Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

 

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan

Hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.

Thực tiễn sinh động liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Môi trường sôi động cho giới báo chí

Ở Việt Nam, báo chí được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan
Báo chí được tạo điều kiện tác nghiệp tại Việt Nam. Ảnh minh họa: cand.com.vn 

Những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt nêu rõ trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 15-4-2024 và trong bài phát biểu khai mạc Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 4 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 7-5-2024. Theo đó, sau 26 năm kết nối internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38% so với năm 2019. Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí và 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí cũng đã lên tới khoảng 41.000 người.

Chẳng thế mà chuyên gia phân tích chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam.

Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.

Cũng cần nói thêm rằng, các cơ quan báo chí, truyền thông ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng phản biện xã hội của mình. Bằng chứng là thể loại phóng sự điều tra trong khuôn khổ Giải Báo chí quốc gia hằng năm và Giải Báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhận được sự quan tâm, tham gia của các nhà báo, phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí trên cả nước.

Những con số mơ hồ và đánh giá mang tính áp đặt

Bất chấp những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do báo chí đã được các nước ghi nhận, đánh giá cao, một số cá nhân, tổ chức vẫn cố tình đưa ra những đánh giá mang tính áp đặt, định kiến và thiếu khách quan về vấn đề này.

Nhìn vào những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.

Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải làm việc đó.

Những cá nhân, tổ chức thường xuyên phê phán tự do báo chí ở Việt Nam và tung hô tự do báo chí của phương Tây có lẽ nên tham khảo những ví dụ được nêu trong báo cáo mà Trung tâm Nghiên cứu Pew công bố hồi tháng 4 năm nay. Chẳng hạn, trong báo cáo này, Trung tâm Nghiên cứu Pew cho biết, đại đa số người Mỹ coi quyền tự do báo chí là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của xã hội, nhưng cũng có nhiều người bày tỏ lo ngại về những hạn chế tiềm ẩn đối với quyền tự do báo chí ở Mỹ. Cụ thể, cứ 5 người Mỹ thì có 1 người nói rằng giới truyền thông không được tự do hoặc hoàn toàn không được tự do đưa tin ở Mỹ. Ngoài ra, 41% người Mỹ “cực kỳ hoặc rất lo ngại” về những hạn chế tiềm tàng đối với quyền tự do báo chí ở nước này và 29% bày tỏ thái độ “có phần lo ngại”. Vậy thì ở Mỹ, có hay không có tự do báo chí và ai mới có thể là người đưa ra câu trả lời chính xác?

Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm.


"Tôi không lạc đề"!

Họp Đảng ủy xã đánh giá về công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng chí Lê là Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ thôn Đoài phát biểu thẳng thắn:

- Tôi đề nghị các đồng chí cán bộ chủ chốt của xã phải nêu gương trước Đảng bộ và nhân dân về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong việc hiếu, việc hỷ. Vừa qua có một số đồng chí lãnh đạo xã tổ chức đám cưới cho con linh đình, làm vài trăm mâm cỗ, rồi đám giỗ cũng mời khách rầm rộ khiến nhân dân xì xào, chê trách... Việc thứ hai là lãnh đạo xã cần tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm những công chức, viên chức thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, giải quyết công việc chậm, thậm chí còn "gây khó để có phong bì"...

Bí thư Chi bộ thôn Đoài còn chưa phát biểu hết thì Phó bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch xã đã ngắt lời:

 - Tôi thấy đồng chí Lê phát biểu không đúng chủ đề cuộc họp rồi. Việc gia đình cán bộ xã làm cỗ nhiều và giải quyết công việc chậm thì không liên quan tới công tác đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mặt khác, theo tôi, tổ chức hiếu, hỷ, cúng giỗ là việc riêng của gia đình...

 - Báo cáo đồng chí chủ tọa, tôi xin phát biểu tiếp và tôi khẳng định không phát biểu lạc đề. Chúng ta đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không có nghĩa là chúng ta chỉ phê phán, bác bỏ các quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, mà quan trọng hơn là chúng ta phải chủ động phòng ngừa, phải tự mình tốt lên, không để xảy ra những sai lầm, khuyết điểm cho các thế lực thù địch lợi dụng để suy diễn, quy chụp, thổi phồng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước. Hai việc tôi vừa đề nghị rút kinh nghiệm, nếu chúng ta không khắc phục được thì sẽ là cái cớ để các đối tượng phản động, bất mãn lợi dụng chống phá ta, rồi ngay người dân trong xã cũng sẽ bất bình, bức xúc, không phục cán bộ xã. Thực tế đã có ý kiến xì xào rằng “các ông lãnh đạo xã nói một đằng, làm một nẻo”...

 Thấy các ý kiến phát biểu khá “căng”, đồng chí Trưởng ban Tuyên giáo, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy là đại biểu cấp trên về dự hội nghị, nhẹ nhàng nói:

 - Chúng ta cần nghiêm túc tiếp thu ý kiến tâm huyết của đồng chí Lê để được nhân dân tin tưởng, yêu mến. Xây dựng và giữ vững “thế trận lòng dân” phải từ những việc nhỏ; làm cho nhân dân tâm phục, khẩu phục thì chẳng có thế lực thù địch nào chống phá được, phải không các đồng chí?

 Cả hội nghị lặng lẽ gật đầu, càng suy ngẫm thì càng thấy đồng chí Bí thư Chi bộ thôn Đoài và Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy nói đúng

 

Nhận diện và phòng, chống hoạt động “bất tuân dân sự” ở nước ta


Hiểu theo nghĩa phổ thông, “bất tuân dân sự” là hoạt động phản kháng bất bạo động nhằm công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức các chủ trương, chính sách, quy định pháp luật, gây cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của Nhà nước. Ở Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để sử dụng hoạt động "bất tuân dân sự" nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị (ANCT), trật tự, an toàn xã hội (TTATXH).
Phòng chống “diễn biến hòa bình” tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này. Ảnh minh hoạ: CPV

Phòng chống “diễn biến hòa bình” tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này. Ảnh minh hoạ: CPV

Ra đời từ rất sớm (thế kỷ 19), thuật ngữ "bất tuân dân sự" (hay còn gọi là chống đối chính phủ dân sự) lần đầu tiên xuất hiện trong một bài luận với nhan đề "Dân sự bất hợp tác" của nhà văn người Mỹ, Henry David Thoreau vào tháng 5-1849. Thoreau cho rằng, cá nhân có thể không tuân thủ, không phục tùng nhà nước; thậm chí, có thể chống lại luật pháp của nhà nước nếu thấy những điều luật đó không phù hợp với người dân, kể cả là với thiểu số bằng phương pháp "cách mạng hòa bình". 

Thoreau đề cao quyền tự quyết của mỗi cá nhân hơn là sự phục tùng theo đa số, theo cộng đồng và các cá nhân có quyền làm bất cứ điều gì mà họ cho là đúng. Tác giả cho rằng, về bản chất "bất tuân dân sự" chính là “bất tuân nhà nước”. Đến thế kỷ 20, quan điểm của Thoreau về "bất tuân dân sự" đã được phát triển thành phương thức đấu tranh bất bạo động và trở thành một mũi tiến công quan trọng trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc nhằm thay đổi chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và những nước không cùng phe với họ.

Phương thức hoạt động này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới dưới những tên gọi khác nhau như: "Cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ 20; làn sóng "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung Đông và Bắc Phi năm 2010; phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ tại Hồng Công - Trung Quốc năm 2019...

Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, "bất tuân dân sự" có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức “xã hội dân sự”. Các nước phương Tây luôn coi hình thành “xã hội dân sự” là điều kiện, tiền đề cho việc cổ xúy tự do cá nhân, lấy "bất tuân dân sự" làm phương thức cơ bản để lật đổ chế độ chính trị ở một quốc gia. Có thể thấy "bất tuân dân sự" mang một số đặc trưng cơ bản như sau:    

Thứ nhất, về mục đích và hình thức thể hiện: Thông qua việc từ chối tuân theo hay vi phạm một cách cố ý các quy định của pháp luật hoặc cản trở việc thực thi chính sách, pháp luật; các đối tượng thực hiện “bất tuân dân sự" nhằm mục đích cuối cùng là vô hiệu hóa hoạt động của chính quyền, tiến tới lật đổ nhà nước, thay thế bằng một chế độ chính trị mới theo mô hình của chủ nghĩa tư bản.

Để che giấu mục đích đó, các thế lực thù địch thường che đậy, ngụy trang dưới những vỏ bọc khác nhau, như: Tụ tập, tuần hành nhằm “phản kháng ôn hòa, bất bạo động”, “biểu tình ôn hòa”. Ở Việt Nam, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hoặc lợi dụng những vấn đề chính trị-xã hội phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quyền và lợi ích của con người để lôi kéo, kích động, thu hút đông đảo người dân tham gia các hoạt động với mưu đồ được gọi là đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, trả lại đất đai cho người dân... thực chất là để thực hiện “bất tuân dân sự” nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Thứ hai, về chủ thể tiến hành, các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị và những người dân có trình độ thấp, ngộ nhận, có bức xúc, mâu thuẫn với chính quyền, bị lừa bịp, mua chuộc tham gia; đứng sau hậu thuẫn là các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong do phương Tây hậu thuẫn lập ra như: “Việt Tân”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, “Mạng lưới Blogger Việt Nam”... giữ vai trò chỉ đạo, tài trợ kinh phí, đào tạo, huấn luyện phương thức hoạt động cho các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, đối tượng hình sự trong nước... trở thành cộm cán thu hút, lôi kéo, tập hợp người dân tham gia các hoạt động “bất tuân dân sự”.

Số đối tượng trong nước ráo riết thu thập tình hình, phát triển lực lượng, hình thành các hội/nhóm hoạt động theo hình thức “bất bạo động”. Các thế lực thù địch thông qua mạng xã hội, internet để tuyên truyền, vận động thu hút, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động “bất tuân dân sự” do chúng chỉ đạo.

Thứ ba, về thời điểm, các thế lực thù địch đặc biệt lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng như: Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND; thời điểm có các đoàn nguyên thủ quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam; lợi dụng bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, xuất hiện những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia... để kích động, lôi kéo người dân tham gia “bất tuân dân sự” và đưa ra những yêu sách, như: “Đòi bảo vệ chủ quyền, môi trường”, đòi “tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền”... gây phức tạp về an ninh trật tự tại địa phương. Khi gặp thời điểm thuận lợi và đủ điều kiện chín muồi, các thế lực thù địch có thể chuyển hóa từ hình thức bất bạo động thành bạo động rất nhanh chóng.

Khi đó, các đối tượng cộm cán, cầm đầu kêu gọi, kích động những người tham gia đấu tranh “ôn hòa, bất bạo động” tiến hành các hoạt động bạo loạn như đập phá tài sản nhà nước và công dân; chiếm trụ sở chính quyền; bắt giữ người thi hành công vụ; cản trở hoạt động bình thường của xã hội... qua đó nhằm thực hiện kịch bản “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” xâm phạm ANCT, TTATXH ở địa phương. Điển hình như vụ người dân phản đối trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang) năm 2017; vụ tụ tập đông người tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai...

Bằng những phương thức và thủ đoạn nêu trên, các đối tượng kích động người dân đập phá trụ sở chính quyền, gây cản trở giao thông, đốt phá tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, làm bị thương nhiều cán bộ thực thi nhiệm vụ, gây ngừng trệ hoạt động của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người dân, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân và xã hội. Ngoài ra, các thế lực thù địch còn lợi dụng việc các cơ quan chức năng xử lý những người vi phạm pháp luật; các đối tượng phản động, cơ hội chính trị ra sức rêu rao, xuyên tạc rằng Việt Nam “đàn áp” những người biểu tình ôn hòa, yêu nước và kêu gọi cộng đồng quốc tế can thiệp.

Để đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả với hoạt động “bất tuân dân sự” nhằm chống phá nước ta, cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm như sau:

Một là, các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và người dân về âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng “bất tuân dân sự” để xâm phạm ANCT, TTATXH; về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động “bất tuân dân sự” chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với hoạt động này. Quan tâm, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và tranh thủ chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong tôn giáo, dân tộc thiểu số, phát huy tác dụng của các tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động “bất tuân dân sự”.   

Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, phân tích, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... của các thế lực thù địch hòng kích động, lôi kéo nhân dân tham gia "bất tuân dân sự" để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ sở pháp luật. Kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc... để khắc phục; đồng thời phối hợp giải quyết dứt điểm các điểm nóng về an ninh trật tự ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. 

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống, bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm tốt các quyền tự do dân chủ của người dân, giải quyết tốt các vụ việc phức tạp liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân, tránh tạo sơ hở để bên ngoài lợi dụng xuyên tạc, kích động chống phá. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Tiếp tục tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ANCT, TTATXH ở các địa phương, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi. 

Bốn là, quán triệt tinh thần giải quyết vấn đề tụ tập đông người, biểu tình, tuần hành theo đúng cơ chế: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện; chính quyền quản lý, điều hành; lấy vận động thuyết phục là chính, kiên quyết thu hẹp vụ việc, không để lây lan, kéo dài. Khi phát hiện có tuần hành, tụ tập đông người hay lãn công, đình công, cần nhanh chóng đánh giá đúng tính chất, mức độ, xác định rõ nguyên nhân của vụ việc; thực hiện phân hóa số đối tượng cộm cán, cầm đầu với quần chúng bị dụ dỗ, lôi kéo; tuyên truyền vận động, thuyết phục quần chúng giải tán; kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật số đối tượng cầm đầu, chủ mưu, cộm cán kích động, lôi kéo người dân tham gia "bất tuân dân sự".  

Năm là, tiếp tục tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, dân tộc, đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên tham nhũng, xâm phạm quyền và lợi ích của người dân. Các ban, bộ, ngành chức năng thường xuyên rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc, đất đai, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo để kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế./.

 

CĐ, VS (st)

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và sự vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

TCCS - Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính yếu, quyết định nhiều vấn đề cốt lõi đối với công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam cho đội ngũ lãnh đạo, đảng viên hướng tới, học tập, làm theo, để tự rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng ngày càng trong sạch, tiến bộ, góp phần để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm nói chuyện với nhân dân tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên

Từ việc phân tích sâu sắc khía cạnh đạo đức của một tổ chức, hệ thống chính trị Xô-viết và của một người cộng sản chân chính đứng đầu tổ chức đó là lãnh tụ vĩ đại V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Người coi V.I. Lê-nin là Người thầy dạy vĩ đại của cách mệnh vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lênin muôn đời bất diệt.

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam được hun đúc, vun đắp từ hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và gương mẫu thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng là cái gốc sự phát triển của cách mạng, bởi vậy trong tư duy và hành động, Người luôn kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”, trong đó đặc biệt đề cao hai phương diện chính: Đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên và đạo đức của tổ chức đảng.

Về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ công cuộc đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức của từng cán bộ, đảng viên; coi trọng đúng mức công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng đối với người lãnh đạo. Người cho rằng, đạo đức người cách mạng giống như gốc rễ của cây, như nguồn của sông suối, khi “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người cũng nhiều lần khẳng định, đạo đức cách mạng là yếu tố không thể thiếu đối với người làm cách mạng; “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ... Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Do vậy, Người coi nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức nói chung, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói riêng là động lực cốt lõi làm nên những thành công của con đường cách mạng đầy gian nan.

Cho đến những năm cuối cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên toàn hệ thống chính trị. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo người, “đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Bên cạnh đó, Người cũng thường xuyên nhấn mạnh những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng, như trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có tình nghĩa; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng, tiến bộ,... Cụ thể:

Trung với nước, hiếu với dân được xem là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối các phẩm chất khác, thể hiện bản lĩnh, tinh thần cống hiến của người cách mạng luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thậm chí là hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng khái niệm “trung” và “hiếu” trong quan niệm đạo đức truyền thống “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” và mở rộng nội hàm, cách hiểu sang nội dung mới, rộng lớn hơn, đó là “Trung với nước, hiếu với dân” nhằm tạo nên sự chuyển biến trong nhân sinh quan nói chung và các quan điểm về đạo đức cách mạng nói riêng. Trong đó, “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; “Hiếu với dân” là gần dân, lấy dân làm gốc, gắn bó với dân, “hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Đặc biệt, Người khẳng định “Trung với nước” phải gắn liền “Hiếu với dân” bởi nước là “nước của dân”, người dân là chủ thể nắm quyền lực nhà nước; mọi lực lượng đều ở dân, còn cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan
cách mạng”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là các khái niệm đạo đức truyền thống được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và vận dụng linh hoạt để phù hợp với yêu cầu, nội dung mới của đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Người cũng cho rằng đây chính là một biểu hiện sinh động của phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” và chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa chúng. Theo đó, “cần” và “kiệm” phải luôn đi đôi với nhau như hai chân của con người, “CẦN mà không KIỆM, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”... KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm, không phát triển được”. Chữ “liêm” phải đi đôi với chữ “kiệm”, cũng như chữ “kiệm” phải đi đôi với chữ “cần”, cụ thể, “Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”; hay “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn”. Mặt khác, “cần, kiệm, liêm, chính” nhất định sẽ đi đến chí công vô tư và ngược lại.

Yêu thương, quý trọng con người cũng là một phẩm chất quan trọng trong đạo đức cách mạng và luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý, bởi đây là đức tính nền tảng để hình thành, nung nấu ý chí quyết tâm làm cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người. Người xác định rõ, làm việc “chính” là người “thiện”, làm việc “tà” là người “ác”, đó là hai hạng người và loại việc cơ bản trong cuộc sống; những người bị áp bức, bóc lột, sẵn sàng làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo khác nhau thì vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, coi nhau như anh em một nhà trong một “thế giới đại đồng”. Người khuyên mọi người lấy thẳng thắn, chân thành để đối xử, lấy tin yêu, giúp đỡ để cảm hóa lẫn nhau; trân trọng, phát huy yếu tố tích cực trong mỗi người để hạn chế, đẩy lùi yếu tố tiêu cực, giúp tất cả cá nhân đều tiến bộ, trưởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng và nhân dân, bởi “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, điều này có nghĩa “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, phải biết “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”Theo Người, để xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân “như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” và “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Mục tiêu của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên là nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, tức là dần quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Về đạo đức cách mạng của tổ chức đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có một đảng chân chính, vững mạnh, cần xác định rõ mục đích tối thượng của Đảng chính là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân mà chiến đấu và Đảng không có lợi ích riêng nào hết. Đây cũng là lý tưởng đạo đức cao đẹp của Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, Người chỉ rõ, đạo đức chính là ở chỗ làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thấm sâu vào tư tưởng và hành động của từng cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, có ý chí, khát vọng, quyết tâm đêm ngày đều “nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại”. Theo đó, trong đời hoạt động cách mạng, Người luôn chú trọng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng; khuyến khích đội ngũ cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh mà nhiều cán bộ, đảng viên có trình độ lý luận chính trị rất thấp(20). Người khẳng định, “có thể tránh được biết bao bế tắc, sai lầm và biết bao thất bại đau đớn, nếu chúng ta có thể cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác” và thường xuyên căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tích cực vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, luôn bổ sung, làm giàu lý luận bằng những kiến thức thực tiễn mới, tránh giáo điều, kinh viện.

Xuất phát từ tình hình thực tế trong Đảng cũng như bối cảnh lịch sử đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”; Người lý giải: “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Theo đó, Người cảnh báo: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạngTừ rất sớm, Người đã chỉ ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức vị cao: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””. Do đó, nếu không giữ được đạo đức cách mạng thì đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ dễ bị tha hóa, tự đánh mất mình, sa vào suy thoái, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sỹ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”. Khẳng định vai trò tiên quyết của việc nêu gương, Người cho rằng lãnh đạo, người đứng đầu phải thật sự gương mẫu, làm gương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh trò chuyện với công dân tại buổi tiếp công dân thường kỳ

Thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức ở nước ta hiện nay

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, thuộc về chế định nội tại trong sự phát triển của Đảng; là nhiệm vụ cần có, phải có để Đảng luôn là Đảng của đạo đức, văn minh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhận thức rõ điều đó, đồng thời dựa trên hệ thống quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”, theo đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khoa học, thiết thực nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào uy tín, năng lực, phẩm chất của Đảng  và hệ thống chính trị.

Nhìn chung, thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt quan tâm về mọi mặt, đạt được những thành tựu có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả xây dựng nền văn hóa, trong đó có đạo đức chưa thực sự được như mong muốn. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, bị dục vọng chi phối, có dấu hiệu suy thoái về đạo đức, lối sống,...; xuất hiện tình trạng tham nhũng, kèn cựa địa vị, tranh chức, quyền, dùng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm”; dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh mà bất chấp cả liêm sỉ, danh dự,...

Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng Đảng về đạo đức trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Trách nhiệm làm cho “môi trường đạo đức” của Đảng ngày càng trong sạch không phải của riêng ai, nhưng trước hết và cơ bản nhất là của từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên; phải kiên quyết ngăn chặn những hậu quả nặng nề, có thể làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng. Trước tình hình đó, nhân dân luôn có mong ước, ý nguyện cũng như nghiêm khắc yêu cầu Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh được thể hiện từ yếu tố cơ bản nhất, đó là nền tảng đạo đức thông qua những hành động thực tiễn, việc làm, ứng xử thiết thực.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thứ nhất, kiên quyết thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhiệm vụ xây dựng nền đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, phải làm cho yếu tố đạo đức thẩm thấu vào trong đường lối, định hướng chính trị của Đảng; Đảng phải luôn giữ vững mục tiêu cách mạng trong đường lối chính trị của mình, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Theo đó, đường lối chính trị đúng đắn phải được xuất phát, đúc kết từ thực tiễn mà ra và hàm chứa trong đó cả những giá trị phổ quát, ưu việt của nhân loại. Muốn vậy, trước hết phải tuân thủ và thực hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng một Đảng của đạo đức và văn minh.

Thứ hai, nền đạo đức cách mạng phải được hòa quyện bền chặt trong mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Theo đó, một Đảng chân chính, đạo đức và có đủ tư cách để lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân thì tiêu chí hàng đầu là thường xuyên chăm lo, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Để làm được điều này, cần nỗ lực huy động, phát huy vai trò và “nuôi dưỡng” sức mạnh vĩ đại của các tầng lớp nhân dân. Trong mọi trường hợp, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên phải luôn trăn trở, suy nghĩ, suy xét thấu đáo, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước.

Thứ ba, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng; luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, có niềm tin vào cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng; tránh hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu, thấy sai không phê phán, thấy đúng không bảo vệ, thậm chí còn cổ xúy, phụ họa cho quan điểm và việc làm sai trái, lệch lạc với chủ trương, đường lối của Đảng; đặc biệt, cần nghiêm túc, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay(32). Bên cạnh đó, không ngừng đấu tranh với những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không trung với nước, không hiếu với dân, không thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,...; sống cơ hội, bè phái, vụ lợi, hám danh, vô cảm, chỉ thích xa hoa, hưởng lạc, không gương mẫu nêu gương,...

Thứ tư, kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng chuẩn mực đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, hướng tới nhân dân và vì nhân dân trên tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(33). Tăng cường tuyên truyền, quán triệt thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””, từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và yêu cầu nâng cao chất lượng, sinh hoạt Đảng; đồng thời, quan tâm công tác kiểm tra, giám sát trong chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng. Mặt khác, bên cạnh việc giáo dục, rèn luyện, cần có cơ chế đủ mạnh, kịp thời để xử lý kỷ luật, thậm chí có thể đưa ra khỏi Đảng những người có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, trong đó cần bám sát tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự rèn luyện, gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, luôn có ý thức không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, dám nói, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiên quyết khắc phục những biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực trong xã hội; thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”. Mặt khác, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức từ cấp thấp đến cấp cao. Ở góc độ lớn hơn, cần nghiên cứu, bổ sung, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong các chương trình, môn học ở hệ thống giáo dục phổ thông, đại học, nhằm thiết lập nền tảng đạo đức vững chắc cho thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước./.

-----------------------------

CĐ, VS (st)

Hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên để “tự soi”, “tự sửa”

 Quy định số144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới (Quy định 144) nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị, đạo đức và tổ chức theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Sự đòi hỏi ra đời một quy định chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên trong tình hình mới

Đối với cán bộ, đảng viên, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Chỉ khi cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn mới có được ý chí, hành động cách mạng trong sáng, tinh thần phụng sự, cống hiến vì sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

Trước thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao. Nguyên nhân căn bản là sự thiếu tu dưỡng đạo đức trong cán bộ, đảng viên, đòi hỏi cần có chế tài, hành lang pháp lý đủ mạnh, đủ sức răn đe, cảnh tỉnh song song với biện pháp bồi dưỡng, rèn luyện mang tính phòng ngừa tích cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: "Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".

Điều này tác động mạnh đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do đó, cần phải đặt ra yêu cầu cao hơn nữa về tinh thần tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong thời kỳ mới, Đảng cần phải có chuẩn mực đạo đức cách mạng mới, cần cụ thể về chuẩn mực đạo đức cách mạng để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, Quy định 144 ra đời kịp thời, phù hợp với giai đoạn mới.

Quy định 144 đặt ra những tiêu chuẩn và trách nhiệm cao đối với đảng viên, cán bộ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự giác và tự rèn luyện để trở thành những người có phẩm chất đạo đức cao, đóng góp vào sự phát triển của bản thân, gia đình và tổ chức đảng. Theo đó, đảng viên, cán bộ phải tự giác, tự quản và tự rèn luyện tuân thủ nguyên tắc và quy định của Đảng, cũng như pháp luật của Nhà nước. Đảng viên, cán bộ cần đặt ra mục tiêu phát triển bản thân, không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng và ý thức đạo đức, từ đó đóng góp mạnh mẽ và hiệu quả hơn vào công việc và cuộc sống.

Quy định 144 của Bộ Chính trị đã truyền đi thông điệp là Đảng rất nghiêm túc, quyết liệt khi đề ra những tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, khẳng định quyết tâm của Đảng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hướng đến mục tiêu hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng không chỉ là căn cứ để cán bộ, đảng viên rèn luyện, tự điều chỉnh nhận thức và hành vi mà còn là cơ sở cho việc giáo dục đạo đức cách mạng, hình thành đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, đủ uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên để “tự soi”, “tự sửa”

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay theo Quy định 144, cụ thể: Điều 1: Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Đây là tiêu chuẩn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất của người cán bộ, đảng viên. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng (1958)”, Người yêu cầu cán bộ, dảng viên “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.

Điều 2: Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập. Đảng coi bản lĩnh của cán bộ là một phẩm chất đạo đức. Chỉ có bản lĩnh cán bộ mới dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách. Yêu cầu cán bộ phải có bản lĩnh không mới nhưng trong tình hình hiện nay đó là một yêu cầu cấp thiết và là một tiêu chuẩn đạo đức cần thiết của cán bộ. Đề cập đến tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức né tránh, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ, Bộ trưởng Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, đây là thực trạng xảy ra ở một số bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tình trạng này xảy ra trong nhiều hoạt động kinh tế - xã hội, thể hiện rõ trong đầu tư công, đấu thầu, quản lý đất đai, y tế, xây dựng, giải quyết thủ tục đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ công cho người dân,… dẫn đến giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phát biểu ý kiến trước Quốc hội, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (Đoàn TP. Hồ Chí Minh) cho rằng: “tình trạng đùn đẩy, trì hoãn phê duyệt các dự án, cấp các loại giấy phép; tình trạng chậm trả lời các câu hỏi, chậm ban hành các hướng dẫn, chậm giải quyết các khiếu nại, vướng mắc của người dân và doanh nghiệp, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư công và đầu tư xã hội, gây ra tình trạng đình đốn trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội…".

Theo Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà, cần "Xóa bỏ nhận thức trong một số cán bộ, công chức “không làm thì không sai”, “đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước hội đồng xét xử” đang xuất hiện và là một loại “tự diễn biến” cản trở nghiêm trọng sự phát triển và khơi dậy lòng tự trọng, bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức".

Điều 3: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trong đó đề cập tới các tiêu chí tự trọng, giữ gìn danh dự, phẩm giá. Lòng tự trọng, phẩm giá của cán bộ, đảng viên cần được đề cao để giữ gìn uy tín của Đảng; phải có lòng tự trọng, luôn giữ gìn danh dự, phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, vì Đảng, vì dân làm việc và rèn luyện để cống hiến. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình “Văn hóa liêm chính”, từ đó sẽ có những cán bộ có năng lực, đạo đức, có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân và đất nước.

Còn một biểu hiện cụ thể của việc bảo vệ danh dự của cá nhân người lãnh đạo và tập thể là “thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ khả năng, uy tín”, cán bộ dù ở địa phương hay Trung ương, ở cấp thấp hay cấp cao đều phải có ý thức tự nguyện rời khỏi vị trí khi không còn đủ khả năng, uy tín, tạo thành “văn hóa từ chức.” Đây là việc làm cần thiết của những người có lòng tự trọng để bảo vệ danh dự của bản thân và tổ chức đảng nơi họ công tác.

Đảng ta tiếp tục đề cập đến “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” bằng những quy định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với bản thân, gia đình và tổ chức đảng. Đây là phẩm chất cốt lõi của cán bộ, đảng viên, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng, thể hiện phẩm chất và năng lực trong bảo đảm thực thi, hoàn thành nhiệm vụ, trọng trách Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Khi cán bộ, đảng viên ghi nhớ và thực hành sâu sắc “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sẽ góp phần quan trọng xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị, đạo đức và tổ chức.

Từ những nội dung trong Quy định 144 của Bộ Chính trị, khẳng định nhất quán quan điểm của Đảng ta kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức một cách thường xuyên, liên tục, mọi lúc mọi nơi, bất cứ trong hoàn cảnh nào và luôn nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.  

 

Học nữa, học mãi, học theo Bác

 BÁC HỒ - TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ “HỌC, HỌC NỮA, HỌC MÃI”


Bác Hồ, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng giáo dục, nhà sư phạm thực tiễn vĩ đại, đồng thời là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học.


Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 6-5-1950, Người nói: “Lê-nin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi người phải ghi nhớ và thực hành điều đó”. Người còn cho treo trong phòng họp lời dạy của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người coi lời dạy của Lê-nin là phương châm sống và hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cũng tại Hội nghị này, Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”. Người còn xác định: “Không phải có thầy thì học, không thầy đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”.


Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về cách học tập, Người viết: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”.

Thân phụ của Người, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy là thầy dạy chữ Hán cho Người. Nhờ chăm học và học rất giỏi, sau này Người sử dụng thành thạo chữ Hán trong sáng tác thơ Đường. Quách Mạt Nhược, nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, đã từng nói rằng: nếu để một số bài thơ Đường trong tập Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bên cạnh những bài thơ Đường bất hủ thì e khó mà phân biệt nổi.

Khi theo thân phụ vào Huế, Người học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, rồi Trường Quốc học Huế, Người rất yêu thích học tiếng Pháp. Trong cuộc biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, Người đã từng làm phiên dịch giúp cho những người biểu tình đề đạt nguyện vọng, đấu tranh với viên Khâm sứ Pháp.


Ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911), trên tàu Latouche Tréville, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành với tên mới Văn Ba đã nêu cao ý chí tự học: “Mỗi ngày, đến 9 giờ tối công việc mới xong…, Anh mệt lử. Nhưng trong khi mọi người nghỉ hay đánh bài, anh đọc hay viết đến mười một giờ hoặc nửa đêm”.


Trong thời gian ở thị trấn Saint Adret, làm vườn cho gia đình viên chủ hãng tàu, Nguyễn Tất Thành cũng tranh thủ học tiếng Pháp. Khi gặp những từ mới, anh Thành viết vào một tờ giấy dán vào chỗ dễ thấy, có khi viết vào cánh tay để trong lúc làm việc vẫn học được. Cả khi đi đường, anh cũng nhẩm những từ mới học. Và cứ như thế, mỗi ngày, anh học thêm vài từ mới, và tìm cách ghép câu để dùng ngay. Sau đó không lâu, Nguyễn Tất Thành học cách viết báo. Anh bắt đầu viết được những bài báo ngắn với sự giúp đỡ của ông chủ bút báo “Đời sống thợ thuyền”. Sau đó, anh viết những bài báo dài hơn. Khi viết được những bài báo dài, ông chủ bút lại khuyên anh viết ngắn lại. Sau đó, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng trở thành nhà báo có uy tín tại thủ đô nước Pháp, là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ) với nội dung đầy sức chiến đấu, lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, đấu tranh cho quyền lợi của người lao động.


Cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất, từ Anh trở lại Pháp, anh Thành viết bài cho các báo, tạp chí và viết sách bằng tiếng Pháp. Những bài đăng trên các báo Le Paria, Thư tín Quốc tế, Đời sống công nhân…, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp đã minh chứng cho sự thành công của một người tự học.


Chỉ trong một thời gian chưa đầy 10 năm sống ở Pháp, người thanh niên có chí khí ấy đã học hỏi được nhiều điều bổ ích cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của mình. Thường thường, Nguyễn Tất Thành chỉ làm việc buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến, dự mit-tinh ở Paris.


Khi đến Liên Xô, đất nước của Lê-nin vĩ đại, làm việc ở Bộ Phương Đông, học ở Trường Quốc tế Lê-nin, nghiên cứu sinh ở Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc học và thuộc địa, anh tự học tiếng Nga thật vất vả, nhưng đã nhanh chóng thành công. Người đã viết bài đăng báo, tạp chí và đã hoàn thành chương trình học tập ở Trường Quốc tế Lê-nin.


Không dừng lại ở những ngoại ngữ đã biết, Bác Hồ của chúng ta còn nỗ lực tiếp tục học thêm một số ngoại ngữ khác. Năm 1928, khi hoạt động cách mạng tại Thái Lan, Người đã tự học thêm tiếng Thái. Mỗi ngày học 10 chữ, và chỉ sau ba tháng, Người đã xem được báo chữ Thái.


Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (1935), với bí danh Lin, khi khai lý lịch, trả lời câu hỏi về trình độ học vấn (tiểu học, trung học, đại học), Người đã ghi: Tự học. Trả lời câu hỏi: Đồng chí biết những ngoại ngữ nào? Người ghi: Anh, Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga.


Bác Hồ đến với chủ nghĩa cộng sản bằng con đường tự học. Sự tự học của Người gắn chặt với mục tiêu lý tưởng mà Người phấn đấu.

Bác luôn nhắc nhở đồng chí của mình và thế hệ trẻ phải nỗ lực học và tự học. Người ân cần dạy bảo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.


Trong bài nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, ngày 9-12-1961, Người tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học…Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau. Chúng ta là đảng viên già, hiểu biết của chúng ta hồi 30 tuổi so với sự hiểu biết của lớp trẻ bây giờ…thì chúng mình dốt lắm. Tôi cũng dốt lắm…Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ta hiểu như thế, nhưng không có tư tưởng thụt lùi nạnh kẹ…”.


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng. Và chính cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về tự học./.


TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH TỚI TRUNG QUỐC BẮT ĐẦU THAM DỰ HỘI NGHỊ WEF ĐẠI LIÊN!

         Thủ tướng Phạm Minh Sau hơn 3 giờ bay, vào lúc 11 giờ 35 theo giờ địa phương, ngày 24-6 (10 giờ 35 phút, giờ Hà Nội), chuyên cơ chở Thủ tướng Phạm Minh và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Chu Thủy Tử, thành phố Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) để dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 15 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF Đại Liên 2024) và làm việc tại Trung Quốc!

Đón Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam tại sân bay Chu Thủy Tử có Phó tỉnh trưởng Liêu Ninh Cận Quốc Vệ; Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba; Phó thị trưởng thành phố Đại Liên Lãnh Tuyết Phong. Về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai và cán bộ, nhân viên Đại sứ quán.

Dự kiến trong khuôn khổ Hội nghị WEF Đại Liên, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ tham dự và phát biểu tại các phiên của Hội nghị; cùng Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch điều hành WEF, ông Klaus Schwab, chủ trì Phiên Đối thoại với lãnh đạo các tập đoàn lớn của WEF; chủ trì Tọa đàm với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; đồng thời có các cuộc tiếp xúc song phương với lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp WEF trong khuôn khổ Hội nghị.

Đối với hoạt động song phương với Trung Quốc, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ có các cuộc hội đàm, hội kiến với lãnh đạo cấp cao Trung Quốc; làm việc với một số tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn của Trung Quốc và gặp gỡ cán bộ, nhân viên các cơ quan đại diện Việt Nam tại Trung Quốc.

Chuyến công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 góp phần làm sâu sắc quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, xây dựng "Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược"; và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và WEF./.
Yêu nước ST.

THẾ GIỚI VIỆT NAM: TỔNG THỐNG NGA PUTIN GỬI THƯ CẢM ƠN TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

         Tổng thống Nga Vladimir Putin gửi thư cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm, sau chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam trong hai ngày 19-20/6/2024!

TTXVN đưa tin, bức thư đăng tải trên trang web của Điện Kremlin nêu rõ các cuộc hội đàm giữa Tổng thống Vladimir Putin và các nhà lãnh đạo Việt Nam "thực sự mang tính xây dựng và hiệu quả".

Tổng thống Vladimir Putin tin tưởng việc thực hiện các thỏa thuận song phương đã đạt được sẽ giúp tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, đồng thời hy vọng hai bên sẽ tiếp tục hợp tác tích cực đối với các vấn đề then chốt trong chương trình nghị sự song phương và quốc tế.

Tổng thống Nga bày tỏ cảm ơn các nhà lãnh đạo Việt Nam về sự đón tiếp nồng hậu và lòng hiếu khách. Ông nhấn mạnh chuyến thăm Việt Nam đã để lại cho ông những ấn tượng tốt đẹp nhất.

Tổng thống Vladimir Putin chúc các nhà lãnh đạo Việt Nam nhiều sức khỏe và đạt được những thành tựu mới vì lợi ích của người dân Việt Nam./.
Môi trường ST.