Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

 Sự xuyên tạc, kích động thâm hiểm về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển


Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát triển bền vững. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên là cần nâng cao cảnh giác trước những âm mưu xuyên tạc, kích động về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển nhằm gây ra những bất ổn về chính trị, xã hội.

Từ trước đến nay, đường lối, chính sách, các chiến lược, kế hoạch... phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta đều khẳng định rất rõ ràng, biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên và lâu dài của Việt Nam. Ngay từ thời điểm đang phải dồn toàn lực để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù khó khăn trăm bề, Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã kịp thời đưa lực lượng, phương tiện đi giải phóng các đảo từ tay chế độ cũ, thể hiện tầm nhìn trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Trong suốt những năm qua, Việt Nam luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tất cả lợi ích hợp pháp, chính đáng trên biển Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã nhiều lần phát ngôn công khai, khẳng định rõ lập trường, quan điểm nêu trên.

Hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều đó được thể hiện rõ qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện nay.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân yên tâm bám biển, làm giàu từ biển. Nhiều ngành kinh tế biển được chú trọng như khai thác dầu khí, vận tải biển, điện gió ngoài khơi, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học... thực hiện sách lược gắn kinh tế với quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”.

Thứ ba, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.

Đảng, Nhà nước ta thực hiện triết lý “Ngoại giao cây tre” mà bản chất là mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt. Mục tiêu lớn nhất là tránh được xung đột, không để xảy ra chiến tranh, giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng đồng thời bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc với quyết tâm cao nhất. Chúng ta biết nhu, biết cương, biết thời thế, biết thực lực, biết mình, biết người, biết tiến, biết lui đúng lúc, hợp thời. Đó cũng là thực hiện triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Lạt mềm buộc chặt” mà ông cha ta đã đúc rút từ các bài học đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của nước ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn.

Thứ tư, Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng kiểm ngư vững mạnh, với trang bị, phương tiện ngày càng đồng bộ, hiện đại đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng nêu trên luôn có tinh thần, quyết tâm cao, kiên quyết, kiên trì, kiên cường thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, không có chuyện “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”... như kẻ xấu xuyên tạc, vu cáo.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền đã thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự quản lý thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, tạo đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo rõ ràng là xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời.

CĐ, VS (st)

PHÒNG, CHỐNG THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐỂ PHÁ HOẠI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

     Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence-AI) đã, đang và sẽ mở ra những cơ hội cũng như thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sức mạnh AI có thể được sử dụng để tăng cường hiệu quả truyền thông, quản lý và định hướng tư tưởng. Tuy nhiên, đi liền với cơ hội là nguy cơ khi các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tế đó đặt ra phải triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp nhằm tận dụng cơ hội cũng như phòng ngừa mặt trái từ AI, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

    Nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước

    Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động tận dụng AI và mạng xã hội để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng một cách bài bản, có tổ chức và ngày càng tinh vi hơn. Thủ đoạn phổ biến mà các thế lực thù địch đang sử dụng là lợi dụng AI để tạo và lan tỏa thông tin xấu độc (tin giả) đến các tầng lớp nhân dân một cách liên tục, rộng khắp, thần tốc với mục tiêu gây hoang mang, xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

    Các thế lực thù địch tạo ra thông tin xấu độc bằng cách lợi dụng AI tạo ra những câu chuyện hoàn toàn không có thật, thông tin dựa trên đồn đoán, chèn thông tin giả vào một sự kiện có thật, chắp nối các sự kiện không liên quan với nhau, sử dụng nhân chứng giả hoặc nhân chứng có thành kiến (định kiến) về một chủ đề, trích dẫn tuyên bố của một người có uy tín vào một tình huống không liên quan.

    Theo nghiên cứu của các cơ quan chức năng, ở Việt Nam hiện nay, các tin giả trên mạng chủ yếu được tạo ra bởi một số phần tử phản động và những cá nhân cơ hội chính trị, cực đoan chống đối. Một số tin giả khác được tạo ra bằng cách sử dụng các “robot mạng” (còn gọi là “bots”) có sử dụng công nghệ AI. Những tin giả này được tự động tán phát vào các nhóm phản động, sau đó lan rộng ra các hội nhóm khác, tạo ra một lượng lớn tin giả trong thời gian ngắn. Nhiều tin giả được lan truyền thông qua các “tài khoản con rối” (tài khoản giả mạo được tạo ra bởi AI), làm cho người dùng internet không biết được số lượng thực sự và danh tính của những người chia sẻ thông tin trên mạng. Gần đây, các thế lực thù địch còn lợi dụng một số phần mềm AI như “photoshop giọng nói” hoặc “kỹ thuật chỉnh sửa video” để chỉnh sửa nội dung phát biểu của các nhân vật, thậm chí làm giả hoàn toàn một video clip để tạo ra các câu chuyện không đúng sự thật phục vụ các mục đích chống phá Đảng, Nhà nước ta.

    Dưới sự hỗ trợ của AI, các đối tượng đã tạo ra các nhân vật ảo với khuôn mặt và giọng điệu giống hệt những người dẫn chương trình từ các kênh thông tin chính thống. Tiếp đó, chúng xây dựng những kịch bản hấp dẫn, thường có tính chất gay cấn với nội dung sai lệch, phản động, nhằm thu hút sự chú ý và tương tác từ cộng đồng mạng. Nhiều video còn được gắn thêm logo của các kênh tin tức uy tín, gây nhầm lẫn cho người xem rằng đây là thông tin đã được kiểm chứng.

    Thủ đoạn tinh vi hơn là các thế lực thù địch lợi dụng AI để thu thập dữ liệu thông tin cá nhân, từ đó điều hướng thông tin và thao túng tâm lý người dùng. Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm vì nó đã và đang được các thế lực thù địch tiến hành một cách thường xuyên, liên tục nhằm tạo hiệu ứng “mưa dầm thấm lâu”. Theo các chuyên gia công nghệ, hiện nay, tất cả hoạt động trên không gian mạng như bài đăng, lượt thích, bình luận, thời gian tương tác... đều trở thành dữ liệu để các nền tảng thu thập. Trên cơ sở dữ liệu đó, AI hoàn toàn có thể “vẽ được chân dung chi tiết của mỗi cá nhân”, hình thành sự hiểu biết về người dùng. Từ những tri thức này, hệ thống AI sẽ học và hiểu người dùng cả trong ngắn và dài hạn. Khi biết được tư duy, định hướng của người dùng thì việc định hướng thông tin (gửi các thông tin, thông điệp phù hợp với từng cá nhân), hay tập hợp lực lượng “những người có chung quan điểm” để phục vụ mục đích nào đó càng trở nên dễ dàng hơn.

    Phòng ngừa, khắc phục mặt trái của AI để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

    Trên cơ sở nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước, chúng ta cần triển khai những giải pháp khoa học, đồng bộ nhằm phòng ngừa, khắc phục những mặt trái của AI để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

    Việc cần làm trước hết là tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và tác tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức và khả năng phòng ngừa, ứng phó trước những thông tin xấu độc trên mạng xã hội. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, là cơ sở tiền đề để chúng ta nâng cao “khả năng tự miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Để triển khai thực hiện giải pháp này cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; trong đó, hệ thống các cơ quan báo chí chính thống đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp thông tin chính xác và định hướng dư luận tích cực, giúp mọi người nhận biết và nhận thức đúng về cơ hội, thách thức cũng như âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước.

    Các cơ quan báo chí, truyền thông cần chủ động cập nhật các thông tin về sự phát triển của AI trên thế giới, nhất là những cảnh báo về mặt trái của AI; tăng cường phối hợp với các đơn vị, tổ chức chuyên trách trong nước về chống tin giả, từ đó xây dựng hệ thống các chương trình, nội dung tuyên truyền, phân tích và làm rõ các chiêu trò, thủ đoạn lợi dụng AI để tạo và lan truyền tin giả, tin sai trái, xuyên tạc. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí, truyền thông quan tâm tuyên truyền, định hướng, trang bị cho công chúng, cộng đồng mạng những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để tự bảo vệ thông tin cá nhân; nâng cao tinh thần cảnh giác trước những thông tin xấu độc, ứng phó hiệu quả với những thách thức đến từ AI nói chung, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch, phản động nói riêng.

    Giải pháp căn cơ là chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong nghiên cứu, khai thác làm chủ và phát triển các ứng dụng AI phục vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước mắt, tập trung ưu tiên nguồn nhân lực cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, cần quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, trang bị kỹ thuật nhằm ứng dụng và phát huy AI trong công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ AI vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của các cơ quan, đơn vị chuyên trách còn những hạn chế nhất định. Một trong các nguyên nhân của hạn chế này là hệ thống hạ tầng cơ sở, trang thiết bị, nhất là hệ thống các trung tâm dữ liệu lớn chưa đồng bộ; các cơ quan chủ quản dữ liệu số chưa sẵn sàng kết nối, chia sẻ dữ liệu; hệ thống dữ liệu chưa được chuẩn hóa dẫn đến sức mạnh dữ liệu chưa được giải phóng, gây khó khăn trong triển khai, phát triển các ứng dụng liên quan đến AI.

    Do vậy, việc xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, trung tâm dữ liệu lớn là vấn đề cấp thiết. Theo đó, cần ưu tiên xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở gắn với mục tiêu chuyển đổi số quốc gia theo lộ trình đã xác định; đẩy mạnh xây dựng mới, củng cố, nâng cấp hệ thống các trung tâm dữ liệu theo hướng tập trung phát triển sản phẩm AI (ngôn ngữ Việt Nam) cung cấp các thông tin mang tính đặc thù, bản địa, đặc trưng của người Việt và theo từng vùng, miền, lĩnh vực cụ thể để người dùng có thể hỏi đáp các thông tin mang tính đặc thù của Việt Nam, như: Quy định, văn bản pháp luật, lịch sử, địa lý, văn học, phong tục tập quán..., từ đó có thể dễ dàng tìm kiếm các nguồn thông tin nhanh chóng, chính xác và tin cậy. Mặt khác, cần đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, phát triển các sản phẩm sử dụng AI mang thương hiệu Việt Nam với mục tiêu nâng cao chất lượng thông tin, truyền thông; tự động phát hiện, phòng chống tin giả, tin chống phá Đảng, Nhà nước.

    Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng các văn bản pháp luật, khung pháp lý về giám sát và quản lý AI ở nước ta cần đáp ứng các yêu cầu vừa phải bảo đảm duy trì kiểm soát, kiểm duyệt nội dung thông tin phù hợp định hướng, thuần phong mỹ tục, vừa phải tạo ra không gian đủ rộng để doanh nghiệp phát triển. Theo đó, thực hiện các biện pháp như: Yêu cầu nhà cung cấp nền tảng phải đăng ký dịch vụ và tiến hành đánh giá an ninh trước khi sản phẩm được tung ra thị trường; bắt buộc dán nhãn trên nội dung do AI tạo ra; sử dụng dữ liệu hợp pháp để huấn luyện mô hình AI và cung cấp thông tin khi cơ quan chức năng yêu cầu; cấm sử dụng các nội dung kích động lật đổ chính quyền và chế độ cũng như vi phạm quyền riêng tư; quyền yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ loại bỏ nội dung bất hợp pháp và ngăn chặn việc tán phát thông tin xấu độc.

    AI là sản phẩm của văn minh nhân loại, mang đến cơ hội to lớn để mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, song cũng đặt ra những thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh vực, nhất là quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đây cũng là vấn đề đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII): “Thế giới ngày nay đã, đang và sẽ đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen đối với sự phát triển nhanh và bền vững dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trí tuệ nhân tạo và một số thành tựu công nghệ mới có khả năng thay thế con người trên một số lĩnh vực, tạo ra khối lượng thông tin, tri thức khổng lồ và những hiệu ứng làm thay đổi cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người và lối sống”.

    Nhận thức rõ điều đó, chúng ta vừa tận dụng những tiến bộ, lợi ích, vừa chủ động phòng ngừa những mặt trái của AI; đồng thời tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

PHÁT TRIỂN TRUYỀN THÔNG ĐỐI NGOẠI, PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC

 Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.

Truyền thông đối ngoại, xu thế toàn cầu về thông tin, báo chí

Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới, các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ... Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối.

Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xu thế chung của thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các nước lớn, trong đó chủ yếu xuất phát từ thiếu lòng tin chiến lược và nhu cầu đối với vấn đề an ninh quốc gia khiến cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gặp nhiều khó khăn, trở ngại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại của các nước. Trong bối cảnh các lực lượng thù địch đang ra sức tuyên truyền cho các giá trị phương Tây, bôi xấu, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, công tác thông tin đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức đúng đắn nhất về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là các vấn đề về dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận…

Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác truyền thông đối ngoại

Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.

Ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác truyền thông đối ngoại. Điều đó đã được thể hiện qua Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 10/5/1962 của Bộ Chính trị, về công tác tuyên truyền đối ngoại đã xác định công tác tuyên truyền đối ngoại là một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới. Tiếp đó, nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thông tin truyền thông đối ngoại qua các thời kỳ như: Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/-CT/TTg, ngày 26/4/2000 của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Ngày 10/9/2008, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 26-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”, xác định thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị với phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp với từng đối tượng”.

Ngày 14/2/2012, Bộ Chính trị khóa XI ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài”. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28/2/2013, phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Các văn bản trên là minh chứng cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới. Trên cơ sở những chủ trương, chính sách đó, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã triển khai thực hiện công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú và đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới, đề ra định hướng bao trùm của công tác đối ngoại trong giai đoạn phát triển của đất nước là triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đại hội đã khẳng định “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Thành tựu trong hoạt động truyền thông đối ngoại của Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.

Đến nay, hầu hết các cơ quan báo chí Việt Nam đã có trên nền tảng mạng internet. Một số cơ quan báo chí đã tiên phong và khá thành công trong việc ứng dụng các công nghệ số tiêu biểu như: Trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Big Data... Trước làn sóng “di dân” từ báo in sang báo điện tử, hàng trăm cơ quan báo chí cũng xây dựng các kênh truyền thông của mình trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Tiktok… Nhân sự làm việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 41.000 người (khối phát thanh, truyền hình khoảng 16.500 người). Trong đó, hơn 19.300 trường hợp được cấp thẻ nhà báo.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí được tăng cường. Hiện nay, nhiều hãng truyền thông quốc tế lớn trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Việc trao đổi thông tin với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua chương trình truyền hình ASEAN, hệ thống các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân... ở nước ngoài cũng như phiên bản tiếng nước ngoài của các báo điện tử đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ truyền thông đối ngoại; thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác, phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin kịp thời về các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nhất là tình hình ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, và những vấn đề quốc tế khác mới nổi lên như: vấn đề lao động, việc làm, di cư, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố, an ninh tiền tệ, ngân hàng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…

Trong một thế giới bất ổn, bất an, Việt Nam được bạn bè quốc tế tin cậy khi là điểm đến an ninh, an toàn, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm. Cùng với đó, Việt Nam cũng là một hình mẫu đang trên đà vươn lên mạnh mẽ, là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm, đóng vai trò chủ động và tích cực trong các công việc chung của khu vực và thế giới. Hoạt động đối ngoại của đất nước, trong đó có các hoạt động cấp cao diễn ra sôi động, liên tục đã khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán, quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, đóng góp vào việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống, hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

 

LINH MỤC ĐẶNG HỮU NAM CÓ “TÂM HUYẾT” GÌ?

 Sau khi được “treo chén”, linh mục Đặng Hữu Nam tiếp tục là miếng mồi cho các trang mạng, báo đài thiếu thiện chí lợi dụng để thực hiện chiêu trò chính trị chống phá đất nước. Mới đây, trang “Việt Tân” tiếp tục chia sẻ hỉnh ảnh của linh mục Đặng Hữu Nam cùng dòng tus “Lời tâm huyết của linh mục Đặng Hữu Nam” với hình ảnh, lời nói của vị linh mục này ”Tim còn đập, còn đối đầu cái ác. Máu còn hồng còn chống lại bất công. Miệng còn nói, lên án điều bất chính. Chút hơi tàn, quyết xây dựng giang sơn”.

Đặng Hữu Nam sau khi bị treo chén, dừng hoạt động mục vụ, là người thường xuyên chia sẻ, đăng tải các bài viết để công kích chống phá chính quyền, lực lượng chức năng cũng như xúc phạm với bề trên giáo hội Công giáo Việt Nam, trực tiếp là Giám mục Giáo phận Vinh Nguyễn Hữu Long. Vậy nên cái “tâm huyết” mà Việt Tân đã dành những lời có cánh cho Đặng Hữu Nam cũng chỉ vì các hoạt động trái đời, ngược đạo của y.

Và khi người thân, cộng đồng xã hội và giáo dân, giáo hội lên án, tẩy chay và thấy rõ bản chất con người “quạ đen” của Đặng Hữu Nam thì có lẽ y nên tự trách mình. “Gieo nhân nào gặp quả nấy” cấm có sai.

 

THAM GIA MẠNG XÃ HỘI SAO CHO CÓ Ý NGHĨA !

Khi tham gia MXH nếu để tâm ta mới thấy được một cuộc sống đủ sắc màu vô cùng sinh động, đủ mọi tầng lớp trong xã hội tham gia. MXH giống như một cái chợ bày bán đủ mọi sản phẩm, ai muốn mua gì, lựa chọn món nào là do nhu cầu sở thích của mỗi người.

Thông qua MXH ta cảm nhận một cách công tâm khách quan, bình đẳng nhất, nếu suy nghĩ một cách tích cực. Khi giao tiếp với ai, tôi không cần biết anh là ông nào, làm gì, có bằng cấp hay không, chỉ cần nhìn cách bạn thể hiện trong trang cá nhân, hay cách giao tiếp Coment, đủ để đánh giá bạn thuộc tầm cỡ nào.

Không ai xem thường người ít học hay kém cỏi, giàu hay nghèo, nông dân hay công chức. Tuy nhiên khi tham gia không gian mạng biết thật rõ, am hiểu tường tận vấn đề nào thì hãy viết, không biết thì chịu khó lắng nghe. Kiến thức là vô hạn, mỗi người có khả năng trong một lĩnh vực nào đó, không ai tài giỏi đến mức cái gì cũng biết được. Họ chỉ lên án người không biết, hay biết lơ mơ mà lại hay ý kiến ý cò thôi./.

  

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN TRONG TỔ CHỨC, ĐỊNH HƯỚNG CHO SINH VIÊN TRONG PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định, cần: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Để hiện thực hóa Nghị quyết này của Đảng vào cuộc sống, để giúp thanh niên ngày càng trưởng thành, là lực lượng đi đầu trong việc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; để đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch góp phần ổn định tư tưởng, phát triển đất nước hiệu quả, việc phát huy vai trò của các tầng lớp xã hội, nhất là của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là rất quan trọng. Để thực hiện tốt trọng trách của mình, Đoàn thanh niên có thể nghiên cứu một số gợi mở dưới dây.

Đối với tư cách là "đội dự bị tin cậy của Đảng", là "cánh tay đắc lực của Đảng", Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trên cả nước nói chung và đoàn thanh niên ở mỗi trường đại học, cao đẳng nói riêng luôn cần xem việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những luận điệu sai trái là nội dung cơ bản, là nhiệm vụ hàng đầu, đồng thời là công việc tự giác, thường xuyên của mình.

Đoàn thanh niên cần luôn nhận thức, cùng với sự lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường, cùng với quá trình đào tạo của các khoa, phòng và sự nỗ lực tự rèn luyện của mỗi sinh viên, Đoàn Thanh niên chính là nơi góp phần quan trọng bồi đắp tư tưởng, tạo ra sức đề kháng mạnh mẽ để sinh viên đủ sức “miễn dịch” trước âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch. Để làm được điều này, Đoàn thanh niên cần phải giáo dục cho mọi sinh viên làm sao để thấm nhuần tư tưởng đạo đức cách mạng, có tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình cao.

Trong đó, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng, xây dựng lực lượng nòng cốt, đào tạo, giúp họ trở thành những sinh viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, tích cực, khách quan, gần gũi giúp đỡ với bạn bè cùng lứa. Lực lượng nòng cốt này sẽ là lực lượng trực tiếp truyền lửa làm công tác tư tưởng cho các sinh viên khác tích cực tham gia loại bỏ các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch khi chúng xâm nhập, tác động vào môi trường sống của sinh viên.

Việc quán triệt, học tập cần được triển khai với nhiều hình thức sáng tạo, thu hút ngày càng nhiều đoàn viên, thanh niên tham gia học tập, tu dưỡng. Không ngừng sáng tạo trong tìm cách thúc đẩy, phát huy vai trò của đoàn viên, tổ chức Đoàn tham gia thực hiện Nghị quyết của Đảng; đồng thời tổ chức thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị. Và đó chính là cơ hội, môi trường thuận lợi để đoàn viên, thanh niên rèn luyện, trưởng thành và phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đoàn thanh niên cần quan tâm nắm bắt tình hình tư tưởng trong thanh niên trước những diễn biến phức tạp, từ đó, định hướng dư luận và hướng dẫn sinh viên cách thức phù hợp để đấu tranh với những luận điệu chống phá, âm mưu, hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch nhằm vào sinh viên. Đây là cơ sở kịp thời uốn nắn nhận thức, hành động của sinh viên.

Sau nhiều năm thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán của chúng vẫn là tìm mọi cách nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vô hiệu hóa quân đội, loại bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó, các tổ chức phản động lưu vong và số phản động, chống đối, bất mãn chế độ, cơ hội chính trị trong nước đã sử dụng nhiều chiêu bài khác nhau, đặc biệt là lợi dụng những “ưu trội” của mạng xã hội để chống phá. Mục tiêu này đã đi ngược lại với mục tiêu mà Đảng và nhân dân Việt Nam đang nỗ lực xây dựng. Vì vậy, cần nhận thức đây là cuộc chiến lâu dài; đặc biệt khi công nghệ phát triển, mạng xã hội không ngừng lan tỏa thì việc phản biện, chặn đứng các luận điệu sai trái trên không gian ảo này càng phải quyết liệt, khôn khéo. Việc đối phó với các luận điệu sai trái này không phải của riêng ai mà là của tất cả xã hội trong đó có sinh viên – thế hệ trẻ của đất nước nói riêng. Mỗi sinh viên làm tốt điều này là thể hiện bản lĩnh chính trị, góp phần khẳng định trách nhiệm của bản thân với xã hội./.

 

CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI HIỆN NAY

 Chủ nghĩa cơ hội ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong thời kỳ 1864 khi quốc tế I được thành lập đến 1914. Chủ nghĩa cơ hội từ một vài xu hướng, bè phái cơ hội như Frudong, Baculin đã phát triển thành một lực lượng chính trị đáng kể trong các Đảng chủ chốt của quốc tế II, dẫn tới sự phân liệt sâu sắc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cuối cùng dẫn tới sự phá sản của quốc tế II.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế vừa phải tập trung đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để thực hiện mục tiêu cuối cùng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, vừa phải tiến hành cuộc đấu tranh rất quyết liệt, phức tạp và lâu dài với một loại kẻ thù bên trong giấu mặt, trá hình giả danh chủ nghĩa Mác, chống lại chủ nghĩa Mác, phản bội lại phong trào cách mạng đó là chủ nghĩa cơ hội.

Vậy chủ nghĩa cơ hội là gì? Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo một định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, ngả nghiêng nhằm mưu lợi trước mắt. Trong phong trào cách mạng vô sản, chủ nghĩa cơ hội là chính trị thỏa hiệp, cải lương, hợp tác vô nguyên tắc, trái với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên thực tế chủ nghĩa cơ hội có hai khuynh hướng chủ yếu: Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh có tính chất cải lương thiên về thỏa hiệp muốn "cải biến" một cách hòa bình, chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh tiêu biểu là Becstanh và Causky tồn tại trong các Đảng công nhân thời quốc tế II cho đến tận ngày nay. Từ nửa sau thế kỷ XX chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh xuất hiện như một thứ chủ nghĩa xét lại hữu khuynh. Chủ nghĩa cơ hội "tả" khuynh là sự pha trộn giữa cực đoan và phiêu lưu, giáo điều, manh động, chủ quan, sùng bái bạo lực, không đếm xỉa tới tình thế khách quan. Chủ nghĩa cơ hội “hữu” hay “tả” khuynh đều đẩy phong trào công nhân đi đến hy sinh vô ích và thất bại.

Bản chất chủ nghĩa cơ hội là trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác- Lênin, là tàn dư tư tưởng tư sản, tiểu tư sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là sự hy sinh lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích trước mắt của một nhóm, một bộ phận, là sự đầu hàng trước những trào lưu tư tưởng tư sản và phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa cơ hội tồn tại dưới nhiều hình thức biểu hiện: Về lý luận đó là sự chiết trung, ngụy biện sẵn sàng thay đổi quan điểm tư tưởng cơ bản để trục lợi, về kinh tế thể hiện tư tưởng thực dụng sẵn sàng đánh đổi cả phong trào vì lợi ích trước mắt của một nhóm người, về hành động là phiêu lưu, lúc tả, lúc hữu, lúc nóng vội, lúc chủ quan sẵn sàng từ bỏ mục tiêu của phong trào sự nghiệp. Về thủ đoạn thì lươn lẹo lắt léo, luồn lách, sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với mọi trào lưu khi có lợi.

Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù bên trong, tồn tại với rất nhiều đặc điểm và rất nguy hiểm phá hoại Đảng, phá hoại phong trào từ bên trong. Muốn phòng chống chủ nghĩa cơ hội có hiệu quả để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, chúng ta cần nhận rõ nguồn gốc nảy sinh và sự phát triển, nhận diện chủ nghĩa cơ hội hiện nay ở nước ta và tiến hành đồng bộ các giải pháp để đấu tranh phòng chống chủ nghĩa cơ hội trong tình hình hiện nay.

Chủ nghĩa cơ hội là một hiện tượng xã hội lịch sử, nảy sinh trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cho nên chừng nào còn tồn tại cuộc đấu tranh này thì vẫn còn cơ sở cho chủ nghĩa cơ hội.

Chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc từ mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản gắn chặt với các điều kiện khách quan và chủ quan.

Nhận rõ bản chất, những biểu hiện chủ yếu, nguồn gốc và nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội đối với sự tồn vong của Đảng và sự thành bại của phong trào cách mạng, cho nên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc “tả” khuynh, hữu khuynh, giáo điều, xét lại không chỉ là yêu cầu tất yếu của phong trào cách mạng mà còn là quy luật, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ và xây dựng Đảng cộng sản trong sạch vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức.

Nhận thức sâu sắc nguyên nhân và nguy cơ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự tăng cường có hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Thực chất cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, "tự diễn biến" "tự chuyển hóa" là cuộc đấu tranh “sống mái”, lâu dài chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, cải lương, xét lại và chống chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực, thù địch.

Trong cuộc đấu tranh phòng chống kẻ thù tư tưởng bên trong, chúng ta phải nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện quyết liệt 4 nhóm giải pháp của Nghị quyết TW4 Khóa XII, cụ thể là 10 nội dung của giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình. 6 nội dung của giải pháp về cơ chế chính sách, 8 nội dung về giải pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; 5 nội dung về giải pháp phát huy vai trò của nhân dân và mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội./.

 

THỰC HIỆN DÂN CHỦ, BÌNH ĐẲNG TRONG GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Người cho rằng, họ là mùa xuân của đất nước. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn dành tình cảm đặc biệt cho thế hệ trẻ cũng như việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ, nói cách khác là thế hệ cách mạng cho đời sau. Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Biện pháp thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một trong những nội dung quan trọng để có được nhân tài cho đất nước.

Trong nền giáo dục phong kiến, không hề có sự dân chủ và bình đẳng. Chỉ có con em của vua quan, địa chủ được tiếp cận với giáo dục. Khi các em đi học, thầy dạy sao, trò biết vậy.

Trong chế độ mới ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tạo ra môi trường dân chủ, bình đẳng trong bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Có bình đẳng trong giáo dục, các vấn đề mới được đem ra thảo luận một cách dân chủ để mọi người cùng tìm ra chân lý, giúp thế hệ trẻ hiểu nội dung một cách đúng đắn và sâu sắc.

Dân chủ và bình đẳng trong giáo dục thế hệ trẻ được thể hiện trước hết ở đối tượng giáo dục. Tất cả thế hệ trẻ thuộc các giai tầng khác nhau, từ nông dân, công nhân, đến trí thức, đội ngũ cán bộ, đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.

Dân chủ và bình đẳng trong giáo dục thế hệ trẻ còn được thể hiện ở phương pháp giáo dục. Trong quá trình học tập, thầy và trò cùng nhau thảo luận, trao đổi để làm rõ các vấn đề. Hồ Chí Minh chỉ ra: “Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” .

Tuy nhiên, dân chủ và bình đẳng giữa thầy và trò không phải là quan hệ theo kiểu “cá đối bằng đầu”. Theo Người: Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là cá đối bằng đầu.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với công cuộc đổi mới đất nước, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

LỜI BÁC DẠY NGÀY 28/6

 “Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.

Là nội dung huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục, họp tháng 6 năm 1957.

Bảo vệ Đảng - vì sự trường tồn, phát triển của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân

 

 Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng vững mạnh, thì đất nước phát triển, dân tộc trường tồn, nhân dân hạnh phúc; do đó, bảo vệ Đảng và đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài.

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lịch sử dân tộc ta sang trang mới với tiền đồ huy hoàng và rực rỡ. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, dù phải trải qua nhiều hy sinh, gian khổ, song nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Đảng lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bất chấp sự thật hiển nhiên đó, các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá, xuyên tạc về vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu vĩ đại mà đất nước ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những luận điệu đó hoàn toàn sai trái, lạc lõng, bị chính lịch sử và thực tiễn bóc trần, phủ nhận.

Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến lên xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - xã hội thật sự vì con người, giải phóng con người toàn diện và triệt để. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bởi vì, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã có những sự điều chỉnh, nhưng nó không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại và che đậy được bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Nó chỉ thay hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác xảo quyệt và tinh vi hơn.

Phấn đấu đi tới một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn chế độ người bóc lột người là mơ ước ngàn đời của nhân dân Việt Nam, của nhân loại trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chỉ đến khi xuất hiện lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, thì chủ nghĩa xã hội khoa học mới ra đời và trở thành hiện thực, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam và toàn thế giới mới tìm thấy con đường đấu tranh để giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, thực hiện triệt để mục tiêu tiến bộ xã hội đó. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng, trong đó có mục tiêu con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… Trải qua những khúc quanh của lịch sử, với bản lĩnh và trí tuệ vững vàng, Đảng ta đã khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Trải qua quá trình cách mạng, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược đã khiến nhân dân ta chịu kiếp lầm than, nô lệ. Nhân dân ta với truyền thống yêu nước nồng nàn đã kiên cường đấu tranh chống ách áp bức đô hộ. Từ con đường cứu nước của các sĩ phu, khởi nghĩa nông dân đến cách mạng tư sản đều thất bại, mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu một đường lối đúng đắn. Chỉ trong vòng 15 năm từ khi ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nước Việt Nam non trẻ mới ra đời cùng lúc phải đối mặt với “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, vận nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, âm mưu chia cắt nước ta lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã anh dũng, kiên cường “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng nhất trong tâm thức của mọi người dân Việt Nam. Nhân dân ta “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không chỉ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ lương tri, phẩm giá con người. Thắng lợi đó không chỉ của nhân dân Việt Nam, mà còn là thắng lợi chung của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, giáng đòn mạnh mẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới, cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên đòi quyền sống, quyền tự do, bình đẳng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là kết tinh bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Dù phải trải qua gian khổ và trường kỳ nhưng rất vẻ vang, thế hệ cha ông sẵn sàng hy sinh để con cháu muôn đời Việt Nam được hưởng tự do, hòa bình, được ngẩng cao đầu với thế giới, tự hào về dòng dõi Lạc Hồng anh hùng, bất khuất, không chịu cúi đầu trước bất kỳ thế lực ngoại xâm nào. Vừa trải qua chiến tranh với những hậu quả nặng nề, Đảng ta lại tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước. Rõ ràng, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, kiên cường của Đảng đã làm nên thắng lợi vẻ vang, to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và đưa đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới.

Với đường lối đổi mới năm 1986, Đảng ta đã mở ra giai đoạn phát triển toàn diện đất nước. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị bao vây cấm vận, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vô cùng khó khăn, đến nay, nước ta đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Năm 1986, GDP của nước ta đạt khoảng 8 tỷ USD, xếp thứ 9/10 trong khối ASEAN. Từ giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam lọt top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới(1)Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2022 của Việt Nam tăng 8,02% với quy mô đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD, bình quân GDP đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2019(2). Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức bất thường, phức tạp hơn nhiều so với dự báo, “trong 9 tháng đầu năm 2023, kinh tế nước ta vẫn tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh không mấy sáng sủa của kinh tế toàn cầu; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế và công nghiệp từng bước được phục hồi, quý sau cao hơn quý trước, tháng sau tích cực hơn tháng trước. Dự báo đến hết năm 2023, tăng trưởng GDP của cả nước đạt khoảng trên 5%, mặc dù thấp hơn chỉ tiêu đề ra (khoảng 6,5%) nhưng vẫn là mức khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 3,5% (thấp hơn nhiều so với mục tiêu khoảng 4,5%). An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,8% so với cùng kỳ. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước G20”(3).

“Theo Báo cáo của Liên hợp quốc, Việt Nam là một trong số ít các nước hoàn thành sớm các mục tiêu thiên niên kỷ bao gồm xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới và vị thế cho phụ nữ cũng như những tiêu chuẩn về chăm sóc y tế cộng đồng”(4). So với nhiều nước có cùng quy mô kinh tế, Việt Nam đã giải quyết các vấn đề kinh tế -  xã hội tốt hơn, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Thành quả của sự nghiệp cách mạng hôm nay là kết tinh truyền thống từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta với biết bao hy sinh, gian khổ. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, “sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(5); đồng thời, đưa ra tầm nhìn và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa(6). Mặc dù còn muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng với bản lĩnh chính trị, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín của mình, được nhân dân hết lòng ủng hộ, Đảng ta nhất định chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ vinh quang.

Xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, để Đảng mạnh từ bên trong, là một cách bảo vệ Đảng hữu hiệu nhất; theo đó, cần thực hiện một số yêu cầu, nhiệm vụ sau:

Một là, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(7). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không tránh khỏi có những lúc mắc sai lầm, khuyết điểm; nhưng, mỗi lần Đảng công khai tự chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa, khắc phục, thì uy tín của Đảng càng tăng, nhân dân càng thêm tin yêu Đảng. Việc Đảng tự chỉnh đốn là quá trình khó khăn, phức tạp, song Đảng luôn ý thức được rằng, nhiệm vụ đó có vai trò, ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng nên phải tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên trì và bền bỉ.

Việc ban hành, thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy sự cương quyết trong “phòng, chống, ngăn ngừa và đặc trị các loại bệnh tật phát sinh trong cơ thể của Đảng và hệ thống chính trị”(8) để giúp Đảng ta mạnh thêm, được nhân dân hoàn toàn ủng hộ, đồng tình với Đảng. Kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã phát huy tác dụng tích cực; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố.

Đảng phải luôn tự đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, kịp thời đề ra đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ đưa nước ta vững bước phát triển.

Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang khi là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải luôn giữ vững bản chất cách mạng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có đường lối đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhân dân, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động. Khi Đảng là của nhân dân, hết lòng vì lợi ích của nhân dân thì không kẻ thù nào phá hoại được sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Hai là, Đảng phải xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài vì sự nghiệp cách mạng.

Lịch sử cách mạng đã chứng minh, trong hoàn cảnh khó khăn, đảng viên của Đảng đã nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, gương mẫu, tiên phong, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Bài học từ sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã cảnh tỉnh rằng, khi đội ngũ cán bộ, đảng viên quan liêu, xa dân, suy thoái đạo đức, lối sống thì Đảng sẽ mất năng lực lãnh đạo, cầm quyền. Một chính đảng chỉ làm tròn vai trò dẫn dắt quần chúng nhân dân khi mỗi cán bộ, đảng viên của đảng nêu cao tinh thần, trách nhiệm nêu gương; ngược lại, sẽ đánh mất vai trò lãnh đạo khi cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, không nêu cao tinh thần gương mẫu, xa rời quần chúng, quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(9).

“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, do đó “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Sự nghiệp cách mạng mỗi giai đoạn đều đặt ra những nhiệm vụ khác nhau, song để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, mỗi cán bộ, đảng viên phải đủ đức, đủ tài, “vừa hồng, vừa chuyên”. Đức là gốc của người cách mạng, nếu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến đâu cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ; thậm chí, còn có hại cho sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, hiện nay, Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường thì việc rèn luyện đạo đức cách mạng lại càng trở nên quan trọng, bức thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, có đức chưa đủ, mà mỗi cán bộ, đảng viên còn phải nỗ lực học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, góp phần xứng đáng vào việc tham mưu hoạch định đường lối và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Cần tập trung xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, uy tín và năng lực, ngang tầm nhiệm vụ. Tạo cơ chế, chính sách để cán bộ, đảng viên có điều kiện để phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; đồng thời, cương quyết loại bỏ khỏi hàng ngũ của Đảng những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, không đủ tư cách. Thực hiện nghiêm việc tự phê bình và phê bình trong Đảng, để mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tiến bộ và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; lòng dạ trong sáng, đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, thật sự nghiêm túc, cầu thị, lắng nghe ý kiến phê bình.

Ba là, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dễ mười lần không dân cũng chịu,Khó trăm lần dân liệu cũng xong”(10). Được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ thì dù khó khăn đến đâu cũng làm được; ngược lại, mất lòng tin của nhân dân là mất tất cả. Sự nghiệp cách mạng của Đảng là vì nhân dân; do đó, Đảng phải vận động, đoàn kết toàn dân thành một khối thống nhất.

Kịp thời đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch hòng chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường công tác tư tưởng, tuyên truyền để nhân dân thực sự hiểu đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Khi “ý Đảng” hợp “lòng dân” sẽ tạo ra sức mạnh vô địch. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương để nhân dân hiểu và tin vào chủ trương, đường lối của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(11). Khi cán bộ, đảng viên gương mẫu, đặc biệt là những người đứng đầu, người giữ cương vị lãnh đạo quan trọng, sẽ là nhân cách đẹp để nhân dân thêm tin yêu Đảng và sẵn sàng che chở, đùm bọc và bảo vệ Đảng./.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính kết thúc tốt đẹp chuyến thăm Trung Quốc

 

Lãnh đạo Trung Quốc khẳng định luôn đặt việc phát triển quan hệ song phương Trung-Việt là ưu tiên trong chính sách ngoại giao.

Những ngày qua, truyền thông chính thống của Trung Quốc như Nhân Dân nhật báoTân Hoa xãĐài phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc… đều đưa tin đậm nét về hoạt động của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng Đoàn đại biểu Việt Nam nhân chuyến công tác tham dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 15 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tại thành phố Đại Liên và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 24-27/6.

Trong khuôn khổ chuyến công tác, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; hội đàm với Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Cường; hội kiến Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Chính Hiệp toàn quốc Trung Quốc Vương Hộ Ninh...

Theo truyền thông Trung Quốc, phát biểu tại cuộc hội kiến, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho biết, từ đầu năm đến nay, hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi cấp cao chặt chẽ, hợp tác trên nhiều lĩnh vực đạt tiến triển thuận lợi, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.

Các cơ quan truyền thống Trung Quốc nhấn mạnh thông điệp Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để tăng cường định hướng chiến lược, tập trung vào mục tiêu tổng thể của “6 hơn”, kiên trì đoàn kết và hữu nghị, hỗ trợ lẫn nhau, làm sâu sắc hơn việc hợp tác cùng có lợi, chung tay tiến tới hiện đại hóa, góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng của thế giới.

Theo truyền thông Trung Quốc, trong tiếp xúc cấp cao, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc sẵn sàng khuyến khích thêm nhiều doanh nghiệp của nước này tăng cường đầu tư vào Việt Nam và hy vọng Việt Nam sẽ tạo điều kiện, môi trường kinh doanh thuận lợi.

Phát biểu tại cuộc tiếp Thủ tướng Phạm Minh Chính, ông Vương Hộ Ninh khẳng định, Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính Hiệp) sẵn sàng hợp tác với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhằm góp phần thúc đẩy xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc -Việt Nam.

Trước đó, tại buổi hội đàm với Thủ tướng Phạm Minh Chính, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Cường khẳng định Trung Quốc luôn đặt việc phát triển quan hệ song phương Trung-Việt là ưu tiên trong chính sách ngoại giao của mình. Trung Quốc sẵn sàng tăng cường hơn nữa giao lưu nhân dân và giao lưu văn hóa với Việt Nam cũng như trong các lĩnh vực du lịch, y tế, giáo dục, thanh niên...

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LIÊN HIỆP QUỐC, TÒA ÁN QUỐC TẾ... ĐÔI KHI CŨNG GIỐNG BÙ NHÌN!

         Nhà báo kỳ cựu người Anh Max Hastings, viết trong cuốn 'Vietnam: An Epic Tragedy', đã từng tâm sự: “Tôi từng hỏi Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch rằng tại sao khi bị Khmer Đỏ tấn công biên giới Tây Nam vào cuối năm 1978, Việt Nam không tố cáo sự việc này ra Liên Hiệp Quốc mà lại tấn công Campuchia. Nguyễn Cơ Thạch khi ấy đã nói rằng:
- Vì chúng tôi không coi trọng Liên Hợp Quốc như các ngài.
- Tại sao thế?
- Vì trong 40 năm qua, chúng tôi đã bị 4 trong 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc xâm lược”.

Đấy các bạn ạ! Tôi vẫn thường hay nói: Một cánh tay yếu đuối chỉ có thể lau nước mắt, việc của mình thì mình nhất định sẽ phải đứng ra. Làm được điều này không chỉ đòi hỏi cần có can đảm và kiên tâm, mà cần phải có thực lực.

Không có thực lực, mà cố mù quáng lao ra, thường sẽ chuốc lấy thảm bại. Năm xưa, Việt Nam mà mang vấn đề Campuchia ra Liên Hợp Quốc tranh luận, nhất định sẽ chỉ nhận lấy chê cười. 

Và thực tế, 10 năm sau đó, thực tế đã chứng minh rằng quyết định của Việt Nam chúng ta là hoàn toàn chính xác. Khi công cuộc Việt Nam tiêu diệt Khmer Đỏ, cứu người Campuchia khỏi nạn diệt chủng lại bị chính Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc lên án, rằng Việt Nam có ý đồ xâm lược Campuchia.

Điều đó cho thấy cái gọi là bù nhìn của nhiều tổ chức quốc tế, nó luôn là sân sau của kẻ mạnh.

Ngược dòng thời gian hơn 20 năm về trước, chỉ trong 3 tháng (từ 24/3 và 10/6/1999), Mỹ và Nato đã tiến hành chiến dịch không kích vào Nam Tư, với lý do “bảo vệ nhân quyền, chống thanh trừng sắc tộc”, tức là bảo vệ người Albania chống lại sự diệt chủng của người Serbia và Nam Tư.

Cả thế giới phản đối, Mỹ và Nato chả có quyền gì, nhưng Mỹ vẫn cứ làm. Hậu quả là hàng ngàn người vô tội đã chết, hàng vạn người bị thương, hàng triệu người mất nhà cửa, tổng thiệt hại ước đoán 35 tỷ USD. Chẳng những vậy, hơn 15 tấn bom chứa uranium nghèo mà Mỹ đã thả xuống dẫn đến số lượng bệnh nhân ung thư bộc phát ở Serbia trong vòng hai thập kỷ qua đã tăng hàng chục lần.

Như thường lệ, Tổng thống Slobodan Milosevic bị Mỹ kết án là mang TỘI DIỆT CHỦNG. Ông bị bắt và đưa ra Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư ở La Haye để xét xử, nhưng tòa chưa kịp tuyên án thì ông đã bất ngờ qua đời trong tù vào năm 2006.

10 năm sau, dưới sức ép của Nga và nhiều nước khác, Tòa án La Haye đã lên tiếng, dĩ nhiên là xác nhận sự vô tội của của ông Milosevic trong cáo buộc tội ác chống lại loài người, thừa nhận sự thật là nhà lãnh đạo Serbia đã chết oan uổng trong một nhà tù của Liên Hợp Quốc, còn đất nước Serbia oằn mình gánh chịu những hậu quả thảm khốc. (Nhưng tất cả diễn ra trong âm thầm) Kẻ thủ ác Mỹ vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, chả ai làm gì được.

Slobodan Praljak, nguyên chỉ huy trưởng lực lượng quân sự Croatia ở Bosnia, năm 2013 ông là một trong sáu quan chức của Bosnia Croat bị Tòa án quốc tế kết án tội ác chiến tranh chống lại loài người. Năm 2017, ông đã uống thuốc độc giấu sẵn, tự sát ngay trong phiên tòa ở La Hay, nơi đám đồ tể tay sai đế quốc kết án ông 20 năm tù giam vì tội “diệt chủng người Hồi giáo”. Trước khi chết, ông vẫn lớn tiếng bác bỏ tính hợp pháp của phiên tòa và nói: “Tôi không có tội, tôi chỉ chết để phản đối. Rồi lịch sử sẽ chứng minh và giải phóng cho tôi”.

Slobodan Praljak đã chết một vài giờ sau đó. Rồi đây, rất có thể ông sẽ lại như Milosevic minh oan, nhưng lúc đó ai sẽ trả lại tính mạng cho ông đây?

Mười bốn năm trước, vào cái ngày mà Saddam Hussein bị xử tử, thủa ấy tôi hẵng là cậu sinh viên lười học ham chơi, tuy suốt ngày lướt web nhưng lượng thông tin/kiến thức được tiếp cận chưa phong phú như bây giờ, nghe tin người ta tử hình Tổng thống của Iraq là Saddam Hussein vì tội 'Chống lại loài người', tôi giật mình hoài nghi: Chẳng nhẽ người Hồi giáo lại tàn ác như vậy ư?

Sau này lớn hơn, tìm hiểu thêm về các nguồn tin CHÍNH THỐNG, cũng như các bài viết của những người đáng tin cậy, tôi giật mình bàng hoàng. Hóa ra, người ta có thể 'đổi trắng thay đen' trơ trẽn như vậy, họ gây ác nhưng lại được tôn vinh dưới danh nghĩa người 'bảo vệ hòa bình và công lý'.

Nói thêm cho các bạn chưa biết, Saddam Hussein (28/4/1937 – 30/12/2006) là tổng thống Iraq từ năm 1979 cho đến năm 2003, khi Mỹ tấn công Iraq với lý do là Saddam đã “tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt”. Ông đã bị bắt và phải ở tù. Tháng 11/2005 ông bị đem ra tòa án xét xử. Dư luận trong nước Iraq và quốc tế phản đối vì họ cho rằng tòa án không hợp hiến và không tuân thủ các hiệp ước quốc tế. Tuy nhiên, một Tòa án tổ chức bởi chính phủ mới thân Mỹ đã kết luận ông có tội “chống lại loài người”, đã ra lệnh treo cổ ông.

Khi được một 'phóng viên' hỏi: “Tại sao ông lại gây biết bao đau khổ cho chúng tôi? Chúng ta là một dân tộc giàu có, nhiều tài nguyên, tại sao ông lại gây ra ngần ấy cuộc chiến tranh, tại sao?”

Saddam trả lời ông không gây chiến với bất cứ ai: “Tôi chỉ chiến đấu chống lại kẻ thù của Iraq. Trước đây các anh là những người chân đất, không có giầy dép mà đi, không có sữa mà uống, tôi là người đã mang lại cuộc sống ấm no cho các anh, tôi đã làm cho các anh trở thành con người.”

Nghe chua xót thật các bạn ạ!
Saddam là nhà lãnh đạo mà truyền thông phương Tây mô tả ông là nhà độc tài tàn nhẫn, ác quỷ khát máu, trong khi nhiều người Ả Rập và các nước thế giới thứ ba thì xem ông là một chiến sĩ đã dũng cảm chống lại ách cường quyền của Mỹ và phương Tây.

Trong cuốn hồi ký “Gia đình, Bạn bè, Đất nước” của bà Nguyễn Thị Bình xuất bản năm 2012, bà đã viết: “Nếu cố tổng thống Saddam Hussein có sai lầm gì trong đối nội, đối ngoại… có tội lỗi gì với nhân dân của ông, lịch sử của Iraq sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta phải biết ơn sự giúp đỡ quý báu của ông trong những năm Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh.”

Lý do mà Mỹ tấn công Iraq, lật đổ Saddam là vì ông 'tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt', 'âm mưu chống lại loài người'. Các cáo buộc mà Mỹ đưa ra sau này được chứng minh là bịa đặt, vì những vũ khí này đã không bao giờ được Mỹ tìm thấy tại Iraq sau nhiều năm tìm kiếm ngoài những thùng hóa chất cũ kỹ có từ trước năm 1991. Nhưng khi đó thì mọi việc đã ngã ngũ: Tổng thống G.Bush đã đăng đàn thừa nhận sai lầm song lúc ấy Saddam Hussein đã bị tử hình, còn Iraq thì chìm trong chiến tranh và đổ nát.

Tôi nghĩ thật ghê tởm, treo cổ người khác, tàn phá đất nước họ, vơ vét dầu mỏ, khoắng sạch hét vàng, vậy mà chỉ một câu xin lỗi là xong ư?

Té ra, chiến tranh Iraq 2003 thực chất là 1 cuộc chiến vì dầu mỏ, trong đó Mỹ - Anh muốn dựng lên 1 chính phủ thân phương Tây để mở cửa cho các công ty Mỹ và Anh vào khai thác nguồn tài nguyên dầu khí phong phú của Iraq. Dù không tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt, cũng không có ai ở Mỹ - Anh phải chịu trách nhiệm hay bị xử lý vì những thông tin sai và vô căn cứ cả, tất cả đều “vô can”. Chỉ có một thực tế: Chủ quyền Iraq bị xâm phạm, Tổng thống nước này bị lật đổ và xử tử, còn người dân Iraq thì phải hứng chịu bao khổ đau do chiến tranh gây ra.

Các bạn có thấy Tòa án quốc tế, Liên Hợp quốc hành xử có giống những tên hề không? Khi mà nguyên thủ quốc gia một đất nước nào đó bị quy là độc tài với tội diệt chủng, cả đất nước ấy tan hoang dưới bom đạn đế quốc và tài nguyên thiên nhiên bị đám ác quỷ hút đến cạn kiệt.

Đám ác quỷ ấy chính là những kẻ hay rao giảng đạo đức, hiên ngang một tay che trời, gây ác mà vẫn có tiếng la chính nghĩa. Đám đầu sỏ đế quốc Âu - Mỹ vẫn nhởn nhơ rao giảng nhân quyền trên xác hàng chục triệu người Hồi giáo, còn đám diệt chủng Khmer Đỏ Campuchia tay sai từng được chúng viện trợ để gây náo loạn thế giới. Sau này mặc dù bị Tòa án quốc tế kết tội diệt chủng, ấy nhưng lũ ác nhân ấy đều được chết già.  

Trong khi các lãnh đạo chính trị và quân sự người Croatia, Serbia, Syria, Lybia lại nhanh chóng bị Tòa án quốc tế đưa ra xét xử với cáo buộc là “tội phạm chiến tranh và diệt chủng, dù họ chỉ bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ và thực tế cho thấy không hề có thảm sát người Hồi giáo ở đây, ngoại trừ hàng nghìn nạn nhân người Slavo bị sát hại bởi Mỹ và NATO.

Tổng thống Nam Tư Milosevic, Tổng thống Iraq Saddam Hussein, Tổng thống Libya Muammar al-Gaddafi... đều bị Mỹ kết luận là "Độc tài kh.át má.u", bằng cách này hay cách khác đều bị Mỹ xử tử vì TỘI DIỆT CHỦNG dù chẳng có bằng chứng nào. Iraq, Syria... bị Mỹ kết tội sở hữu và phát triển Vũ khí hủy diệt hàng loạt. Mãi về sau này Mỹ vẫn chẳng thể tìm ra chứng cứ. Thật trùng hợp, Mỹ làm thinh hoặc Tổng thống nước họ thản nhiên xin lỗi vì nhầm lẫn. Sau chiến tranh, cái giá của tự do, dân chủ, của nhân quyền là gì? Là tan hoang đau khổ, là đổ nát chết chóc, là khủng hoảng triển miên. Vậy, ai phải chịu thảm họa Nhân quyền này, thì Tòa án Quốc tế và HĐBA Liên Hợp Quốc im hơi lặng tiếng.

Những năm 70-80 của thế kỷ trước, khi Khmer Đỏ thực hiện chính sách diệt chủng tàn sát gần 2 triệu người dân Campuchia, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cứu người dân Campuchia thoát nạn diệt chủng, giúp đất nước Chùa Tháp hồi sinh, thì chính Liên Hợp Quốc bù nhìn này khi Mỹ đã bắt tay với Trung Quốc), nhắm mắt, làm ngơ trước sự thật, không lên án tội ác tày trời của Khmer Đỏ mà đi lên án Việt Nam xâm lược Campuchia, hùa theo Mỹ cấm vận Việt Nam.

Không những thế, sau khi Khmer Đỏ bị lật đổ thì Liên Hợp Quốc thành lập Tòa án quốc tế để xét xử các cựu lãnh đạo Khmer Đỏ phạm tội ác chiến tranh chống lại loài người mà lại quên đi không trả lại sự công bằng cho người Việt Nam đã cứu Campuchia thoát nạn diệt chủng.

Vậy, công lý và nhân quyền ở đâu khi thể hiện sự bất công đáng xấu hổ này của Liên Hợp Quốc? Qua đây chúng ta thấy, Tòa án Quốc tế nghe tên có vẻ to, thế nhưng thực quyền thì chẳng có gì. Thậm chí nhiều khi Tòa án quốc tế có những phán quyết nhằm HỢP THỨC HÓA cũng như PHỤC VỤ / CỔ SÚY cho kẻ mạnh. Hay cái gọi là Tổ chức nhân quyền Liên Hợp Quốc chỉ là một tổ chức chuyên ăn theo nói leo, chưa bao giờ làm tròn mục đích tôn chỉ của mình từ khi khai sinh ra. Thậm chí, có thể hiểu đây là tổ chức “bù nhìn”, thậm chí là “tay sai” cho Mỹ và các nước Đế quốc phương Tây.

Như Tổng thống Nam Tư đã nói trước khi bị ám sát chết trong tù của La Haye:
“Hãy nhớ lấy lời tôi: đừng để điều này cũng xảy ra với các bạn, những con chó điên phương Tây sẽ chộp lấy cổ họng các bạn, như đã làm với Nam Tư”./.
Yêu nước ST.