Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

GIẢI PHÁP BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 Thời gian tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực còn nhiều diễn biến khó lường. Ở trong nước,

bên cạnh thuận lợi là cơ bản, chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt

là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

của các thế lực thù địch. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý

của Nhà nước và sự tham gia của nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, cần

thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ

đoàn kết, không dao động, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì các thế lực thù địch dù có

nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lay ý chí, niềm tin của quần

chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta phải bảo đảm tính khách quan khi phân

tích, lý giải và đánh giá đúng bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như

không được hạ thấp, xem nhẹ vai trò của nó. Bởi vì học thuyết Mác - Lênin là cơ sở thế giới

quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại, gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong

tương lai của loài người. Do đó, trong nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, chúng ta phải xem đó là một lĩnh vực khoa học, tức là phải nghiên cứu kỹ cả về lý

luận và thực tiễn.

Thứ ba, tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu Nghị

quyết số 35-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã đề ra, nhận thức rõ đây là nhiệm vụ chính trị vừa cấp

bách, vừa thường xuyên và lâu dài, không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà

là của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó,

cần khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý các hoạt động trên không gian

mạng, tạo căn cứ để cảnh báo, răn đe, xử lý các trường hợp vi phạm.

Thứ tư, mỗi người dân phải hành động một cách lý trí khi đăng tải bài viết, biểu thị cảm xúc

hoặc chia sẻ các liên kết và khi tham gia những cuộc thảo luận về các chủ đề trên mạng xã hội;

tăng cường đăng tải những thông tin chính thống, lan tỏa những tấm gương người tốt, việc tốt,

những thông điệp tốt đẹp tới cộng đồng; đồng thời, phản biện những thông tin sai trái, phiến diện

và sự chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng, qua đó góp phần bảo vệ nền tảng

tư tưởng của Đảng.

KẾT QUẢ CỦA ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 Kết quả sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của nhân dân trong bảo vệ

nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam thể hiện

trên những mặt chủ yếu:

Một là, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc xóa bỏ nền tảng tư

tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển và làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ

vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội Việt Nam; đồng thời, vô hiệu hóa các luận điệu

và hoạt động phá hoại tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; bảo vệ thành

công các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng.

Hai là, chủ động phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu của các thế lực thù địch

xuyên tạc, chống phá quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế ở Việt Nam như ý đồ “tư nhân

hóa” nền kinh tế, tiến công vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; giúp cho nền kinh tế Việt

Nam giữ được độc lập, tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng

thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền

để chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước không ngừng củng cố vững chắc khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội; làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn

biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; bảo vệ vững

chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế

độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bản sắc

văn hóa dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Bốn là, làm thất bại mưu đồ bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam, cản trở Việt Nam mở rộng quan

hệ quốc tế. Trên thực tế, Việt Nam tạo được môi trường thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi

mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao; tranh

thủ được nhiều diễn đàn quốc tế để đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa

bình” của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Những kết quả đó được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII: “Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai

trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”; “Việc bảo vệ nền tảng tư

tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian

mạng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”.

Năm 2023, Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TƯ ngày

22-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục khẳng định: Sau 5 năm triển khai Nghị quyết số

35-NQ/TƯ, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm

quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm

sai trái có nhiều chuyển biến rõ nét, tích cực; huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống

chính trị, sự vào cuộc của các cấp ủy, tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

hội và tạo ra sức mạnh tổng hợp, tạo ra “thế trận lòng dân” trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của

Đảng.

LỢI DỤNG CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIAO THÔNG ĐỂ PHÁ HOẠI

 Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh những thuận lợi

còn có những khó khăn, thách thức đặt ra đối với các quốc gia trên thế giới, nhất là những nguy

cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH.

Với chủ trương đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế song phương, đa phương trên tất cả các lĩnh

vực, Việt Nam cũng đang hội nhập hết sức mạnh mẽ, qua đó đã đạt được nhiều thành tựu quan

trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Tuy

nhiên, để phục vụ công cuộc hội nhập và phát triển đất nước ngày càng hiệu quả, đòi hỏi công

tác bảo đảm ANTT phải được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong bối cảnh các loại tội phạm

mới, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia ngày càng diễn biến phức tạp,

khó lường… nhằm góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định, thu hút đầu tư nước ngoài, trở

thành đối tác tin cậy, điểm đến an toàn của các quốc gia, các tổ chức quốc tế.

Thực tế cho thấy, những vụ việc, hiện tượng liên quan đến ANTT phần lớn đều xảy ra tại các địa

bàn cơ sở, xuất phát từ cơ sở, do đó công tác bảo đảm ANTT ở cơ sở được xác định là nhiệm vụ

đặc biệt quan trọng, cấp bách, là nhiệm vụ tất yếu của đất nước. Trước khi luật Lực lượng tham

gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở ra đời, các lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an

ninh, trật tự ở cơ sở (Công an xã bán chuyên trách; bảo vệ dân phố; đội trưởng, đội phó dân

phòng) chưa được thống nhất về tổ chức, chưa có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ trong hoạt động,

đã ảnh hưởng nhất định đến chất lượng, hiệu quả của công tác bảo đảm ANTT ở cơ sở. Nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm ANTT ở cơ sở trong tình hình hiện nay, phục vụ

công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Luật lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở

đã ra đời.

Tuy nhiên, với âm mưu, ý đồ chống phá Việt Nam lâu dài, các thế lực thù địch, phản động, đối

tượng xấu tiếp tục tiến hành các hoạt động xuyên tạc, tuyên truyền phá hoại tư tưởng, trong đó

chúng đặc biệt lợi dụng việc ban hành Luật lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở để

bịa đặt, vu cáo. Điển hình, ngày 26/6/2024, trang facebook “Chân Trời Mới Media” (của tổ chức

khủng bố “Việt Tân”) đăng tải bài viết có nội dung xuyên tạc Luật lực lượng tham gia bảo vệ an

ninh, trật tự ở cơ sở, chúng cho rằng: “Từ ngày 01/7/2024 Bộ Công an sẽ ngày càng phình to ra;

Luật này ban hành là để trói buộc, gò ép người dân…”. Những luận điệu trên của các thế lực thù

địch nhằm mục đích hạ uy tín của Đảng, Nhà nước, kích động mâu thuẫn trong Nhân dân, phá

hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua đó để dễ dàng thực hiện âm mưu, hoạt động

chống phá Việt Nam.

BẢO VỆ NỀN TẢNG CỦA ĐẢNG

 Trải qua hơn 94 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra

nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ

nền tảng tư tưởng của Đảng. Nổi bật là ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị

quyết số 35-NQ/TƯ về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các

quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong đấu

tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sự quản lý của Nhà nước thể hiện rõ nét nhất là trong

công tác quản lý, sử dụng internet và mạng xã hội. Theo đó, các cơ quan chức năng, đặc biệt là

Bộ Thông tin và Truyền thông, đã chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý và các giải

pháp kỹ thuật phù hợp; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ, ngăn chặn, xử lý đúng pháp luật đối với

nhà mạng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trang thông tin điện tử và các cá nhân lưu trữ, cung

cấp, đăng tải, phát tán thông tin giả mạo, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động,

chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên internet và mạng xã hội.

Bên cạnh đó, xuất phát từ quan điểm “dân là gốc”, là trung tâm, là chủ thể, vừa tham gia, vừa thụ

hưởng thành quả của sự phát triển, để nâng cao “sức đề kháng” trong bảo vệ nền tảng tư tưởng

của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, đặc biệt

là đấu tranh trên không gian mạng, một trong những "liều vắc xin” là phải cung cấp đầy đủ, kịp

thời thông tin chính thống để nâng cao nhận thức, tri thức cho nhân dân. Điều này có ý nghĩa

quan trọng giúp mỗi người dân đủ sức nhận thức, phân biệt đúng - sai, tích cực - tiêu cực, tốt -

xấu, từ đó tạo nên “sức đề kháng”, dần dần hình thành cơ chế “tự miễn dịch” trước những thông

tin xấu độc, những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Đây là chìa khóa căn cơ lâu dài để

tăng “sức đề kháng” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đối với nhân dân.

CẦN QUÁN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN TỐT CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG

 Cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ

sớm, từ xa. Theo đó, muốn ngăn ngừa không để xảy ra chiến tranh trước hết phải tập trung xây

dựng đất nước thực sự ổn định và vững mạnh về mọi mặt ngay từ bên trong, lấy giữ vững ổn

định chính trị là cơ bản, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, bảo đảm cho nước ta có nội lực vững mạnh, đủ khả năng, điều kiện ngăn ngừa, đẩy lùi các

nguy cơ có thể xảy ra chiến tranh và xung đột. Đồng thời, cần quan tâm và tiến hành mọi hoạt

động cần thiết, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, thường xuyên nắm chắc và hiểu rõ âm mưu,

phương thức, biện pháp và thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cả bên trong

và bên ngoài; chủ động dự báo đúng những nguy cơ, thách thức, những tình huống phức tạp có

thể xảy ra, nhất là trên vùng biển, đảo, biên giới và địa bàn nhạy cảm, phức tạp về quốc phòng,

an ninh, từ đó có chiến lược, sách lược đúng đắn; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, hạn chế và đập

tan các chiêu bài của thế lực thù địch dựng lên để lấy cớ tiến hành các hoạt động vũ trang và phi

vũ trang chống phá Việt Nam.

Cuối cùng, để thực hiện có hiệu quả chủ trương, chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, yêu

cầu khách quan đặt ra là phải huy động đồng bộ, tổng hợp các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực

con người. Bởi suy đến cùng, chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa chỉ được thực hiện trên

cơ sở xây dựng và phát huy tốt nguồn lực con người, nguồn lực quan trọng nhất trong tổng thể

các nguồn lực của một quốc gia, dân tộc.

BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng, đất nước ta đã

vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã góp phần làm cho đất nước

ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó

lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình

thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh

quốc tế. Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín

quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ,

thuận lợi, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình biển, đảo diễn biến

phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính

trị trong và ngoài nước tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện, xảo

quyệt, quyết liệt hơn. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với sự nghiệp xây dựng, bảo

vệ Tổ quốc.

BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM TỪ XA TRONG QUỐC PHÒNG AN NINH

 Có thể thấy, quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là kết quả của bước phát triển mới trong tư

duy lý luận của Đảng ta về quốc phòng, an ninh, xác định đối tác, đối tượng, về bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới. Đây là sự kế thừa bài học “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử

dựng nước và giữ nước của dân tộc; đồng thời, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh mới. Do đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa vừa là

quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng, vừa là phương thức hành động tối ưu để chủ động bảo vệ

vững chắc Tổ quốc.

Gần đây nhất, bước phát triển trong quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng được

nhấn mạnh trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư

Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là bảo vệ từ trước, phòng

ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc ngay trong thời

bình, khi đất nước chưa có chiến tranh, nguy biến. Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa thì không

chỉ tập trung tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh đơn thuần mà còn phải đẩy mạnh phát

triển toàn diện các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo xây dựng làm cho mình ngày càng mạnh

lên, để giữ cho “trong ấm”. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế,

tạo thế đan xen lợi ích chiến lược và củng cố sự tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là các

nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược..., giữ cho “ngoài êm”, tạo nền tảng vững chắc

ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, xung đột, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để

phát triển đất nước. Đồng thời, các lực lượng, nhất là Quân đội cần chủ động, nhạy bén, nâng cao

năng lực nghiên cứu, dự báo, thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược với Đảng và Nhà

nước về quân sự, quốc phòng. Kịp thời nhận diện, xử lý đúng đắn, hài hòa, linh hoạt đối tác, đối

tượng quốc phòng; có đối sách xử lý phù hợp, hiệu quả các tình huống, các vấn đề biên giới,

biển, đảo, nhất là Biển Đông, không để bị động, bất ngờ, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung

đột từ sớm, từ xa.

QUAN ĐIỂM BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM TỪ XA

 Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là tổng thể các hoạt động của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang,

của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong việc tích cực xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh;

chủ động ngăn ngừa, xử lý, đẩy lùi, triệt tiêu những nhân tố có thể phát triển thành các nguy cơ,

thách thức đe dọa đối với độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định chính

trị của đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, cũng như môi trường hòa bình, ổn định để phát triển

bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình

huống.

Về vấn đề này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta

cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí

Minh và kế thừa truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc, vấn đề bảo vệ Tổ quốc

từ sớm, từ xa, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” được Đảng vận dụng sáng tạo trong quá trình

lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Tại Hội nghị Trung ương VIII khóa XI, chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa đã được đề cập

trong Nghị quyết của Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội lần

thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá

của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang

tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”.

Đến Đại hội lần thứ XII, trước tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó

lường, Đảng xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;

chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên

trong có thể gây ra đột biến”. Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-4-2018 của Bộ Chính trị về

Chiến lược quốc phòng Việt Nam, vấn đề "bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” đã xác định rõ mục

tiêu, lực lượng, phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đến Đại hội lần thứ XIII, vấn đề

bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa một lần nữa được Đảng ta nhấn mạnh: “Có kế sách ngăn ngừa các

nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh

và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên

quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,

vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ LỰC LƯỢNG CSGT

 Lực lượng Cảnh sát Giao thông là một bộ phận quan trọng của lực lượng Công an nhân dân,

đóng vai trò nòng cốt trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, phối hợp đấu tranh

phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát Giao

thông luôn trau dồi, rèn luyện năng lực, trình độ chuyên môn cũng như tư tưởng, đạo đức làm

việc, có được hình ảnh tốt đẹp, những thiện cảm từ phía quần chúng nhân dân, nhất là người

tham gia giao thông.

Tuy nhiên, với âm mưu chống phá chế độ, các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động của lực lượng

CSGT thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, xử phạt các hành vi vi phạm giao thông, đánh vào

tâm lý người dân để đặt điều, nói xấu, xuyên tạc về lực lượng Cảnh sát giao thông nhằm làm xấu

hình ảnh của người chiến sĩ Cảnh sát Giao thông trong mắt người dân, hạ uy tín, vị trí của lực

lượng vũ trang Việt Nam đối với quần chúng, thậm chí là đối với dư luận quốc tế.

Điển hình như vụ việc xảy ra ngày 24/12/2023, trên trang Facebook “Việt Tân” đăng tải tranh

biếm họa với nội dung “Nhậu nhiều vợ buồn, nhậu ít bạn buồn, còn không nhậu Công an buồn”.

Tổ chức Việt Tân được Việt Nam xác định là tổ chức khủng bố. Mọi người cần biết rằng, sử

dụng rượu bia khi tham gia giao thông là một nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn giao thông. Cụ

thể trong năm 2023, toàn quốc xảy ra 814 vụ tai nạn giao thông có nguyên nhân do người điều

khiển phương tiện sử dụng rượu bia, làm chết 400 người, bị thương 619 người.

Chính vì sự nguy hiểm đó, Chính phủ đã nghiên cứu bổ sung tăng mức xử phạt các trường hợp vi

phạm giao thông do sử dụng rượu bia nhằm làm giảm số vụ tai nạn giao thông, đồng thời nâng

cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông,… Lực lượng Cảnh sát giao thông đóng vai trò

là lực lượng nòng cốt trong việc phát hiện và xử lí những vi phạm này, mang đến hiệu quả đáng

kể, số lượng người chết và bị thương trong những vụ tai nạn giao thông do sử dụng rượu, bia đã

giảm mạnh. Năm 2023, theo cục Cảnh sát giao thông lực lượng Cảnh sát giao thông toàn quốc đã

kiểm tra, xử lý 770.679 trường hợp điều khiển phương tiện giao thông trong cơ thể có nồng độ

cồn, tính trung bình mỗi ngày phát hiện, xử lý hơn 2.100 trường hợp vi phạm nồng độ cồn. Trong

07 ngày nghỉ Tết Giáp Thìn 2024 vừa qua, tình hình tai nạn giao thông được kéo giảm rõ rệt,

toàn quốc xảy ra 541 vụ tai nạn, làm chết 214 người, bị thương 504 người (giảm 23,38 % số

người chết so với 07 ngày tết Quỹ Mão năm 2023).

Lời lẽ của Việt Tân nói trên là luận điệu xuyên tạc nhằm gây dư luận xấu trong xã hội, hạ uy tín

và danh dự của lực lượng Công an nhân dân nói chung và lực lượng Cảnh sát giao thông nói

riêng, giảm sự gắn kết giữa lực lượng Công an nhân dân với quần chúng nhân dân. Việc giảm sử

dụng rượu bia khi tham gia giao thông là một dấu hiệu tích cực, vậy mà lại trở thành tiêu cực

trong luận điệu của thế lực thù địch. Tưởng tượng những lời lẽ mang đầy ẩn ý châm chọc, mỉa

mai này đến với người dân, đặc biệt là những người chưa có hiểu biết đầy đủ, toàn diện về lực

lượng Cảnh sát giao thông và quy định xử phạt đối với những trường hợp vi phạm giao thông do

sử dụng rượu, bia, thì họ sẽ có cảm nhận và phản ứng như thế nào đối với lực lượng Cảnh sát

giao thông.

Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “Thế trận

lòng dân” là một nhân tố cực kỳ quan trọng, là sức mạnh đoàn kết nội sinh, giúp dân tộc ta giữ

vững giang sơn, gấm vóc, phát triển trường tồn cho đến ngày nay. Không thể để những tên phản

động, chống phá, tiếp tục quấy rối, làm ảnh hưởng đến “thế trận lòng dân”. Nhân dân là cốt lõi,

có được tình cảm, sự ủng hộ của Nhân dân là nguồn động lực to lớn để lực lượng Công an nhân

dân nói chung và lực lượng Cảnh sát giao thông nói riêng luôn nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, chúng ta phải

nâng cao cảnh giác, không hoang mang, dao động trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc

của các tổ chức, cá nhân này, bảo vệ uy tín của Đảng, Nhà nước, của lực lượng Công an nhân

dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với lực lượng Cảnh sát giao thông và các quy định, nghị

định về xử phạt các trường hợp vi phạm do sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông.

NGHIÊM TÚC QUÁN TRIỆT CÁC VẤN ĐỀ VỀ CĂN BỆNH “LƯỜI BIẾNG” TRONG XH

 Trước thực trạng “lười làm việc”, “lười lao động” trong đội ngũ cán bộ ở mỗi tổ chức, cơ quan,

đơn vị, địa phương, cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân do đâu mà có, mức độ ảnh hưởng như thế nào,

hậu quả ra sao, để từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục triệt để, hiệu quả lâu dài. Đảng, Nhà

nước, Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp thiết thực, vừa có tính giáo dục, thuyết

phục, vừa có tính kỷ luật, kỷ cương, đề cao tính nghiêm khắc để nâng cao tinh thần trách nhiệm

của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước trong thực thi công vụ. Đó là những chủ

trương, giải pháp cơ bản nền tảng, đề nghị mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp cơ sở và

đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, quán triệt sâu kỹ, vận dụng triển khai thực hiện ở cấp

mình cho phù hợp, với tinh thần quyết tâm cao nhất, thái độ quyết liệt nhất, kiên quyết không để

yếu kém, khuyết điểm kéo dài. Có như vậy, “căn bệnh lười biếng” - “lười làm việc”, “lười lao

động” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay mới có cơ hội chữa khỏi triệt để.

KHẮC PHỤC CĂN BỆNH “LƯỜI BIẾNG” TRONG XÃ HỘI

 Trong nhiều tác phẩm nói và viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, để khắc phục bệnh “lười

biếng” - “lười lao động”, “lười làm việc” này là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội với mục tiêu quan trọng là khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để nâng cao đời sống

nhân dân cả nước. Người đã nói: “Nước ta còn lạc hậu, dân ta còn nghèo, muốn tiến lên chủ

nghĩa xã hội, muốn cải thiện đời sống, thì chúng ta càng phải “Cần”, phải “Kiệm”, phải chống

lười biếng, chống lãng phí”. Quan trọng nữa, đó còn là mục tiêu của xây dựng con người mới xã

hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới; “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh

phúc của chúng ta”.

Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra yêu cầu cho xây dựng con người mới xã hội chủ

nghĩa là phải gạt bỏ những thái độ, việc làm sai lầm như: thỏa mãn với thành tích ban đầu, bảo

thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có trước đó, đã có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh

quần chúng nhân dân, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần chúng nhân dân; lười

biếng, không tích cực học tập cái mới, cái tiến bộ v.v...

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những “phương thuốc” hữu

hiệu để “chữa bệnh lười biếng” đó là:

- Các cơ quan chỉ đạo phải có cách lãnh đạo cho đúng. Mỗi việc, đều phải chỉ bảo cách làm cụ

thể.

- Cấp trên phải hiểu rõ tình hình cấp dưới và tình hình quần chúng, để lãnh đạo, chỉ đạo cho

đúng.

- Khi quyết nghị việc gì, phải cẩn thận, rõ ràng. Khi đã ban hành nghị quyết thì phải kiên quyết

thi hành triệt để.

Phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt, Hồ Chí Minh coi đó là những biện pháp

hết sức rất cần thiết. Người yêu cầu: “Phải chú ý học tập”: Phải kiên quyết đấu tranh chống bệnh

lười biếng, lười lao động, lười học tập, muốn nghỉ ngơi an nhàn. Do đó, muốn tiến bộ nhanh,

hoàn thành tốt nhiệm vụ, thì phải học tập các chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.

Đồng thời, phải tích cực học tập trong quần chúng nhân dân, bởi vì: Kinh nghiệm trong nước và

các nước trên thế giới chứng minh cho chúng ta biết: khi có lực lượng dân chúng ủng hộ thì việc

lớn “to tát” mấy, khó khăn, gian khổ bao nhiêu thì chúng ta làm cũng được. Không có sự ủng hộ

của quần chúng nhân dân, thì việc gì làm cũng không xong. Quân chúng nhân dân biết giải quyết

nhiều vấn đề một cách giản đơn, nhanh chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể

to lớn, nghĩ mãi không ra, giải quyết không hiệu quả.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu trong Đảng, trong Nhà nước, trong Chính phủ,

các cấp, các ngành và mọi tập thể cùng mỗi cá nhân cần phải “… cần có một cuộc vận động:

Tiêu diệt lười biếng, nâng cao năng suất, củng cố kỷ luật lao động”.

Những lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống căn bệnh lười biếng, lười lao

động, lười làm việc… không những có giá trị lịch sử to lớn, mà nó còn luôn có tính thực tiến,

tính thời sự trong công tác xây dựng Đảng ta hiện nay; nếu được quán triệt triệt để, vận dụng

sáng tạo, triển khai thực hiện hiệu quả sẽ góp phần khắc phục “bệnh” lười biếng, lười lao động,

lười làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của

Đảng ta “vừa hồng, vừa chuyên”, công tâm, thạo việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn

cách mạng mới.

Mới đây, phát biểu tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí

thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, trong nhiệm kỳ tới đây sẽ cương quyết không để lọt vào

Ban chấp hành Trung ương khóa XIV những người: “Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ,

trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém,

không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút”. Đây là lời cảnh báo với

những người lười biếng.

NGUYÊN NHÂN CỦA CĂN BỆNH “LƯỜI BIẾNG”

 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng giống như bệnh “kiêu ngạo”, bệnh lười biếng trong một bộ

phận cán bộ, đảng viên không tự nhiên sinh ra, mà cũng không thuộc về bản chất vốn có của họ,

lại càng không phải bản chất cơ bản của Đảng ta, nó do nguyên nhân khách quan và chủ quan

mang lại.


Về nguyên khách quan, ngày 04 tháng 01 năm 1924 trong bài viết “Tình cảnh nông dân An

Nam” đăng trên Báo La Vie Ouvrière, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết: “Người An

Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp”. Trong bài

viết “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã chỉ ra: “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện”. Chúng đã sử dụng

mọi thủ đoạn, biện pháp ác động để hủ hoá, lụi bại nhân dân chúng ta bằng nhiều thói hư, tật

xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. 

Về nguyên nhân chủ quan, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nó xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân

mà ra: “… vì tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đẻ ra nhiều cái xấu như lười biếng, tham ô, đòi hưởng

thụ, kèn cựa, địa vị”...; muốn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những con người

xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa cần thiết phải có tư tưởng xã hội chủ

nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cần phải tẩy sạch và gột rửa tư tưởng cá nhân chủ

nghĩa”. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn

trạng”.

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến bệnh

lười biếng là: “… việc giáo dục chính trị còn sơ sài, thiếu sót”. Chính vì thế mà một số cán bộ và

công chức, người lao động còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, thái độ làm thuê, làm mướn, thiếu

tinh thần làm chủ tập thể cơ quan, đơn vị. Do đó mà xuất hiện những hiện tượng xấu như: lười

biếng, lười lao động, lười làm việc, kèn cựa, cục bộ, thiếu kỷ luật, kém đoàn kết, tham ô, xa hoa

lãng phí.

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CĂN BỆNH “LƯỜI BIẾNG”

 Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, dám xả

thân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ, cơ bản đội ngũ cán bộ luôn giữ vai trò tiên phong trong chiến đấu, khắc

phục mọi khó khăn, không ngại khó, ngại khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bước vào giai đoạn đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, với tinh

thần “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu

với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung” của đội ngũ cán bộ của

Đảng tích cực, hăng say làm việc, phát huy sự sáng tạo và đổi mới, tạo nên những bước phát

triển mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững.

Viết về vấn đề “lười biếng”, nói cách khác là “lười lao động”, “lười làm việc”, trong tác

phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết: “Lười biếng là kẻ

địch của chữ cần. Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc”; một cá thể, cá nhân lười biếng,

có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của toàn bộ tập thể cơ quan, đơn vị. Trong tác phẩm “Sửa

đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì

cũng giỏi, việc gì cũng biết”; dẫn đến làm biếng học hỏi, lười suy nghĩ; việc gì dễ thì tranh và

giành lấy cho bản thân mình; việc khó thì né tránh và đùn đẩy cho người khác; gặp việc nguy

hiểm thì tìm mọi cách để thoái thác, trốn tránh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn giải thích một cách

cặn kẽ hơn: “Bệnh lười biếng - Khi tiếp được mệnh lệnh hoặc nghị quyết, không chịu nghiên cứu

rõ ràng”; không tức thời chuyển ngay hoặc chỉ đạo cho cấp dưới, cho đảng viên, cho cán bộ,

chiến sĩ... Kết cục là: nghị quyết là thực hiện không đến nơi đến chốn, ảnh hưởng tới năng lực

lãnh đạo của tổ chức Đảng, nặng hơn là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm sút kỷ luật, kỷ cương

của Đảng .

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cảnh báo thái độ lười học tập, nhất là lười học tập lý

luận chính trị, trình độ văn hóa và chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác, Người nói: “Lười

biếng: Không chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ của mình về chính trị, văn hóa

và nghiệp vụ”. Người cũng cho rằng, lười biếng - “lười lao động”, “lười làm việc” cũng là đắc

tội với nhân dân, với Tổ quốc.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ AN NINH MẠNG

 Nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không

gian mạng để xâm phạm ANQG nước ta trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp

trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục chủ động tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp

thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch lợi dụng

không gian mạng để chống phá nước ta; chú trọng nắm tình hình từ xa, nắm tình hình ngay từ

trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn

chặn. Chủ động xây dựng hệ thống thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng có khả năng

chỉ huy, kết nối, chia sẻ thông tin, tiếp nhận và xử lý sớm các thông tin gây hại tới không gian

mạng quốc gia. 

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về

tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng

để xâm phạm ANQG nước ta, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính

trị. Làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ tính hai mặt của

không gian mạng; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” với các nội dung thông tin xấu, độc,

nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác hành vi lôi kéo người dân vào các hoạt động vi phạm

pháp luật thông qua không gian mạng.Xây dựng ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia

mạng xã hội, internet; không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật nhà

nước. Phát huy hơn nữa lợi thế của internet, mạng xã hội trong việc cập nhật thường xuyên các

quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những thành tựu đã đạt

được trong xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.  

Ba là, phát huy vai trò của Ban chỉ đạo An toàn, an ninh mạng quốc gia, Hiệp hội An ninh mạng

quốc gia trong việc tham mưu với Đảng, Nhà nước chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn

cán bộ, đảng viên và người dân cùng tham gia công tác bảo vệ an toàn, an ninh mạng, phát huy

sức mạnh tổng hợp chung trong công tác phòng, chống hoạt động xâm phạm ANQG trên không

gian mạng.   

Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công

tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG có

phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh nhuệ, hiện đại, có trình độ

chuyên môn sắc bén trong điều tra, khám phá âm mưu, hoạt động lợi dụng không gian mạng để

chống phá nước ta. Tiếp tục đầu tư, trang bị các trang thiết bị nghiệp vụ chuyên dụng và áp dụng

các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác đấu tranh phòng,

chống hoạt động này. Đầu tư trọng điểm xây dựng các đơn vị an ninh mạng, tác chiến điện tử đủ

mạnh để thực hiện nhiệm vụ phòng thủ quốc gia trên không gian mạng. 

Năm là, tăng cường, mở rộng hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế có trình độ phát triển cao

về công nghệ thông tin và an ninh mạng để trao đổi kinh nghiệm trong bảo đảm an toàn, an ninh

mạng và đấu tranh phòng, chống hoạt động vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này; tranh thủ tiếp

thu công nghệ mới và hợp tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng làm công tác

phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội nước ta.

NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH MẠNG

 Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt

động xâm phạm ANQG trên không gian mạng, thời gian qua, công tác này còn tồn tại những khó

khăn, hạn chế nhất định. Đó là công tác quản lý công nghệ viễn thông, bảo mật thông tin nội bộ

của không ít cơ quan nhà nước, cá nhân tại Việt Nam còn sơ hở, chưa được bảo mật tốt. Hệ

thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực quản lý mạng xã hội, internet và đấu tranh, xử lý tội

phạm sử dụng công nghệ cao đang trong quá trình đồng bộ để đáp ứng tình hình thực tế. Công

tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh phản bác các thông tin xấu, độc, quan điểm

sai trái, thù địch vẫn có lúc thụ động, thiếu sắc bén. Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội

phạm lợi dụng internet, mạng xã hội còn mỏng; trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật còn khó

khăn. Trong khi đó, tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội là những đối tượng có nhiều thủ

đoạn tinh vi, xảo quyệt và liên tục thay đổi phương thức hoạt động trên phạm vi hoạt động rộng,

đặc biệt là từ nước ngoài, gây khó khăn trong phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn.

“DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để

lợi dụng thế mạnh của không gian mạng để triển khai các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia

(ANQG) nước ta. Chúng triệt để lợi dụng các kênh truyền hình trên internet, trang web và mạng

xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên

tạc, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong

thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo

nhằm vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo, tạo cớ để bên

ngoài can thiệp nội bộ nước ta.Chúng còn lợi dụng công nghệ để cắt dán, trích dẫn sai lệch các

hình ảnh, tài liệu nhằm làm cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu không đúng về chính sách,

pháp luật của Nhà nước ta và các thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng, phát triển kinh tế-

xã hội, qua đó hòng xuyên tạc tình hình thực tế trong nước. Điển hình như năm 2022, tổ chức

phản động Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) đã tổ chức Diễn đàn trực tuyến với chủ đề “Hội

luận về Thiên Chúa giáo ở vùng Tây Nguyên - thách đố và triển vọng” nhằm xuyên tạc tình hình

tự do tôn giáo ở Việt Nam, kích động hận thù, vận động người dân trong nước tham gia diễn đàn,

kêu gọi quốc tế gây sức ép yêu cầu Nhà nước Việt Nam “cải thiện tự do tôn giáo, tín ngưỡng”.

Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 3.000 trang web, blog, tài khoản mạng xã

hội và gần 100 hội, nhóm trên mạng xã hội Facebook thường xuyên đăng tải thông tin chống

Đảng, Nhà nước Việt Nam, kích động gây rối an ninh, trật tự, kích động biểu tình, bạo loạn, thực

hiện “cách mạng màu”,“cách mạng đường phố”...Bên cạnh đó, các tổ chức và lực lượng phản

động, thù địch lợi dụng không gian mạng để tiến hành các hoạt động gián điệp, thu thập tin tức

chống Việt Nam thông qua việc tung ra những phần mềm chứa các mã độc, phần mềm gián điệp

được cài sẵn, các ứng dụng miễn phí trên điện thoại. Chúng sử dụng kỹ thuật hiện đại lợi dụng lỗ

hổng bảo mật để xâm nhập chiếm đoạt bí mật nhà nước, lấy cắp phát minh, sáng chế nhằm gây

thiệt hại cho kinh tế nước ta.Chúng còn lợi dụng internet, mạng xã hội để chia sẻ công cụ, cách

thức, thủ đoạn phạm tội hoặc làm lây nhiễm virus, phần mềm gián điệp, mã tin học độc hại...

nhằm phá hoại kinh tế, cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các tập đoàn

kinh tế lớn của nước ta. Theo cơ quan chức năng, tính từ đầu năm 2023 đến nay, đã có hơn

13.750 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam gây ra sự cố nghiêm trọng.

Riêng trong quý I-2024, các cơ quan chức năng đã phát hiện 32.265 nguy cơ tấn công mạng

nhằm vào các mạng công nghệ thông tin trọng yếu của các cơ quan Đảng, Chính phủ và các

doanh nghiệp nhà nước, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2023. Nghiêm trọng hơn, chúng lợi

dụng internet, mạng xã hội để kích động, lôi kéo người dân tham gia hoạt động chống phá an

ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta; đồng thời, móc nối, cấu kết với cán bộ, đảng viên

có biểu hiện tha hóa, biến chất, số có tư tưởng cấp tiến là lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành đểmua chuộc, lôi kéo hình thành tổ chức phản động. Dưới chiêu bài “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”,

“yêu nước”, chúng âm mưu hình thành, phát triển “xã hội dân sự” và các tổ chức chính trị-xã

hội, hội nhóm bất hợp pháp như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“ Nhóm công dân tự do”, “Nhóm

tuổi trẻ yêu nước”... Thông qua internet, mạng xã hội, các đối tượng bên ngoài và trong nước cấu

kết, móc nối với nhau để lôi kéo, mua chuộc người tham gia tổ chức phản động. Trong đó, bên

ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; số đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng,

thành lập tổ chức, hội nhóm, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài xuyên tạc; điển hình như

các tổ chức phản động: Việt Tân;Tuổi trẻ yêu nước...

LỢI DỤNG ĐỒNG BÀO DTTS ĐỂ ÂM MƯU CHIA RẼ

 Đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc là thủ đoạn phổ biến

Một thuộc tính cố hữu trong bản năng chống Cộng của các phần tử thù địch đối với cách mạng

Việt Nam nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng đó là nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp và phủ

định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đa số đồng bào DTTS sinh sống ở vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó

khăn. Lợi dụng trình độ dân trí thấp, bản tính thật thà, chất phác của đồng bào và những khó

khăn, thiếu sót trong thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách dân tộc, các thế lực thù địch,

phản động thường đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc: “Đảng, Nhà nước

Việt Nam “phân biệt đối xử” với các DTTS” hoặc “chính sách ngược đãi các DTTS đang diễn ra

ở Việt Nam”. Mục đích của chúng là thông tin sai lệch bản chất chính sách dân tộc nhân văn, tốt

đẹp, làm mất uy tín của Đảng, gây hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin của đồng bào với

Đảng, Nhà nước; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, hình thành lực lượng phản

động là người DTTS làm đối trọng với lực lượng cách mạng trên địa bàn, thúc đẩy xu hướng ly

khai, tự trị dân tộc, gây ra các vụ xung đột, bạo loạn, khủng bố… để “quốc tế hóa” vấn đề dân

tộc, tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp vào công việc nội bộ, phá hoại nền độc lập, thống

nhất và sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt

Nam.

ÂM MƯU KÍCH ĐỘNG NHÓM ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

 Vùng dân tộc thiểu số và miền núi là địa bàn trọng điểm để các thế lực thù địch lợi dụng

Trong 12 năm, từ 2011 - 2023, vùng DTTS và miền núi xảy ra hai vụ việc rất nghiêm trọng. Vụ

thứ nhất, từ 30/4 - 6/5/2011, một số phần tử xấu dùng nhiều thủ đoạn kích động, lừa mị lôi kéo

hàng nghìn đồng bào Mông từ nhiều xã trong huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên và các địa

phương khác: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Đắk Nông, Đắk Lắk… tụ tập về bản Huổi

Khon, xã Nậm Kè để chờ ngày chúa phán quyết (21/5/2011) và xưng vua.

Các thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn và sự cả tin của đồng

bào trong âm mưu xưng vua của một số phần tử cầm đầu; lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái

pháp luật hòng làm mất ổn định chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn biên giới.

Vụ thứ hai, đêm 10/6, rạng sáng 11/6/2023, gần 100 đối tượng người DTTS, chia thành 2 nhóm

tấn công trụ sở xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk giết chết 4 cán bộ Công an

xã, làm bị thương 2 cán bộ Công an xã khác, đập phá, thiêu đốt tài sản nhà nước và công dân...

Trên đường rút chạy, các đối tượng tiếp tục phá hoại tài sản của người dân; uy hiếp 3 người dân

làm con tin; giết chết 2 cán bộ xã và 3 người dân. Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm


trọng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của cán bộ, người dân, phá hủy tài sản của cơ quan, tổ

chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để thành

lập cái gọi là “Nhà nước Đêga”.

Kết quả điều tra xác định, do thiếu hiểu biết, vướng mắc trong cuộc sống cá nhân nên một số đối

tượng là người DTTS ở tỉnh Đắk Lắk đã bị các đối tượng phản động, lưu vong ở Mỹ là Y Mút

Mlô, Y Čik Niê, Y Niên Êya, Y Bút Êban (Y Bé Êban), Y Chanh Byă, Y Sôl Niê... dùng nhiều

thủ đoạn tuyên truyền, kích động, lôi kéo, dụ dỗ tham gia tổ chức phản động. Các đối tượng cốt

cán trong nước nghe theo chỉ đạo của các đối tượng nước ngoài tiếp tục lôi kéo, dụ dỗ, đe dọa,

cưỡng ép một số người DTTS nhẹ dạ, cả tin khác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thành lập nhóm vũ

trang lấy tên gọi là “Lính Đêga” để tiến hành hoạt động khủng bố, phá hoại...

Ngoài hai vụ việc trên, tại vùng DTTS và miền núi, những năm gần đây, còn xảy ra một số vụ

đồng bào DTTS khiếu kiện, tranh chấp đông người; phát sinh một số vụ mâu thuẫn giữa đồng

bào DTTS với người Kinh, với doanh nghiệp, chính quyền… 

Từ những sự việc trên cho thấy, vùng DTTS và miền núi là địa bàn trọng điểm mà “thế lực thù

địch, phản động đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ

đối với nước ta, trong đó các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ là những mắt

xích chiến lược, các thế lực thù địch đang tập trung “đột phá”.

PHÂN BIỆT VÙNG MIỀN – ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Nếu ai tinh tế, chú tâm theo dõi cách mà đám phản động “Nhật ký yêu nước” “Việt tân” cũng

như các trang Facebook của bọn phản đông hiện nay tuyên truyền kiểu “yêu nước” của chúng

cũng đủ thấy hết tư tưởng phân biệt vùng miền, cầu vinh bán nước.Và dưới đây là một bài viết

tương tự, chúng cho rằng, miền Bắc Việt Nam (chúng gọi là PAKKY – Bắc Kỳ), “vào cướp Nam

Kỳ”, một tư duy “hài kịch”.

Chúng ra sức xuyên tạc rằng cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt

Nam thời kỳ 1954 – 1975 là “nội chiến” là “miền Bắc xâm lược miền Nam”. Chúng âm mưu

xuyên tạc lịch sử để tạo ra dư luận trong quần chúng nhân dân, gây ra chia rẽ hai miền Bắc –

Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc ta hòng thực hiện ảo vọng chống phá Đảng, Nhà nước

ta. Nhưng chỉ cần để ý một chút thì người đọc đã dễ dàng nhận ra đó là những luận điệu do bọn

phản động, chống phá cố tình bịa đặt một cách trắng trợn, bất chấp đúng sai. Nếu tìm hiểu về lịch

sử Việt Nam, chúng ta đã quá rõ để biết được cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của

nhân dân Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975 không phải là “nội chiến”, mà là cuộc chiến tranh yêu

nước, nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Cả thế giới đều thấy rõ như ban ngày sự thật

về âm mưu của đế quốc Mỹ là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, lấy đó làm bàn đạp tiến

công miền Bắc. Vì vậy, nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và hành động xâm lược Việt

Nam của Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, là người Việt Nam yêu nước chẳng ai có tư tưởng phá hoại đoàn kết dân tộc, phân biệt

vùng miền như chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một, Dân tộc

Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.

Chúng ta đánh Mỹ, đuổi Ngụy cũng vì chân lý độc lập thống nhất của đất nước. Bắc Kỳ – Nam

Kỳ đều là của Việt Nam. Chính vì chân lý xanh tươi ấy mà cả dân tộc phải hao tổn bao xương

máu để dành lại độc lập thống nhất.Vậy mà có những kẻ lại ra rả phân biệt vùng miền, chia rã

đoàn kết, chia rẽ Bắc – Nam. Những luận điệu ấy chỉ có thể là tư duy khuyết tật của đám xỏ lá ba

que.Những kẻ nào cứ tiếp tay cho ngoại bang chống phá đất nước, phá hoại văn hóa truyền thống

dân tộc, đi ngược chân lý Việt Nam đều phải nhận kết cục thất bại ê chề.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

 TCCS - Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai thăm hỏi nhân dân xã miền núi Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình_Nguồn: thanhnien.vn

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước ta, thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua cho thấy, tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng khá toàn diện, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, tăng cường; công tác giáo dục quốc phòng và an ninh được chú trọng; kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề huy động các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang được xây dựng vững mạnh về chính trị, sức chiến đấu ngày càng cao, từng bước tiến lên hiện đại, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố được xây dựng ngày càng vững chắc; hệ thống công trình phòng thủ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược trọng yếu từng bước hoàn thiện; việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở chính trị được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được gắn kết khá chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong từng ngành, địa bàn và cả nước. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, đó là: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế; việc kết hợp kinh tế với quốc phòng tại các địa bàn chiến lược, biển, đảo còn có mặt chưa chặt chẽ; sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang trong khu vực phòng thủ có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao; việc nắm, dự báo, xử lý tình huống về quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, cơ sở có lúc còn bị động, bất ngờ, thậm chí có nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Dự báo trong thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, diễn biến nhanh, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ gia tăng, khó kiểm soát. Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng xung đột. Trong nước, “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự xuống cấp về các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng”(1), nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi, sẽ trở thành nhân tố trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước bối cảnh, tình hình mới, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo định hướng sau:

Về mục tiêuPhát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; không ngừng nâng cao sức mạnh phòng thủ đất nước, ngăn ngừa, phòng, chống, sẵn sàng ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về quan điểm:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là quan điểm lớn, nhất quán, chủ đạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước quản lý, điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế. Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, không ngừng tăng cường tiềm lực đất nước; đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước; tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khai thác tối đa và tận dụng có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả nư­ớc, của quân đội; đồng thời, tranh thủ sự hợp tác của các tổ chức quốc tế, khu vực và của các n­ước; sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực từ bên ngoài và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nắm vững mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc... Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đây là quan điểm chỉ đạo bảo đảm sự chủ động trong các tình huống chiến lược, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Chủ động phòng ngừa, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị tạo sức mạnh “nội lực” bảo vệ và giữ vững bên trong là chính; chủ động, tích cực đẩy mạnh đối ngoại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tạo sức mạnh “ngoại lực” bảo đảm quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động, tích cực ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh là một trong các nhiệm vụ quốc phòng trọng yếu trong thời bình; nhằm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa và các lợi ích quốc gia - dân tộc. Xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh; đồng thời, chuẩn bị đầy đủ về tiềm lực, lực lượng, thế trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước do toàn thể nhân dân thực hiện, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Xây dựng ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng mọi hình thái chiến tranh của kẻ thù trong mọi tình huống.

Về nội dung:

Một là, xây dựng tiềm lực quốc phòng, tập trung vào những nội dung sau:

(i) Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần. Tập trung xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tinh thần cảnh giác cách mạng; xây dựng nền văn hóa, các giá trị đạo đức; tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng cho lực lượng vũ trang và toàn dân; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ các cấp. Giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước; phát huy dân chủ rộng rãi, công bằng, văn minh; tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; chủ động ngăn ngừa, phòng, chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

(ii) Xây dựng tiềm lực kinh tế. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng; kết hợp từ chiến lược đến quy hoạch, kế hoạch của quốc gia, ngành nghề, vùng, miền. Phát huy kinh tế nội lực, kinh tế số, tăng cường dự trữ cơ sở vật chất, đầu tư có trọng điểm cho quốc phòng, nhất là việc đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển đổi số của nền kinh tế với xây dựng hạ tầng, chuyển đổi số của nền quốc phòng toàn dân. Phát huy thế mạnh kinh tế của từng vùng, miền, địa phương và liên kết kinh tế giữa các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế. Phát triển kinh tế gắn với coi trọng bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng thủ dân sự, tăng cường củng cố quốc phòng. Nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng trên một số vùng chiến lược, biên giới, biển, đảo. Phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị, sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược cho quân đội, dân quân tự vệ...

(iii) Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ. Kết hợp phát triển khoa học - công nghệ quốc gia với xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ quốc phòng. Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ mới, hiện đại và công nghệ số trong sản xuất, bảo đảm vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật; khoa học quân sự; nghệ thuật quân sự, tổng kết chiến tranh... Đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học, kỹ thuật cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng. Mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đáp ứng phát triển khoa học - công nghệ quốc gia, khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng.

(iv) Xây dựng tiềm lực quân sự. Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng dự bị động viên hùng hậu; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình xây dựng tiềm lực quân sự; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí, trang bị, phương tiện cho các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân. Gắn xây dựng tiềm lực quân sự với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng các tiềm lực khác bảo đảm huy động tạo thành sức mạnh quân sự, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng lực lượng quốc phòng. Nền quốc phòng toàn dân Việt Nam dựa vào sức mạnh tổng hợp, toàn diện của quốc gia, dân tộc, nên lực lượng quốc phòng bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, cần tập trung xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; trong đó trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển, đảo; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cả trong thời bình và thời chiến.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Cần tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc thành một thể thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quy hoạch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác; kết hợp chặt chẽ giữa phân vùng kinh tế với phân vùng chiến lược quốc phòng và xây dựng hậu phương chiến lược. Xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc.

Bộ đội Biên phòng Trường Sa hỗ trợ ngư dân vươn khơi bám biển_Nguồn: vietnamplus.vn

Để tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ nghĩa, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với quốc phòng.

Quốc phòng là lĩnh vực hoạt động liên quan trực tiếp đến sự an - nguy, thịnh - suy, mất - còn của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nên cần thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý, điều hành tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thống nhất, đồng bộ cơ cấu tổ chức đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng từ Trung ương đến địa phương. Bổ sung các nội dung lãnh đạo về quốc phòng, cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, ngành, địa phương liên quan đến hoạt động quốc phòng, đặc biệt khi xử lý các tình huống phức tạp. Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thành pháp luật, nghị định và tổ chức chỉ đạo thực hiện các kế hoạch về quốc phòng gắn với chương trình, kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác quy hoạch về quốc phòng và phổ biến tới các bộ, ngành, địa phương tạo sự thống nhất thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng.

Thứ hai, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, cả hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục phổ biến nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cư­­ờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, phát huy vai trò của các ban, ngành, đoàn thể, tạo sức mạnh tổng hợp và sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng. Tiếp tục đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng phù hợp với từng đối t­­ượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp. Phát huy tốt vai trò tham m­­ưu, tư­­­ vấn giúp các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ ba, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc sẽ tạo nên sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc chính là quy tụ lòng người, tạo đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; quy tụ được lực lượng vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Nhân dân là lực lượng đông đảo, được tổ chức chặt chẽ tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ các công trình quân sự, quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của các địa phương, trên các vùng, miền của đất nước.     

Thứ tư, kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng.

Trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại của quốc gia, từng ngành và từng địa phương phải luôn kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và đối ngoại; chú trọng trên hướng chiến lược, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ..., việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng, bố trí các công trình kinh tế, kỹ thuật, văn hóa... có quan hệ rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, việc quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ... phải luôn chú trọng kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ năm, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và khi có chiến tranh.

Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, nhất là nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ chiến lược  bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhằm xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân, binh chủng, lực lượng... Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, phù hợp với khả năng của nền kinh tế và của các địa phương. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự chủ, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại để bảo đảm tự chủ và tăng cường vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho quân đội nhân dân, dân quân tự vệ.

Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi thế cho xây dựng, củng cố quốc phòng.

Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng; phát huy hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Xây dựng tiềm lực và thế trận đối ngoại gắn kết với thiết lập thế trận quốc phòng liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại để thực hiện tốt phương châm chỉ đạo chiến lược “trong ấm, ngoài êm” bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng.

Việc đề xuất định hướng về mục tiêu, quan điểm, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp là nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả và hướng tới xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045./.

--------------------------

(1) Xem: Toàn văn phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp