Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

 

Cảnh báo về tấn công mạng có chủ đích mới nhắm vào Việt Nam

Trong quá trình giám sát an toàn thông tin trên không gian mạng thời gian gần đây, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC) thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát hiện các hành vi tấn công trái phép của nhóm tin tặc (hacker) mang tên “Mustang Panda” nhằm vào một số tổ chức tại Việt Nam.

Mustang Panda được biết đến là một nhóm tin tặc thường thực hiện các cuộc tấn công có chủ đích (APT). Thời gian qua, nhóm này đã thực hiện các chiến dịch tấn công mạng vào các cơ quan, tổ chức ở khu vực Đông Nam Á.

Cảnh báo về tấn công mạng có chủ đích mới nhắm vào Việt Nam

Cảnh báo về tấn công mạng có chủ đích mới nhắm vào Việt Nam. Ảnh minh họa: freepik.com

Chiến dịch tấn công mới của nhóm tin tặc Mustang Panda sử dụng những “mồi nhử” xoay quanh lĩnh vực giáo dục và thuế. Bằng cách áp dụng nhiều góc tiếp cận và lợi dụng các công cụ phần mềm “forfiles.exe” để thực thi file độc hại được lưu ở máy chủ C&C. (C&C - Command and Control Server về cơ bản là phần mềm chủ, chịu trách nhiệm kiểm soát và giám sát hoạt động của các phần mềm độc hại). Đáng nói, mục tiêu mà nhóm Mustang Panda hướng tới là các tổ chức chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức giáo dục…

Theo phân tích của các chuyên gia bảo mật, hai chiến dịch tấn công của nhóm Mustang Panda được ghi nhận trong các tháng 4 và 5-2024 nhằm vào tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam đã sử dụng tệp văn bản (file) có nội dung liên quan tới cơ quan thuế và tổ chức giáo dục. 

Trước tình hình trên, Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin, an toàn thông tin các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet và nền tảng số cùng tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại… kiểm tra, rà soát hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý có khả năng bị ảnh hưởng bởi chiến dịch tấn công do nhóm Mustang Panda thực hiện. Việc phát hiện sớm các cuộc tấn công sẽ giúp đơn vị có phương thức phòng ngừa bị tấn công, từ đó giảm thiểu hậu quả của sự cố tấn công mạng.


 

80 năm vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng - Đường lối “người trước súng sau” - nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam

LTS - Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện; được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã lớn mạnh không ngừng, lập nên nhiều chiến công hiển hách, hoàn thành trọng trách của đội quân cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-2024), Báo Quân đội nhân dân mở chuyên mục “80 năm vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng”, phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta. Báo QĐND mong nhận được nhiều bài viết của bạn đọc cả nước. Tác phẩm xin gửi về Phòng biên tập Quốc phòng-An ninh, Báo QĐND-số 7, Phan Đình Phùng, Hà Nội; email: quansu.qdnd@gmail.com.

Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, những chiến công vĩ đại của QĐND Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với nước nhà mà còn được nhân loại tiến bộ trên thế giới ngợi ca. Một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Quân đội chính là tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”, đặt chính trị lên trước quân sự, trọng con người hơn vũ khí.

80 năm vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng - Đường lối “người trước súng sau” - nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam
Ảnh minh họa: Baochinhphu.vn 

Năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa I), Đảng ta quyết định sẽ giành chính quyền bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Khi ấy, một số cán bộ băn khoăn, lo lắng không biết sẽ lấy ở đâu vũ khí để khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh cho rằng: “Không sợ thiếu vũ khí. Chỉ sợ khi thời cơ đến lại thiếu người cầm vũ khí. Việc khẩn cấp bây giờ là phải xây dựng lực lượng vũ trang, đào luyện con người, mở rộng căn cứ địa”. Trong Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”-tiền thân của QĐND Việt Nam (ngày 22-12-1944), lãnh tụ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự”.

Về sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn, trong xây dựng Quân đội phải “người trước súng sau”. Người phân tích: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Đồng thời, trên cơ sở tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phủ nhận vai trò của vũ khí, trang bị hiện đại đối với sức mạnh của Quân đội bởi lịch sử các cuộc chiến tranh chứng tỏ chỉ khi ý chí chiến đấu kết hợp với sức mạnh của vũ khí mới giành được thắng lợi. Mặt khác, nếu không có vũ khí, trang bị thì ý chí chiến đấu dù mạnh mẽ đến đâu cũng sẽ suy giảm và tiêu tan. Với quan điểm “người trước súng sau”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải đào tạo, huấn luyện thế hệ cầm súng có lý tưởng cách mạng, dám “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Người yêu cầu người chiến sĩ phải luôn chấp hành kỷ luật nghiêm minh; tinh thần vững chắc; ý chí quyết chiến quyết thắng; trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung; dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết sử dụng thành thạo, linh hoạt các loại vũ khí có trong tay; chăm chỉ học tập và rèn luyện kỹ năng tác chiến.

Những chỉ thị có ý nghĩa vô cùng quan trọng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ đầu bản chất chính trị và bản chất cách mạng của Quân đội ta. Bản chất đó được thể chế hóa bằng nguyên tắc lãnh đạo và tổ chức của QĐND Việt Nam, thể hiện trong lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. 

Thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn về sức mạnh vô địch của tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”. Sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám và tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, thực dân Pháp được Mỹ hậu thuẫn và chi viện, đã quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Với niềm tin vô bờ bến vào sức mạnh vô song của chiến tranh nhân dân, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiệu triệu: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". "Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp đã dẫn đến cuộc đối đầu lịch sử tại Điện Biên Phủ được coi là “điểm hẹn lịch sử” với nhiều hàm ý, trong đó có hàm ý cuộc đối đầu giữa tư duy vũ khí luận của chủ nghĩa thực dân và đế quốc, cậy thế vào sức mạnh vũ khí với tư duy dựa vào sức mạnh và ý chí của con người, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chuyến thăm các vùng đất của ta tạm thời bị thực dân Pháp chiếm đóng, một nghị sĩ Pháp đưa ra nhận định rằng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giống như “cuộc chiến giữa muỗi với voi”. Bình luận về nhận định này của nghị sĩ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của mình bằng câu ca “Nay tuy châu chấu đấu voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”. Rút cuộc, thực dân Pháp và ở mức độ nào đó là cả lực lượng can thiệp Mỹ, đã đại bại ở Điện Biên Phủ vào ngày 7-5-1954.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Sau chiến thắng của ta ở Điện Biên Phủ, cụm từ “Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ” trở thành biểu tượng của ý chí đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do.

Với nhãn quan chiến lược “xuyên thế kỷ”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định, chiến thắng lịch sử của ta ở Điện Biên Phủ tuy “chấn động địa cầu” nhưng chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Tiếp theo, Việt Nam còn phải đương đầu với kẻ thù xâm lược hung bạo gấp nhiều lần là đế quốc Mỹ. Sau khi phá hoại Hiệp định Geneva năm 1954 chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp, chế độ thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ phát động "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam. Bị thất bại trong "chiến tranh đặc biệt", Mỹ quyết định phát động "chiến tranh cục bộ" trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương. Khi phát động "chiến tranh cục bộ", các tướng tá Mỹ tuyên bố thách thức đầy ngạo mạn rằng liệu những người lính chân đất của Hồ Chí Minh có thể đối chọi được tên lửa hạt nhân xuyên lục địa của Mỹ? Thậm chí, chúng còn đe đọa, bằng các đòn tấn công hủy diệt của vũ khí siêu hiện đại, Mỹ sẽ đưa Việt Nam về “thời kỳ đồ đá”!

Dưới sự lãnh đạo, tài thao lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, ý chí chiến đấu ngoan cường của lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là QĐND Việt Nam, chúng ta đã khai thác, sử dụng hiệu quả tất cả vũ khí trang bị để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Có thể thấy, trong cuộc chiến tranh này, đế quốc Mỹ đã sử dụng tất cả vũ khí hiện đại nhất và các loại hình chiến tranh khốc liệt nhất. Tuy nhiên, rốt cuộc Mỹ đã thất bại thảm hại mà đỉnh cao là trong chiến dịch ném bom chiến lược “Linebacker” tháng 12-2972, được ví như “Điện Biên Phủ trên không”. Trong chiến dịch này, hàng chục “pháo đài bay” B-52 của Mỹ đã bị “những người lính chân đất” bắn hạ. Thất bại của "chiến tranh cục bộ" buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973.

