Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam

 rao đổi với Báo Điện tử Chính phủ về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", PTS.TS Đỗ Thị Thạch, nguyên Viện trưởng Viện Chủ nghĩa Xã hội Khoa học-Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến yếu tố con đường đi lên CNXH dù có khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần nhưng không thể nóng vội bởi xã hội xã hội chủ nghĩa là hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người

PGS.TS Đỗ Thị Thạch

"Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử", những luận điểm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ điều trên, từ đó góp phần giúp toàn Đảng, toàn dân nhận thức đầy đủ hơn và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bà có nhận xét như thế nào về vấn đề này, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Đây là luận điểm hết sức khoa học, bởi vì, cả về lý luận và thực tiễn đã khẳng định: CNXH và sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Trước hết, CNXH có mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người. Là một xã hội như đồng chí Tổng Bí thư đã viết: “… phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”.

Rõ ràng, đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại.

Thứ hai, thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Ngay trong bài của Tổng Bí thư cũng đã viết: Chỉ có CNXH mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân. Thực tiễn Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản, có Nhà nước XHCN, nhất là 35 năm đổi mới đã chứng minh điều này.

Thứ ba, hiện nay, chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của CNTB khác nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, như ý kiến của Tổng Bí thư, “CNTB không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”, do vậy các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra. Chẳng hạn là khủng hoảng trong việc giải quyết dịch bệnh COVID–19 hiện nay đang làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, biểu tình, bãi công… không chỉ ở thế giới tư bản, mà còn đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Chắc chắn đây không phải là chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại. Nhân dân Việt Nam cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.

Cuối cùng, thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực, có thể nói, “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo định hướng XHCN không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế”.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, do điểm xuất phát và hoàn cảnh đi lên CNXH của nước ta có rất nhiều khó khăn, đặc thù, do vậy, cần có sự nỗ lực, quyết tâm rất lớn của toàn Đảng, toàn dân và cần có một thời gian quá độ không ngắn, mới có thể đạt tới xã hội XHCN như mong muốn.

Thưa bà, trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nhấn mạnh, trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, xin bà có thể nói rõ hơn về vấn đề này?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Như chúng ta đã biết, hệ thống chính trị của hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều được cấu trúc bởi chủ thể: Đảng chính trị, Nhà nước và nhân dân là ba chủ thể cấu thành nên. Tùy theo vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa các chủ thể này mà hình thành nên những hệ thống chính trị có những đặc điểm và bản chất chính trị khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở nước ta, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được xác lập, Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhưng người chủ của đất nước là nhân dân. Như trong bài viết của đồng chí Tổng Bí thư: “… một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. Đây là đặc điểm cơ bản nhất, thể hiện bản chất của chế độ ta, là cơ chế vận hành của xã hội ta.

Do vậy, nội hàm của luận điểm nêu trên, theo tôi cần được hiểu là:

Nhân dân là người chủ của đất nước, lợi ích của đất nước là lợi ích của nhân dân, sức mạnh của đất nước là sức mạnh của nhân dân. Sứ mệnh, vai trò của Đảng, của Nhà nước là bảo vệ, phục vụ nhân dân. Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy quyền. Đảng viên của Đảng, cán bộ, công chức của Nhà nước là con em của nhân dân, được dân nuôi dưỡng, tạo cho điều kiện làm việc để phục vụ nhân dân, phải là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân.

Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy: “Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Chính vì thế, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trở thành một trong những mối quan hệ lớn cần được tăng cường nắm vững và giải quyết hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích” như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư nêu trong bài viết.

“Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”, đây cũng là luận điểm quan trọng trong bài viết của Tổng Bí thư, bà có thể phân tích cụ thể hơn về điều này, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Đi lên CNXH là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các quốc gia (Lenin). Tuy nhiên, đi lên CNXH như thế nào, bằng con đường nào thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”. Phải kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng CNXH vừa đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu nhằm  chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.

Do vậy, Việt Nam đi lên CNXH “nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư là hoàn toàn chính xác.

Đồng thời, đi lên CNXH “bỏ qua chế độ TBCN” cũng là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử loài người, không phải là “dị biệt”. Tuy nhiên, phải hiểu đầy đủ, thực chất của nội dung “…bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, là bỏ qua cái gì, không bỏ quá cái gì. Điều này ở Việt Nam chỉ thực sự được làm rõ trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội lần thứ IX (2001), lần đầu tiên, Đảng ta có quan điểm mới, rõ ràng về vấn đề “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.

Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Nghĩa là không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản “giữ vị trí thống trị”. Có như vậy, mới khắc phục được “tình trạng áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư, tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.

“Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chứ “không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”.

Tuy nhiên, đồng chí Tổng Bí thư cũng lưu ý: “việc kế thừa những thành tựu này, phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, hiện nay điều này đã được thực hiện như thế nào ở nước ta, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Ngay trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thì kỳ quá độ lên CNXH, bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng có 8 đặc trưng. Với tám đặc trưng này, chứng tỏ CNXH mà nhân dân ta xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu xây dựng "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Mô hình CNXH này cũng chính "là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người".

Chúng tôi rất nhất trí với nhận xét, đánh giá của đồng chí Tổng Bí thư khi nói về những thành tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, vì nó đã “… đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm…; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Xét trên nhiều phương diện, có thể thấy, “người dân Việt Nam ngày càng có điều kiện sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước đây”. So với nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam cao hơn khá nhiều. Trong đại dịch COVID-19, những thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát triển kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại phía sau”. Chúng ta không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Mặc dù, vẫn còn những hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chính đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết quả đạt được trên thực tế trong những năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người, sẽ không “có sự cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”, không có “vì lợi nhuận mà bóc lột chà đạp lên phẩm giá con người”, không có kiểu “cạnh tranh bất công”, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số cá nhân và các phe nhóm…”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.

                                                                                                                Nguon: baochinhphu.vn

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 hực tiễn hơn 35 năm đổi mới đất nước cho thấy, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Những thành tựu Việt Nam đạt được thời gian qua đã khẳng định tính đúng đắn, sự sáng tạo về con đường đi lên CNXH ở nước ta.

di len chu nghia xh
Ảnh minh họa

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

Trên cơ sở tổng kết, phát hiện các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội loài người, C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”(1). Quá trình ấy phải trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.

Tuy nhiên, các nhà kinh điển cũng chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi, đó là thời kỳ quá độ.

Thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử, có thể diễn ra lâu dài và độ dài ngắn của thời kỳ quá độ ở mỗi nước phụ thuộc vào xuất phát điểm của nước đó khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác động khách quan của thời đại. Trong quá trình lịch sử - tự nhiên đó, học thuyết Mác - Lênin cũng khẳng định quá độ lên CNXH là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan và là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với sự liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó là sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại. Bên cạnh đó, học thuyết Mác - Lênin cũng dự báo khả năng bỏ qua chế độ TBCN đối với một số nước trong những điều kiện cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời có sự vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Người nhận thức rõ Việt Nam có đặc thù riêng, có phong tục, tập quá, lịch sử riêng, nên bên cạnh việc học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác, cần phải có phương pháp xây dựng CNXH gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam, ngoài sự tác động của những yếu tố khách quan, còn phụ thuộc nhiều vào nhận thức và quá trình hiện thực hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tiến lên CNXH thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được CNXH. Trong đó, về mặt kinh tế, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; về mặt chính trị, Đảng phải lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên CNXH…

Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(2). Như vậy, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam chỉ là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN; còn những thành tựu đạt được dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), đặc biệt là khoa học, công nghệ thì chúng ta phải tiếp thu, kế thừa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Cho dù hiện nay, bằng những cố gắng thích nghi với tình hình mới, CNTB vẫn đang có những thành tựu phát triển, nhưng vẫn không vượt qua khỏi giới hạn của nó. CNTB không phải là tương lai của nhân loại. Trước mắt, CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản(3). Mặc dù CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.

SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên CNXH và kiên định con đường đó, điều này càng được thể hiện rõ hơn qua các thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên CNXH của Đảng ta thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện, phù hợp với tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của từng thời kỳ. Từ những năm 1930, Đảng ta đã xác định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(4).

Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó và trước hết là đổi mới tư duy lý luận, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, bỏ qua chế độ TBCN. Ngay từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định từ CNTB lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, là một tất yếu khách quan; thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN nên càng phải lâu dài và khó khăn hơn. Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại... Các Đại hội X, XI, XII tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện về nhận thức thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, đồng thời có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đề ra định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(5).

Hiện nay, nước ta quá độ lên CNXH trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, Việt Nam sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một xã hội tốt đẹp hơn - đó là chế độ CNXH. Sự phát triển khoa học và công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra tiền đề vật chất cho những nước có thu nhập trung bình như nước ta khả năng bỏ qua CNTB quá độ lên CNXH nếu chúng ta biết tranh thủ, vận dụng những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, sớm đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và nền kinh tế theo hướng hiện đại. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của lao động xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho CNXH. Mặc dù nước ta không trải qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội thống trị, nhưng về phương diện kinh tế phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Song, nhờ cách mạng khoa học và công nghệ, nhờ hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, cho phép chúng ta tận dụng những thành tựu kinh tế của thế giới để có thể rút ngắn quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển rút ngắn chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình đi lên sản xuất lớn phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.

Nhận thức đúng điều đó, Đảng đã kịp thời đề đưa ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng XHCN. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(6) …

Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Những thành tựu đạt được đó đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới

Do vậy, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, một điều kiện có tính nguyên tắc là phải kiên quyết giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và phải kiên quyết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Một trong những nội dung đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định trong quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI là trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, chúng ta phải tiếp tục làm rõ và khẳng định những đặc điểm của quá trình này, không chỉ ở hiện tại mà cả tương lai, dự báo triển vọng của CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mới; từ đó, xác định phương hướng và các giải pháp đúng đắn, hợp lý để tiếp tục giải phóng tối đa mọi nguồn lực của đất nươc. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN./.

                                                                                                                    Nguon: bqllang.gov.vn

“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”

 BHG - Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một bài viết rất quan trọng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động  về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chứa đựng nhiều ý nghĩa, là một thông điệp khẳng định mạnh mẽ ý chí của Đảng và nhân dân Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Tôi thấy rằng, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên những vấn đề nổi bật về lý luận và thực tiễn phong phú và sâu sắc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam nhiều thập kỷ qua, khẳng định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, coi độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng là phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống thực dân và đế quốc xâm lược, sau đó xây dựng một hệ thống chính trị mới mà quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và cũng là sự lựa chọn đúng đắn trong thời kỳ Việt Nam bước vào giai đoạn tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.

Việc lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vì chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Có thể nói, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất phong phú cả về mặt lý luận và thực tiễn, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử…

(Trích bài đăng trên Trang thông tin của Báo Nhân Dân, mục Ý kiến học giả nước ngoài)

SẺNGPHẾT HÙNGBUNNHUÔNG (Đại sứ đặc mệnh Toàn quyền nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tại Việt Nam)

Văn kiện mang tính cương lĩnh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

…Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuất phát từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đứng từ góc độ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội và thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết đã trình bày một cách hệ thống, toàn diện những tư duy sâu sắc và tổng kết kinh nghiệm, kết hợp với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với chủ đề quan trọng “chủ nghĩa xã hội là gì và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như thế nào”.

Bài viết ngay từ đầu đã nêu rõ định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, tức là “chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, việc Liên Xô giải thể và Đông Âu sụp đổ không phải là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, mà là thất bại của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Chủ nghĩa tư bản với “chủ nghĩa tự do mới” đang được thúc đẩy trên phạm vi toàn cầu, hiện nay tuy vẫn có tiềm năng phát triển, nhưng không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản cố hữu của nó và hàng loạt khủng hoảng mà nó gây ra, tức là chế độ tư bản chủ nghĩa không thể nào giải quyết được triệt để khủng hoảng của chính bản thân nó.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là sự kết hợp giữa nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu và lý tưởng cách mạng của Đảng, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan và lộ trình tất yếu của cách mạng Việt Nam. Khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới rơi vào thoái trào, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong tiến trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng “một xã hội phát triển thực sự vì con người; một xã hội mà phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; môi trường sống phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân”. Nói tóm lại, đây chính là sự lựa chọn đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ đã kiên định lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.

(Trích bài đăng báo Nhân Dân điện tử, ngày 19.9.2021)

Tìm giải pháp hiệu quả để bảo tồn và phát triển kinh tế biển.

 Hệ sinh thái, tài nguyên biển đang bị suy thoái, thu hẹp nghiêm trọng. Sự gia tăng chất thải ra cửa sông, ven biển, ngày càng gây ô nhiễm làm ảnh hưởng đến tài nguyên nước, sinh vật, các ngành kinh tế gắn với biển… Theo các chuyên gia, nếu không có giải pháp ngăn chặn hiệu quả, chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển kinh tế biển.

 
Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Bích Liên 

Tài nguyên biển đang bị suy thoái, thu hẹp nghiêm trọng

Là quốc gia ven biển, Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km và trên 3.000 đảo và quần đảo khác nhau. Với điều kiện địa chính trị, địa kinh tế, Việt Nam có những tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển...Mặc dù nhiều tiềm năng và lợi thế, tuy nhiên hiện nay chúng ta đang đứng trước thách thức không nhỏ trong việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên biển.

Báo cáo giám sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) gửi đến Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XV mới đây chỉ rõ, việc khai thác, sử dụng tài nguyên biển đã đóng góp hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững của đất nước. Giai đoạn 2011-2022, các ngành kinh tế biển đã đóng góp lớn trong phát triển kinh tế cả nước; GDP trung bình của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm khoảng 50% GDP của cả nước. Thu nhập bình quân/người của các địa phương ven biển đạt khoảng 97 triệu đồng năm 2022, cao hơn bình quân cả nước. Kinh tế đảo đã có sự chuyển biến căn bản, góp phần hình thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, các đảo, quần đảo của Việt Nam.

Tuy nhiên, do nhu cầu và sự phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động ở vùng bờ và trên biển cộng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dẫn đến những tác động đến điều kiện tự nhiên, các hệ sinh thái, tài nguyên, môi trường biển. Các hệ sinh thái, tài nguyên biển đã và đang suy thoái, diện tích bị thu hẹp nghiêm trọng. Sự gia tăng chất thải ra cửa sông, ven biển, ngày càng gây ô nhiễm trên diện rộng tại các vùng cửa sông, ven biển làm ảnh hưởng đến tài nguyên nước, sinh vật, các ngành kinh tế gắn với biển…

Báo cáo cũng cho thấy, liên kết vùng giữa các vùng biển, ven biển, vùng nội địa; địa phương có biển với địa phương không có biển và giữa các ngành, lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả. Một số ngành kinh tế biển mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, một số ngành thiếu sức cạnh tranh, đóng góp cho nền kinh tế còn thấp; khoảng cách giàu nghèo của người dân ven biển có xu hướng tăng…

Đặc biệt, một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức; sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo có lúc có nơi còn mang tính hình thức, chưa hình thành được thói quen của người dân trong bảo vệ môi trường biển, các mô hình cộng đồng quản lý môi trường biển và hải đảo còn ít, hiệu quả thấp. Công tác bảo vệ an ninh, an toàn, phối hợp tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn còn nhiều bất cập; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự cố môi trường trên biển còn nhiều hạn chế…

Theo báo cáo của Bộ TN&MT, nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức của cơ quan quản lý, người dân và doanh nghiệp về vai trò, vị trí của biển, phát triển bền vững kinh tế biển chưa đầy đủ. Công tác quản lý nhà nước về biển, đảo còn nhiều bất cập; công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương liên quan đến biển còn thiếu tính tổng thể, liên kết; chưa có sự thống nhất hữu cơ trong hệ thống quy hoạch phát triển đất nước, giữa vùng đất liền, vùng biển và vùng trời để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái…

Việc tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về biển còn mỏng, chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế biển và bị thu hẹp. Nguồn nhân lực phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn kinh tế biển chưa đáp ứng được yêu cầu về cả số lượng và chất lượng, cơ cấu chưa hợp lý.  Bên cạnh đó, cơ chế chính sách, pháp luật về biển chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về biển còn mỏng; cơ chế chính sách thu hút đầu tư, nhất là từ khu vực tư nhân cho phát triển các ngành kinh tế biển chưa đủ sức hấp dẫn…

Báo cáo giám sát của Bộ TN&MT cũng nêu rõ, Việt Nam được dự báo trở thành nền kinh tế lớn thứ 29 thế giới vào năm 2030 và sẽ vươn lên vị trí thứ 20 vào năm 2050 theo chỉ tiêu GDP đầu người. Tăng trưởng của cả nước dự tính khoảng 6,5-7,0% trong thời kỳ 2021-2030; trong đó, 28 tỉnh, thành phố có biển đóng góp khoảng 65-70% vào tổng GDP cả nước. Do đó, đặt ra yêu cầu trong việc khai thác, quản lý hiệu quả, sử dụng bền vững và bảo vệ tài nguyên biển quốc gia có ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta để đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh và thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, Nghị quyết số 26/NQ-CP, Nghị quyết số 48/NQ-CP trong các chính sách, pháp luật để hình thành cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo; phát triển bền vững kinh tế biển. Chú trọng bảo vệ các hệ sinh thái biển, đảo; khoanh vùng, bảo vệ các khu, hệ sinh thái san hô, cỏ biển trên vùng biển; phục hồi và phát triển các hệ sinh thái, đa dạng sinh học bị suy giảm, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải có nguồn gốc từ đất liền và từ biển, đảo…

Thực hiện nghiêm túc quy hoạch để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường biển

Liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên biển, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh cho biết, biển là một thể thống nhất bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Chúng ta cũng đã và đang thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để phát triển đất nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.

“Trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản tự nhiên ngày càng cạn kiệt thì việc chuyển hướng từ đánh bắt tàn lan, đánh bắt tận diệt sang đánh bắt có kiểm soát và phát triển nuôi biển là hết sức cấp thiết, đảm bảo phát triển bền vững kinh tế biển”, Bộ trưởng nêu rõ.

Theo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh, Nghị quyết 36-NQ/TW đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000. Đây cũng là mục tiêu quan trọng thể hiện sự phát triển của kinh tế biển.

Từ Nghị quyết này, Bộ trưởng khẳng định, Bộ đã tham mưu trình Chính phủ về quy hoạch không gian biển quốc gia. Vừa qua quy hoạch các vùng, quy hoạch các địa phương đã được lồng ghép tổ chức thực hiện. “Ngoài các khu bảo tồn đa dạng chúng ta phải rà soát các khu vực bảo vệ gắn với bảo tồn; rà soát các rừng ngập mặt sử dụng đa mục đích, vừa bảo tồn vừa phát triển, vừa sản xuất nông nghiệp vừa nuôi trông thủy hải sản”, Bộ trưởng nêu rõ.

Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, hiện nay Bộ đang tích cực thực hiên các nghị quyết của Trung ương về các chiến lược thực hiện những mục tiêu này.

Bộ trưởng cho rằng, biển là một thể thống nhất, việc khai thác sử dụng tài nguyên biển thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, các dự án đầu tư về du lịch, công nghiệp, đô thị dọc bờ biển đều cần đánh giá tác động môi trường thật kỹ lưỡng, đảm bảo không ảnh hưởng đến môi trường biển, hệ sinh thái biển, vận tải biển, hàng hải, nuôi trồng thủy hải sản.

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, để giải quyết những vấn đề chồng lấn, giao thoa này, Quy hoạch biển quốc gia đã có những phân vùng sử dụng, định hướng không gian phát triển, quy hoạch gắn với quy hoạch các ngành, quy hoạch của các địa phương có biển, cần thực hiện nghiêm túc việc quy hoạch để vừa phát triển được kinh tế vừa bảo vệ được môi trường./.

Để biển, đảo thêm gần với đất liền.

 Xuất phát từ trách nhiệm nghề nghiệp và tình yêu quê hương, đất nước, đông đảo phóng viên báo chí từ Trung ương đến địa phương luôn dành cho biển, đảo sự quan tâm đặc biệt. Thông qua những tác phẩm báo chí thuộc nhiều thể loại khác nhau đã giúp đồng bào, đồng chí, chiến sĩ và kiều bào ta ở nước ngoài thêm hiểu và gắn bó với biển, đảo hơn; giúp biển, đảo thêm gần hơn với đất liền…

Những năm gần đây, song song với việc thực hiện tốt vai trò lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, Quân chủng Hải quân cũng luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ phóng viên báo chí được tác nghiệp ở các vùng biển, đảo. Dấu chân của phóng viên báo chí đã in đậm ở tất cả các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như các tuyến đảo gần bờ. Và chính từ những chuyến tác nghiệp ý nghĩa đó, hàng loạt tác phẩm báo chí thuộc nhiều thể loại đã ra đời, góp phần khắc họa hình ảnh quân dân ta trên các đảo tiền tiêu luôn quyết tâm lao động, sản xuất và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vững chắc biển, đảo quê hương.

Nhà báo Lê Sơn (thứ 2, bên phải), Phó Trưởng Ban Thời sự - Báo điện tử Chính phủ, cùng các đồng nghiệp trong chuyến công tác tại Trường Sa.

Vừa trở về sau chuyến công tác tại một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa trong dịp đầu tháng 5 vừa qua, nhà báo Lê Sơn, Phó Trưởng Ban Thời sự, Báo điện tử Chính phủ, xúc động chia sẻ: “Đúng là được đặt chân đến Trường Sa sẽ thấy yêu biển, đảo, yêu Tổ quốc mình hơn. Vượt qua hải trình hơn 1.000 hải lý, chúng tôi đã được hiểu nhiều hơn về cuộc sống trên các đảo để thêm khâm phục quân dân Trường Sa, những người đã và đang ngày đêm vượt lên sóng gió để giữ gìn chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Chuyến đi đã cung cấp cho tôi nguồn tư liệu quý để thông qua những trang viết sẽ giúp bạn đọc thêm hiểu, thêm yêu và thêm gắn bó nhiều hơn với Trường Sa”.

Cũng là những cảm xúc về biển, đảo của Tổ quốc, nhà báo Tạ Thu Hường, phóng viên Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Lào Cai, cho biết: “Cách đây gần 2 năm, tôi thực sự vinh dự khi được đi công tác thực tế tại các đảo thuộc quản lý của Vùng 5 Hải quân. Vốn là cựu sinh viên khoa Văn, tôi đã sớm tìm hiểu và say mê những câu thơ, những áng văn viết về biển, đảo quê hương. Nhưng lần đầu tham gia công tác tại vùng biển, đảo đã giúp tôi hiểu nhiều hơn về những người dân, người lính luôn kiên cường trước muôn trùng sóng gió để bảo vệ vững chắc biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đây là một trong những chuyến đi ý nghĩa nhất của tôi trong hơn 10 năm làm báo. Trong 7 ngày công tác, tôi đã thực hiện 8 phóng sự truyền hình về hoạt động của quân dân trên các đảo mà mình được đặt chân đến”.

Nhà báo Tạ Thu Hường (đứng giữa) tác nghiệp tại đảo Hòn Đốc, xã Tiên Hải, Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

Chia sẻ về cảm xúc trong lần thực tế tại các đảo trên tuyến Tây Nam của Tổ quốc, nhà báo Đào Thị Quỳnh Lan, phóng viên Ban Bạn đọc - Cộng tác viên, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết: "Biển, đảo luôn là một phần máu thịt không thể tách rời của Tổ quốc. Mỗi lần được tác nghiệp tại các vùng biển, đảo , tôi cảm thấy thêm yêu quê hương, đất nước hơn và ý thức rõ hơn về trách nhiệm của bản thân trong thông tin, phản ánh về công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và lao động, sản xuất của quân, dân trên các tuyến đảo tiền tiêu của Tổ quốc đến với độc giả trong và ngoài nước".

 Nhà báo Đào Thị Quỳnh Lan trong chuyến tác nghiệp tại các đảo trên tuyến Tây Nam của Tổ quốc.

Theo Phòng Tuyên huấn, Cục Chính trị Hải quân, chỉ tính trong các năm 2022, 2023 và 5 tháng đầu năm 2024, các đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân đã hỗ trợ hơn 3.000 lượt cán bộ, phóng viên của hơn 220 cơ quan báo chí tác nghiệp tại các vùng biển, đảo của cả nước. Từ những chuyến tác nghiệp này, đã có hàng vạn tác phẩm báo chí, kịp thời tuyên truyền các cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; các hoạt động khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và các vùng biển, đảo khác của Việt Nam; tuyên truyền về hoạt động sản xuất, huấn luyện của quân, dân trên các đảo;…

Chị Nguyễn Thu Hương ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình bộc bạch: “Dù chưa một lần được đến với Trường Sa, nhưng thông qua bài viết, hình ảnh trên các báo, tôi đã hiểu được phần nào những khó khăn, vất vả của quân, dân trên các đảo. Tôi thực sự khâm phục ý chí, nghị lực của các lực lượng đang ngày đêm chắc tay súng; kiên cường, vững vàng trước muôn trùng sóng gió để bảo vệ vững chắc biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc”.

Cùng với tuyên truyền về quân, dân trên các đảo, báo chí còn kịp thời thông tin đến cán bộ, nhân dân Trường Sa về cuộc sống, tình cảm, về đời sống hậu phương quân đội, hoàn cảnh khó khăn, những tấm gương vượt khó, những gương điển hình để góp phần động viên quân và dân Trường Sa vững vàng hơn, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm vụ giữ vững biển, đảo của Tổ quốc, xứng đáng là tiền tiêu vững chắc trên hướng biển.

Và hơn hết, thông qua những tác phẩm báo chí đã giúp biển, đảo gần thêm với đất liền; để mỗi độc giả thêm hiểu và mong muốn được đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; đồng thời lan tỏa tình cảm của cả nước với Trường Sa, Trường Sa vì cả nước, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua đó, khơi dậy tinh thần trách nhiệm, tăng cường các nguồn lực để góp phần đẩy mạnh xây dựng và phát triển huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội trên biển của cả nước; thực sự là “pháo đài” vững chắc, điểm tựa tiền tiêu trong sự nghiệp gìn giữ, bảo vệ biển, đảo quê hương./.


Chuyện làm giàu từ rừng của cựu chiến binh Trần Văn Tuyển

 

Đến xã Sơn Lâm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hỏi về gia đình cựu chiến binh (CCB) Trần Văn Tuyển, thì không ai không biết đến anh bởi anh không chỉ làm kinh tế giỏi, mà còn luôn gương mẫu đi đầu trong các hoạt động xã hội ở địa phương và của Hội CCB đề ra.