học của Mác, cho rằng lý luận Mác-Lênin chỉ đúng cho thời kỳ tư bản công nghiệp (nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX), nay loài người đã qua giai đoạn văn minh công nghiệp, bước vào thời kỳ văn minh hậu công nghiệp, văn minh tin học - kỹ thuật số, nên lý luận của hai ông không còn phù hợp. Họ ngụy biện rằng: Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu (1989 - 1991) là thể hiện sự lạc hậu, bất cập của học thuyết Mác-Lênin về con đường đi lên CNXH, CNCS; Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN là đi vào ngõ cụt, không có tiền đồ. Song song với việc này, họ tuyên truyền quảng bá cho những giá trị của Mỹ và tính "ưu việt" của chế độ TBCN.

Hai là, xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân ta trong quá trình đổi mới, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước ta trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong xã hội XHCN, quy mọi yếu kém ở Việt Nam đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo; đòi ra báo tư nhân, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập

Ba là, xuyên tạc lịch sử, hạ bệ thần tượng, phủ nhận thắng lợi lịch sử có tính quốc tế của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã được dư luận quốc tế, loài người tiến bộ và được các tổ chức quốc tế như Liên Hợp quốc, UNESCO xác nhận và tôn vinh, ca ngợi.

Bốn là, bằng mọi cách tác động vào nội bộ ta, dựng chuyện có phái này, phái nọ (phái bảo thủ, phái cấp tiến…) trong các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm tạo ra nghi ngờ nhau trong nội bộ, làm suy giảm đoàn kết trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân… Hoạt động này hết sức ráo riết, dồn dập vào các thời kỳ chúng ta chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc.

Năm , vu cáo ta vi phạm dân chủ nhân quyền, cố tình đổi trắng thay đen, dung chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số. Cùng với việc phủ nhận học thuyết Mác-Lênin và đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, việc vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền đang là một hướng tấn công nguy hiểm nhất mà Mỹ và các thế lực thù địch ráo riết hoạt động chống phá Việt Nam. Họ luôn đưa vấn đề này để chống ta trên các diễn đàn quốc tế, trong các cuộc trao đổi đa phương, song phương, và gắn vấn đề dân chủ, nhân quyền với các cam kết về kinh tế và ngoại giao. Họ công khai tuyên bố: "Vấn đề nhân quyền đang và sẽ là trọng tâm của sự bang gian giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Sự khác biệt về nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã cản trở mối giao hảo giữa hai nước và sự tiến bộ chậm chạp về nhân quyền đã làm tắc nghẽn sự phát triển của Việt Nam... Hiện nay, những báo cáo vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo trầm trọng nhất đều xuất phát từ những vùng như Cao Nguyên Trung và Bắc phần Việt Nam. Kêu gọi chính quyền Việt Nam cho phép những nhà ngoại giao và các cơ quan quốc tế tiếp xúc những nhà lãnh đạo địa phương và các nơi thờ phụng…".

Trong khi Mỹ chống phá chúng ta hết sức quyết liệt về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, thì chính Hoa Kỳ là một trong những quốc gia vi phạm hết sức nghiêm trọng về dân chủ, nhân quyền. Vì thế, chúng ta cần tập hợp đầy đủ thông tin để phản bác, vạch trần bản chất lừa dối, chống cộng của Oa-sinh-tơn.

Nhận dạng về các thế lực thù địch

Tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi Chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, có hoạt động chống phá ta trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị đều là thành phần của "các thế lực thù địch".

Ở đây cần lưu ý: Những ai, tổ chức hay cá nhân hoạt động với mục đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam thì mới xem là thế lực thù địch. Tư tưởng, chính trị là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp và nhạy cảm. Trên lĩnh vực này, ngay trong một gia đình, giữa các thành viên, các thế hệ vẫn có "xung đột"; ngay trong một quốc gia không phải khi nào cũng đạt được đồng thuận, thống nhất cao. Trong quan hệ quốc tế lại càng phức tạp và khó khăn đi đến thống nhất khi lợi ích của các quốc gia dân tộc còn nhiều điểm khác biệt nhau, thậm chí đối lập nhau. Do đó, dù có ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, cũng không được xem là "thù địch". Nếu không phải là "thù địch” thì cần qua trao đổi, đối thoại dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, vô tư, tôn trọng nhau để dần dần thu hẹp khoảng cách nhận thức.

Đồng thời, phải thấy rằng: Về mặt ý thức hệ, Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cho nên hầu hết các nước TBCN và các nước phát triển theo con đường TBCN đều không "mặn mà" với thể chế chính trị của chúng ta; trong thâm tâm họ vẫn muốn chúng ta phát triển theo con đường TBCN. Các nước tư bản phát triển nói riêng, các đồng minh chí cốt của Mỹ nói chung, ở mức độ khác nhau đều “cùng hội cùng thuyền" với Mỹ trong hoạt động phá hoại chống Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Về mặt khoa học phải nói như vậy để tránh ngộ nhận, mơ hồ về chính trị. Trong giao tiếp quốc tế, trên cơ sở nhận thức đúng đắn về đối tượng, đối tác, cần tranh thủ tối đa sự đồng thuận và ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với chúng ta.

Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang trong giai đoạn hiện nay

  

Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.

Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân

Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:  Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.

Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.

Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu

Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh…

 

Nội dung của cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay

a. Cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kẻ thù nhận thức rõ rằng, sở dĩ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tồn tại và tiếp tục phát triển được, bất chấp mọi khó khăn, thử thách là do chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội, đã có ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều thế hệ con người Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và xã hội ta. Một trong những nguyên nhân khiến cho một số nước xã hội chủ nghĩa tan rã nhanh chóng là do kẻ thù đã thành công trong việc xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, gạt bỏ ảnh hưởng của nó trong các thế hệ cách mạng đương thời và kế tiếp.

Tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước được hình thành và từ giữa những năm 20 của thế kỷ này còng với chủ nghĩa Mác - Lênin đã đi vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đóng vai trò quyết định trong việc kết hợp 3 tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam và được thể hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo và được Hội nghị hợp nhất nhất trí thông qua. Từ đó về sau, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được bổ sung, phát triển và được quán triệt trong đường lối của Đảng, trong toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào cách mạng thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như đã trình bày trên đây nên các thế lực thù địch tìm đủ mọi thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, với ý đồ xoá bỏ ảnh hưởng đã bám rễ sâu trong xã hội. Đây là mục tiêu hàng đầu trong âm mưu chống phá ta về tư tưởng của chiến lược "diễn biến hoà bình".

b. Đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng bước loại trừ vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kẻ thù biết rất rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, do Hồ Chí Minh sáng lập là nguồn gốc của mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Với đường lối đúng đắn và bằng những tấm gương hy sinh cao cả của hàng vạn đảng viên, Đảng ta đã chiếm được mềm tin của đông đảo các tầng lớp nhân dân và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, uy tín của Đảng cao thì không một thế lực nào đó có mạnh đến mấy cũng không thể làm cho cách mạng Việt Nam đi chệch khỏi con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn.

Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và làm chỉ nam cho hành động của mình.

Kẻ thù nhận thức rõ nếu không loại trừ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể xoá bỏ được ảnh hưởng sâu rộng đã bám rễ vào xã hội Việt Nam và ngược lại nếu không tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì không chỉ phá hoại được Đảng Cộng sản, do đó đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng với mưu đồ loại trừ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược "diễn biến hoà bình" chống ta về tư tưởng.

c. Truyền bá tư tưởng tư sản, tuyên truyền dân chủ, tự do kiểu tư sản, lối sống thực dụng, hưởng lạc, đề cao cá nhân, làm xa rời những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Con người sống không thể không có tư tưởng, lý tưởng, chí ít cũng phải có suy nghĩ trước khi hành động.

Trong đời sống xã hội cũng như ở từng con người đều có quy luật tư tưởng tìm đến những khoảng trống. Một khi các thế lực thù địch đã đẩy lùi hoặc xoá bỏ được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo ra được "một khoảng trống" trong đời sống tinh thần của cán bộ và nhân dân ta thì chúng có điều kiện để đưa các triết lý, các học thuyết, các giá trị của hệ tư tưởng tư sản cũng như các chuẩn mực về đạo đức, lối sống của giai cấp bóc lột nhanh chóng và lấp cho đầy cái khoảng trống này. Hai việc này tuy khác nhau nhưng không tách rời nhau. Chúng được các thế lực thù địch tiến hành đồng thời xen kẽ nhau, cái nọ hỗ trợ cho cái kia.

Về mặt chiến lược, các thế lực thù địch rất coi trọng mục tiêu này. Chúng coi việc thực hiện mục tiêu này là cách tích cực nhất, triệt để nhất để loại trừ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các tư tưởng tiến bộ khác ra khỏi đời sống xã hội, đồng thời cũng là điều kiện tiên quyết bảo đảm vững chắc cho sự thay thế của chế độ tư bản chủ nghĩa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa.

d. Mục tiêu thứ tư là gieo rắc sự hoài nghi, tâm lý bất mãn, sự bất bình trong các tầng lớp nhân dân, kích động mâu thuẫn nội bộ trong Đảng, các cơ quan Nhà nước mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, lôi kéo tập hợp những phần tử bất mãn, cơ hội, chống đối, phản động, tạo dựng ngọn cờ, cố gắng hình thành những lực lượng đối lập để khi có thời cơ thì giành chính quyền bằng "đấu tranh nghị trường" hoặc bạo loạn lật đổ.

Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay

 

Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới

Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.

Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.


Tính chất của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay

Cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay là cuộc đấu tranh chính trị. Các lực lượng thù địch tiến hành điên cuồng cuộc đấu tranh này nhằm đạt mục tiêu chính trị: làm biến chất, đổi màu Đảng Cộng sản tiến tới xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu cuối cùng của chúng là tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để đạt mục tiêu đó, các thế lực thù địch đều tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, coi đó là điểm mấu chốt, làm sụp đổ lòng tin, làm mất phương hướng hành động của Đảng Cộng sản và nhân dân. Họ dã tiến hành thực hiện ý đồ này một cách kiên trì, nhất quán và có bài bản về phương pháp, thủ đoạn. Vì vậy, những tiêu điểm lý luận, chủ thuyết mà họ nêu ra để tấn công, đả kích vào những vấn đề quan điểm lý luận, thực tiễn cơ bản nhất là: cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền con người, vấn đề dân chủ, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Song, họ không chỉ tiến công về tư tưởng, lý luận. Họ còn tập trung xuyên tạc lịch sử, gây mất đoàn kết nội bộ, bịa đặt, nói xấu cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đảng viên. Thủ đoạn của họ cực kỳ tinh vi. Họ cố tình khai thác những nhân tố bên trong, tạo dựng ngọn cờ trong nội bộ để "dùng Đảng Cộng sản xoá cộng sản". Thời gian gần đây có thể thấy một số thủ đoạn sau:

Một là, với những thủ đoạn lắt léo, tinh vi dưới các chiêu bài mị dân như: Sự nhích lại gần nhau, giải phóng tư tưởng cạnh tranh hoà bình, dân chủ, nhân quyền... để đánh vào tâm tư, nguyện vọng, ước mong của quần chúng, nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên. Những thủ đoạn, chiêu bài trên đây được tác động vào quần chúng, một bộ phận cán bộ, đảng viên thông qua các hình thức, thủ đoạn, phương thức tác động vào tư tưởng làm nảy sinh những nghi vực, mâu thuẫn, mơ hồ ngay trong con người và tổ chức dẫn đến tự triệt tiêu sức mạnh của tô chức. Có thể nói, yếu tố tư tưởng chi phối toàn bộ hoạt động "diễn biến hoà bình" trên tất cả các lĩnh vực.

Hai là, do tư tưởng là nền tảng, kim chỉ nam cho hành động, cho nên những thay đổi chế độ xã hội, sự mở đầu của các cuộc cách mạng xã hội bao giờ cũng được bắt đầu từ tư tưởng. Trước khi cách mạng tư sản bùng nổ, hàng trăm năm, tư tưởng tư sản tiến bộ về triết học, kinh tế, xã hội, đạo đức, tự do dân chủ đã tiến công chủ nghĩa phong kiến, mở đường cho các cuộc cách mạng tư sản thắng lợi. Chủ nghĩa Mác ra đời là mốc lịch sử đánh dấu sự chuẩn bị về tư tưởng cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917 trước hết là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng tư tưởng vô sản của giai cấp công nhân trước các hệ tư tưởng đã lỗi thời, đi ngược lại với xu thế phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, các thế lực thù địch ra sức tung ra các học thuyết bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ định quy luật phát triển của xã hội loài người, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ba , đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười mở ra là sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp nhân dân lao động khác để xây đựng chính quyền, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và một bên là giai cấp tư sản. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng xã hội bên cạnh những thành tựu to lớn, vẫn còn những bất cập và thiếu sót. Các thế lực đã tìm mọi cách triệt để lợi dụng những thiếu sót đó để tiến công về mặt tư tưởng, lấy cái thiếu sót có thể thay thế những mặt tích cực phổ biến để đả kích sự lãnh đạo của Đảng.

 

Sự tác động của cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị


Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của quân đội ta.

Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang biến chất về chính trị.

Đây  là cuộc chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên trong.

Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ bản, có tính chất quyết định đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị. TB