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng thất bại của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là thất bại của tư duy vũ khí luận của đội quân xâm lược mạnh nhất thế giới tư bản trước tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh dựa vào sức mạnh và ý chí của con người sẵn sàng chiến đấu vì độc lâp, tự do của Tổ quốc, không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh xâm lược tàn bạo nào, của đường lối chiến tranh nhân dân, của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Chính vì thế, âm mưu và thủ đoạn của các thế lực phản động và thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu “phi chính trị hóa Quân đội”, nghĩa là xóa bỏ sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội; làm thay đổi bản chất cách mạng của Quân đội; làm cho Quân đội từng bước xa rời phương hướng chính trị của Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, không còn là lực lượng chính trị tin cậy và là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước. Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh với các thủ đoạn mới của các thế lực thù địch bằng hệ thống giải pháp đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự hiệu quả.

 

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng-văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Hệ quả “vạ miệng” vì lạm quyền tự do ngôn luận

Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Tháng 8-2022, Sở Thông tin và Truyền thông TP Đà Nẵng đã xử phạt vi phạm hành chính với mức 7,5 triệu đồng đối với một nhà báo đăng tải bài viết về việc Đà Nẵng đề xuất mở "phố đèn đỏ" trên mạng xã hội. Theo cơ quan chức năng, bài viết của nhà báo này có những nội dung sai sự thật, hình ảnh đăng tải nhạy cảm, không kiểm chứng làm người đọc hiểu sai vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành của TP Đà Nẵng đối với sự phát triển du lịch.

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý. Ảnh minh họa: lamdong.gov.vn

Mới đây, một luật sư nguyên là Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội bị khởi tố, bắt giam trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố. Theo Bộ Công an, bị can này đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên Facebook xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Tháng 7-2023, Hamdan Al Rind-một người có ảnh hưởng trên mạng, chủ kênh chia sẻ video nổi tiếng “Chuyên gia ô tô” trên mạng xã hội TikTok với hơn 2,5 triệu người theo dõi-đã bị bắt ở Dubai vì một video hài. Trong clip này, anh ta ném những chồng hóa đơn cho những nhân viên đang ngơ ngác và đề nghị mua chiếc xe đắt nhất-một chiếc Ferrari SF90 trị giá 600.000USD. Clip được cho là sản xuất nhằm chế giễu lối sống xa hoa tại thành phố nổi tiếng với những tòa nhà chọc trời và những điểm du lịch hàng đầu thế giới này.

Nhà chức trách sau đó buộc tội Hamdan Al Rind đã “lạm dụng internet” bằng cách đăng thông tin “khuấy động dư luận và gây tổn hại đến lợi ích công cộng”. Hãng thông tấn nhà nước WAM đưa tin, clip này “quảng bá một hình ảnh tinh thần sai trái và xúc phạm về công dân Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và chế giễu họ”. Vụ bắt giữ Hamdan Al Rind dựa trên những quy định tại một đạo luật về tội phạm mạng được Các tiểu vương quốc Arab thống nhất thông qua vào năm 2021.

Nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận để không phát ngôn tùy tiện

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.

Không phạm vào “lằn ranh đỏ” giữa tự do ngôn luận và kỷ luật phát ngôn

Có thể thấy, việc hạn chế phát ngôn bừa bãi, thông tin tùy tiện trên mạng xã hội là nhằm bảo vệ cộng đồng chứ không chỉ là việc xử lý, trừng phạt những cá nhân có phát ngôn sai trái, xuyên tạc. Những thông tin sai sự thật có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đời sống xã hội. Phát ngôn gây thù ghét, phát ngôn kích động có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật, hành vi bạo lực nhắm vào những nhóm đối tượng cụ thể, hành vi kỳ thị dân tộc, giới tính, xuất thân...

Để hiểu đúng và thực hiện tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về an toàn an ninh trên môi trường số, trong đó nhấn mạnh đến giới hạn cần thiết của quyền tự do ngôn luận. Đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để thông tin sai sự thật, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát, phản biện những ý kiến, thông tin được truyền đạt trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Việc này không chỉ giúp làm rõ sự thật mà còn tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và đa chiều, đồng thời giúp ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận để gây rối, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa.

Quan tâm xây dựng mạng lưới những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOLs) tham gia phòng, chống thông tin sai trái, phát ngôn gây thù ghét, những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để bôi nhọ chế độ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... Những KOLs sẽ chủ động phát hiện, chủ động đấu tranh với thông tin sai trái, xấu độc; đồng thời lan tỏa những thông tin đúng đắn, tích cực đến cộng đồng.

Hiểu đúng tự do ngôn luận và phòng ngừa tự do phát ngôn tùy tiện gây tác hại đến an ninh tư tưởng-văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua việc tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức công dân trong sử dụng tự do ngôn luận, cũng như áp dụng các biện pháp quản lý và giám sát hợp lý, chúng ta có thể tạo ra một môi trường truyền thông lành mạnh, an toàn, đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, việc hiểu đúng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, cũng như tuân thủ nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi là việc làm thiết thực góp phần giữ vững môi trường thông tin xã hội lành mạnh; đồng thời cũng là một cách góp phần phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị.


 

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng 

Chính nhờ có kỷ luật của Đảng nghiêm minh, các đảng viên nghiêm túc, tự giác chấp hành mà trong suốt 94 năm qua, Đảng ta đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng mạnh nhờ kỷ luật nghiêm minh

Trong xã hội, mọi tổ chức muốn tồn tại và phát triển, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đều phải xây dựng được hệ thống các quy định, quy chế hoạt động, hay nói cách khác là phải có kỷ luật và tất cả các thành viên trong tổ chức đều phải tuyệt đối thực thi. Rõ ràng, kỷ luật càng chặt chẽ thì tổ chức càng vững mạnh, kỷ luật mà lỏng lẻo, các thành viên trong tổ chức không chấp hành, hoặc chấp hành kỷ luật theo kiểu đối phó, hình thức, vô kỷ luật thì tổ chức khó tránh khỏi tan rã.

Đối với Đảng ta, vấn đề giữ nghiêm kỷ luật là yếu tố sống còn khi Đảng lãnh xướng sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Bởi rằng, mọi hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, dù nhỏ nếu không được phát hiện, điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sẽ dẫn đến vi phạm lớn và hệ quả là làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kỷ luật của Đảng không nằm ngoài mục đích để bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất quán giữa ý chí và hành động, giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Kỷ luật càng chặt chẽ, nghiêm minh thì mọi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng sẽ được triển khai thắng lợi và giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự giác chấp hành, luôn đặt mình trong khuôn khổ, “không muốn, không thể và không dám” vi phạm kỷ luật của Đảng. Chỉ có những kẻ “cố ý phá hoại”, những người không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tha hóa, biến chất mới bất chấp tất cả mà vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Đảng mạnh chính là nhờ có kỷ luật nghiêm minh. Về vấn đề này, Lênin đã khẳng định: “Nếu không có kỷ luật sắt hết sức nghiêm khắc thì người Bônsêvich không giữ nổi chính quyền lấy hai tháng rưỡi chứ đừng nói là hai năm rưỡi”. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Lênin, trong các bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của việc giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Người khẳng định: “Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra ngoài Đảng[1].

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng (tiếp theo và hết)
Kỳ họp thứ 37, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII. Ảnh: Anh Quân 

Hơn một thập kỷ trở lại đây, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang gặt hái được nhiều thành quả to lớn rất đáng ghi nhận, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Đây chính là quá trình Đảng ta siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, để mỗi tổ chức đảng, đảng viên “tự soi”, tự nhìn nhận ra khuyết điểm, hạn chế và ra sức uốn nắn, sửa mình trước khi vượt qua ranh giới, khuôn khổ kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Ngược lại, những con số thống kê về số lượng tổ chức đảng và đảng viên bị thi hành kỷ luật thời gian qua, dẫu có thể khiến chúng ta buồn lòng, thậm chí là đau xót. Nhưng suy cho cùng, đó cũng chỉ là những “con sâu” đã làm mục ruỗng tổ chức, làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng nên nhất thiết phải loại bỏ. Chúng ta vẫn còn đó đội ngũ hơn 5 triệu đảng viên trong toàn Đảng, luôn sục sôi nhiệt huyết, kiên định lý tưởng của người cộng sản và tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn đặt nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lên trên hết, trước hết.

Sức mạnh của Đảng nằm trong mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên, nhưng để sức mạnh của Đảng muôn triệu người như một thì nhất thiết phải đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động. Quan trọng hơn, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt và thực hành thường xuyên tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật đảng, tự giác đặt mình trong sự quản lý của tổ chức đảng. Điều đó đòi hỏi mỗi đảng viên, dù đặt trong điều kiện, hoàn cảnh nào, luôn phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng. Chấp hành kỷ luật đảng không chỉ cần tinh thần tự giác mà cao hơn là sự bắt buộc. Tuy nhiên, yếu tố “bắt buộc” trong kỷ luật của Đảng không phải là sự ép buộc, càng không phải là miễn cưỡng thực thi mà phải trên cơ sở giác ngộ chính trị, giác ngộ càng cao thì bắt buộc sẽ trở thành tự giác và tự giác càng cao, kỷ luật của Đảng càng nghiêm túc.

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng - mệnh lệnh không lời

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đưa ra cảnh báo về những nguyên nhân dẫn đến làm mất kỷ luật đảng và đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người đã nhấn mạnh rằng: “do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân[2].

Trong giai đoạn hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đã mang đến sự phát triển to lớn cho đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra rất nhiều vấn đề. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên do không thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, không thường xuyên tôi rèn bản lĩnh nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, sa vào “bẫy” suy thoái, bị thâu tóm và thao túng bởi lợi ích nhóm, bị hấp dẫn bởi ma lực của đồng tiền. Họ dễ dàng gục ngã trước những viên “đạn bọc đường”, dẫn đến tham ô, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và hệ quả nhãn tiền là tù tội, rơi vào vòng lao lý. Hơn hết là bản án lương tâm với đồng chí, đồng nghiệp, với cơ quan, gia đình, dòng tộc khi không chỉ làm mất đi danh dự của bản thân mà còn làm tổn hại thanh danh của Đảng. 

Có thể khẳng định rằng, chính chủ nghĩa cá nhân là thứ đẻ ra mọi loại vi phạm, khuyết điểm, tật ách, tai tương và “bẫy” suy thoái không chừa một ai. Giữ gìn sự nghiêm minh của kỷ luật đảng, hay nói cách khác là phải tuyệt đối chấp hành kỷ luật của Đảng là mệnh lệnh, là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên trong mọi giai đoạn, mọi thời điểm. Để làm được điều đó, cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản lĩnh và giữ gìn danh dự người đảng viên, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Đây là yêu cầu bắt buộc và phải thực hành thường xuyên, như “đánh răng, rửa mặt” hằng ngày, bởi rằng chỉ có đạo đức cách mạng trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng mới có thể vượt qua được mọi cám dỗ, không sa vào chủ nghĩa cá nhân và “bẫy” suy thoái. Đạo đức, danh dự, nhân phẩm của người đảng viên không phải “trên trời sa xuống”, cũng không phải cứ gắn lên mình hai chữ đảng viên là có được. Đó là cả quá trình bền bỉ tu dưỡng, kiên tâm, bền chí rèn luyện hằng ngày, “cũng như ngọc càng mài càng sáng”, nên mỗi người phải biết trân trọng, giữ gìn và bảo toàn, “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, để xứng đáng là người đảng viên của Đảng.

Hai là“Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác...”, vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Chỉ khi nghiêm túc và tự giác học tập, mỗi cán bộ, đảng viên mới thấu triệt và nghiêm túc chấp hành mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi đó, mỗi người sẽ nghiêm túc và tự giác đặt mình trong khuôn khổ kỷ luật, kỷ cương, phép tắc của Đảng.

Ba là, những năm gần đây, hệ thống pháp luật ở nước ta đã tương đối hoàn thiện và đồng bộ, tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa theo sát với thực tiễn đang vận động và phát triển liên tục. Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, các quy định của Đảng vẫn còn chậm được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật Nhà nước. Cụ thể như, trong Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nêu rõ: “kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp...”. Tuy nhiên, phải đến 2 năm sau Chính phủ mới ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...

Những nguyên nhân trên vô hình trung tạo ra lỗ hổng, kẽ hở khiến cho cán bộ, đảng viên hoặc là sợ sai không dám làm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, hoặc là những kẻ “cố ý phá hoại”, những kẻ đã sa vào “bẫy” suy thoái bất chấp tất cả mà lợi dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, dẫn đến vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Do đó, việc hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hóa các quy định của Đảng thành chính sách pháp luật Nhà nước là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng pháp luật, hành lang pháp lý và các chế tài phải tiệm cận, đồng bộ với các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để vừa mang ý nghĩa giáo dục, vừa cảnh báo, răn đe và nghiêm khắc, nghiêm minh, để bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên “không thể, không dám, không muốn” vi phạm kỷ luật Đảng. 

Bốn là, thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng trong thời gian qua, đó là công tác kiểm tra, giám sát có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, kịp thời. Do đó, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần phải duy trì thường xuyên, liên tục công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên cấp dưới. Nhất là tăng cường kiểm tra đột xuất, không chờ đến khi “có dấu hiệu vi phạm” mới tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, giám sát phải được tiến hành nghiêm túc và thực chất, tuyệt đối không được dung túng, bao che, không nhẹ trên, nặng dưới. Làm tốt phần việc này chính là góp phần quan trọng, giúp chấn chỉnh việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng; kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm ngay từ khi còn manh nha và ngăn chặn kịp thời, không để những vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, không để vi phạm của cá nhân thành sai phạm của cả tập thể.

Năm là, người xưa đã răn “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, từ thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua cho thấy, ở mọi cơ quan, đơn vị, địa phương, khi người đứng đầu gương mẫu và thường xuyên thực hành nêu gương trong mọi việc, từ lời nói đến hành động thì các đảng viên và quần chúng cấp dưới cũng sẽ theo đó mà học theo, làm theo. Bởi vậy, cần đề cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của người đứng đầu các cấp; cấp trên làm gương cho cấp dưới, đảng viên làm gương cho quần chúng trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

 

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan

Hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.

Thực tiễn sinh động liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Môi trường sôi động cho giới báo chí

Ở Việt Nam, báo chí được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan
Báo chí được tạo điều kiện tác nghiệp tại Việt Nam. Ảnh minh họa: cand.com.vn 

Những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt nêu rõ trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 15-4-2024 và trong bài phát biểu khai mạc Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 4 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 7-5-2024. Theo đó, sau 26 năm kết nối internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38% so với năm 2019. Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí và 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí cũng đã lên tới khoảng 41.000 người.

Chẳng thế mà chuyên gia phân tích chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam.

Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.

Cũng cần nói thêm rằng, các cơ quan báo chí, truyền thông ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng phản biện xã hội của mình. Bằng chứng là thể loại phóng sự điều tra trong khuôn khổ Giải Báo chí quốc gia hằng năm và Giải Báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhận được sự quan tâm, tham gia của các nhà báo, phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí trên cả nước.

Những con số mơ hồ và đánh giá mang tính áp đặt

Bất chấp những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do báo chí đã được các nước ghi nhận, đánh giá cao, một số cá nhân, tổ chức vẫn cố tình đưa ra những đánh giá mang tính áp đặt, định kiến và thiếu khách quan về vấn đề này.

Nhìn vào những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.

Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải làm việc đó.

Những cá nhân, tổ chức thường xuyên phê phán tự do báo chí ở Việt Nam và tung hô tự do báo chí của phương Tây có lẽ nên tham khảo những ví dụ được nêu trong báo cáo mà Trung tâm Nghiên cứu Pew công bố hồi tháng 4 năm nay. Chẳng hạn, trong báo cáo này, Trung tâm Nghiên cứu Pew cho biết, đại đa số người Mỹ coi quyền tự do báo chí là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của xã hội, nhưng cũng có nhiều người bày tỏ lo ngại về những hạn chế tiềm ẩn đối với quyền tự do báo chí ở Mỹ. Cụ thể, cứ 5 người Mỹ thì có 1 người nói rằng giới truyền thông không được tự do hoặc hoàn toàn không được tự do đưa tin ở Mỹ. Ngoài ra, 41% người Mỹ “cực kỳ hoặc rất lo ngại” về những hạn chế tiềm tàng đối với quyền tự do báo chí ở nước này và 29% bày tỏ thái độ “có phần lo ngại”. Vậy thì ở Mỹ, có hay không có tự do báo chí và ai mới có thể là người đưa ra câu trả lời chính xác?

Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm.