Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

 

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm

PGS, TS. HÀ MỸ HƯƠNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
19:25, ngày 01-12-2022

TCCS - Đã hơn 30 năm kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc và trật tự thế giới hai cực tan rã, song nhân loại đứng trước không phải là “một trật tự thế giới mới” mà là một thế giới đầy biến động, bất ổn, khó lường. Nhìn lại những bước ngoặt lịch sử, những giá trị sâu xa của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chính sách dân tộc của V. I. Lê-nin để suy ngẫm xem, nếu trật tự thế giới hiện nay không mang lại hòa bình và an ninh cho nhân loại, thì lực lượng xã hội nào có thể làm được điều đó?

Những bước ngoặt lịch sử vĩ đại

Cách mạng Tháng Mười thành công đã tạo nên những bước ngoặt lịch sử vĩ đại.

Đối với nước Nga.

Trước hết, đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh đế quốc và giải phóng nước Nga khỏi “nhà tù của các dân tộc”. Sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, Nhà nước Xô viết đã sớm thông qua các văn kiện pháp lý và bảo đảm trên thực tế quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng và quyền được sống trong hòa bình của tất cả các dân tộc sinh sống trên đất nước Nga; trên cơ sở đó, thiết lập và củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc. Chính quyền Xô viết tạo điều kiện cho hơn một trăm triệu người lao động thuộc mọi dân tộc từng bị áp bức, bị bóc lột đứng lên thực hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình.

Tiếp đó, khai sinh một chế độ chính trị - xã hội kiểu mới, khác về chất so với tất cả các chế độ chính trị - xã hội đã và đang tồn tại đến lúc đó trên thế giới. Nhà nước Xô viết là nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, giai cấp vô sản Nga, với đội tiên phong là Đảng Bôn-sê-vích, lần đầu tiên trở thành giai cấp cầm quyền. Nhà nước Xô viết thủ tiêu quyền tư hữu đối với những tư liệu sản xuất cơ bản; đặt nền tảng xây dựng một xã hội mới có mục tiêu tối thượng là đưa lại hòa bình, an ninh, ấm no và công bằng cho tất cả mọi người; xác lập trên thực tế một nền dân chủ cho số đông, bảo đảm lợi ích và quyền lực thực sự của người lao động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy đã khơi dậy, phát huy mạnh mẽ sức mạnh, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân.

Cách mạng Tháng Mười cũng đặt nền móng tạo dựng và gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới hùng mạnh, đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như có vai trò, vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Nhà nước Xô viết thay đổi triệt để các nguyên tắc đối ngoại, lấy chủ nghĩa quốc tế vô sản thay thế chủ nghĩa dân tộc tư sản vị kỷ, đồng thời kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại vì hòa bình.

V.I. Lê-nin - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới _Tranh: Tư liệu

Đối với thế giới.

Một là, đánh dấu bước chuyển biến về chất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành hiện thực, và hiện thực đó minh chứng cho bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng như sự đúng đắn của phép biện chứng duy vật. Thành công của Cách mạng Tháng Mười là kết quả hợp quy luật của sự phát triển lý luận và thực tiễn đấu tranh qua nhiều thế kỷ của nhân dân lao động trên toàn thế giới; đáp ứng khát vọng lâu đời về tự do và giải phóng con người của nhân loại; cung cấp những bài học lịch sử vô giá về lý luận và thực tiễn cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Hai là, chấm dứt thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế - chính trị thế giới, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười khởi nguồn và dẫn tới bước chuyển biến mới của phong trào cách mạng thế giới về nội dung, đường lối và phương pháp phát triển, làm thay đổi căn bản tiến trình lịch sử thế giới theo hướng tích cực: Các đảng mác-xít lê-nin-nít ra đời ở hàng chục quốc gia; Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập (tháng 3-1919), đã dần loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, giúp các đảng cộng sản vững mạnh hơn về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đồng thời hậu thuẫn mạnh mẽ cho phong trào cách mạng tại nhiều nước. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới, đóng vai trò đối trọng với chủ nghĩa tư bản. Gần cuối thế kỷ XX, chủ yếu do những nguyên nhân nội tại(1), mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhưng sự biến đổi đó không làm thay đổi tính chất quá độ của thời đại, vì đây là quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại.

Ba là, mở đường và khai sáng cho kỷ nguyên mới của phát triển và tiến bộ xã hội. Hạn chế lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đặt nhân loại trước một thách thức chung là tìm con đường giải phóng khỏi chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Cách mạng Tháng Mười đáp ứng những yêu cầu lịch sử cấp bách đó, tìm kiếm và khai phá một con đường chưa từng có để nhân loại thực hiện mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội; cổ vũ cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở cả các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản đã phải tiếp thu một số mặt ưu việt của chủ nghĩa xã hội để điều chỉnh và thích nghi với thời đại, song không thay đổi bản chất bóc lột, áp bức, bất công.

Bốn là, cổ vũ, tạo động lực, giúp đỡ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành quyền tự do, quyền làm chủ vận mệnh của mình, quyền bình đẳng trong cộng đồng quốc tế của nhân dân Á - Phi - Mỹ La-tinh đã trở thành một cao trào cách mạng chưa từng có. Kết quả là trong nửa sau thế kỷ XX, hơn 100 nước thuộc địa trở thành những quốc gia độc lập, có chủ quyền, chủ thể pháp lý quốc tế. Hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân, đế quốc thiết lập trong suốt 5 thế kỷ hoàn toàn sụp đổ. 

Năm là, khai sinh và đấu tranh cho một kiểu quan hệ quốc tế hoàn toàn mới, theo những nguyên tắc phản ánh bản chất của chế độ Xô viết: 1- Hòa bình và hữu nghị; chống chính sách xâm lược và chiến tranh đế quốc; 2- Dân chủ, công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa tất cả các quốc gia - dân tộc; 3- Cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.

Dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin trong tiến trình Cách mạng Tháng Mười

Vấn đề dân tộc chiếm vị trí rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng vô sản của V.I. Lê-nin. Người dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc trước hết bắt nguồn từ thực tiễn của nước Nga và thế giới, đó là: 1- Sự áp bức dân tộc bằng bạo lực của dân tộc Đại Nga đối với các “dị tộc” đang rất phổ biến ở nước Nga Sa hoàng; 2- Trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, những cuộc tranh luận về vấn đề dân tộc trong phong trào dân chủ - xã hội ở Nga và châu Âu diễn ra gay gắt; 3- Chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã và đang thực hiện chủ nghĩa dân tộc tư sản, chính sách xâm chiếm thuộc địa, áp bức, nô dịch, gây hằn thù dân tộc trên thế giới.

Trong bối cảnh đó, từ rất lâu trước Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu vấn đề dân tộc ở cả nước Nga cũng như ở các nước và dân tộc thuộc địa có liên quan mật thiết đến cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp của Đảng Bôn-sê-vích chống chủ nghĩa cơ hội và các thế lực thực dân, đế quốc trong vấn đề này. Đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản, V.I. Lê-nin đã vận dụng và phát triển tư tưởng mác-xít về giai cấp - dân tộc, đặc biệt bám sát quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm thực tiễn khi luận chứng, luận giải và đề xuất chính sách giải quyết vấn đề dân tộc ở nước Nga nói riêng, trên thế giới nói chung. Về tổng thể, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin nhằm bảo vệ, củng cố quan điểm của Đảng Bôn-sê-vích, của chủ nghĩa quốc tế vô sản; phản bác các quan điểm, chính sách của giai cấp tư sản, của các trào lưu cơ hội chủ nghĩa ở Nga và trên thế giới về vấn đề dân tộc; đặc biệt nhằm giáo dục đảng viên của Đảng Bôn-sê-vích và giác ngộ quần chúng nhân dân Nga, để từ đó họ tin tưởng và tự giác đi theo đường lối đúng đắn của Đảng. Những mục tiêu này thể hiện rất rõ trong nhiều tác phẩm của V.I. Lê-nin, như: “Về cương lĩnh dân tộc của Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga” (năm 1913), “Về quyền dân tộc tự quyết” (năm 1914), “Vấn đề hòa bình” (năm 1915), “Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quyền dân tộc tự quyết” (năm 1916), “Báo cáo về hòa bình” (năm 1917), “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột” (năm 1918), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” (năm 1920),... Theo đó, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin bao hàm ba nội dung chính sau:

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Vấn đề này được V.I. Lê-nin đặt ra trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới. V.I. Lê-nin đã luận chứng sắc sảo và thuyết phục cho những luận điểm sau: “toàn bộ lịch sử của tư bản là một lịch sử đầy những sự tàn bạo và cướp đoạt, đầy máu và bùn nhơ”; “Lối lừa bịp nhân dân, mà giai cấp tư sản thực hành rộng rãi nhất trong cuộc chiến tranh này, là lấy tư tưởng “giải phóng dân tộc” để ngụy trang cho những mục đích cướp bóc của nó”(2); “đối với giai cấp tư sản thì yêu sách về quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế thường là sự tuyên truyền cho tính bản vị dân tộc và chủ nghĩa sô-vanh”(3). Người kết luận: Chính sách dân tộc của giai cấp tư sản thực chất là đặc quyền đặc lợi(4); là áp bức, bóc lột, nô dịch(5); là chia rẽ dân tộc, chia rẽ giai cấp vô sản(6); do đó, “khả năng chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa” chỉ là ảo tưởng(7); và Người khẳng định: “Ngày nay chỉ có giai cấp vô sản mới bảo vệ quyền tự do thực sự của các dân tộc và sự thống nhất của công nhân thuộc mọi dân tộc”(8). “Nhưng muốn cho cách mạng vô sản thắng lợi, thì phải giáo dục lâu dài cho công nhân tinh thần bình đẳng và hữu nghị dân tộc đầy đủ nhất(9). V.I. Lê-nin khẳng định: Chỉ có chế độ Xô viết là chế độ thật sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc(10); thực hiện quyền bình đẳng dân tộc là để loại trừ mọi sự hiềm nghi, mọi xu hướng, biệt lập, mọi sự nghi kỵ, mọi sự thù hằn nhỏ nhặt nhất giữa các dân tộc(11); quyền bình đẳng dân tộc phải được bảo đảm bằng pháp luật và gắn với việc bảo vệ vô điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người(12). Tóm lại, bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng không phải là bình quân chủ nghĩa, hơn thế cần có sự ưu tiên đối với các dân tộc kém phát triển hơn. V.I. Lê-nin chỉ rõ, chỉ như vậy mới tạo được cơ sở thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp vô sản trong từng nước và trên thế giới. 

Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. V.I. Lê-nin xác định, đây là quyền tự quyết về chính trị; quyền phân lập của dân tộc đó khỏi tập thể dân tộc khác; quyền thành lập quốc gia - dân tộc độc lập; quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn trái ngược tư tưởng ly khai và chủ nghĩa biệt lập. “Do kinh nghiệm hàng ngày của mình, quần chúng nhân dân biết rất rõ tầm quan trọng của những quan hệ địa lý và kinh tế, những lợi thế của một thị trường rộng lớn và của một quốc gia rộng lớn nên họ chỉ nghĩ đến phân lập khi sự áp bức dân tộc và những xung đột dân tộc làm cho cuộc sống chung trở thành tuyệt đối không thể chịu đựng được và làm cho mọi thứ quan hệ kinh tế bị trở ngại”(13). V.I. Lê-nin chỉ rõ, “quyền tự quyết được thực hiện bằng một cuộc trưng cầu ý kiến của toàn thể dân cư trong lãnh thổ muốn quyết định vận mệnh của mình”(14). Luận điểm này có nghĩa là quyền dân tộc tự quyết không thể được quyết định bởi một thế lực cầm quyền hay một phe nhóm nào đó, một khi lợi ích và mưu đồ của những thế lực này không phản ánh lợi ích và ý nguyện của đại đa số nhân dân thuộc quốc gia hay dân tộc đó. Trong quan hệ quốc tế, một quốc gia - dân tộc có quyền tự quyết đường hướng đối ngoại của mình, song đường hướng đó nhất thiết không được phương hại đến lợi ích quốc gia chính đáng của quốc gia - dân tộc khác.

Ba là, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng, nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin, phản ánh bản chất, chính sách quốc tế của Quốc tế cộng sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong đó, V.I. Lê-nin khẳng định, nếu giai cấp tư sản thi hành chính sách chia rẽ, gây hằn thù dân tộc, thì “chủ nghĩa quốc tế vô sản tuyệt đối không dung hòa với lập trường đó vì chủ nghĩa quốc tế tuyên truyền không những cho sự gần gũi giữa các dân tộc, mà cho cả sự liên hợp của công nhân thuộc tất cả các dân tộc ở một quốc gia trong những tổ chức thống nhất của giai cấp vô sản”(15). V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có sự chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”(16). Từ đó, V.I. Lê-nin phát triển khẩu hiệu Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại! thành Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại! Khẩu hiệu này đã thật sự trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của giai cấp vô sản và các dân tộc khác nhau ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

 

TCCS - Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính yếu, quyết định nhiều vấn đề cốt lõi đối với công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam cho đội ngũ lãnh đạo, đảng viên hướng tới, học tập, làm theo, để tự rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng ngày càng trong sạch, tiến bộ, góp phần để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1).

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm nói chuyện với nhân dân tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên

Từ việc phân tích sâu sắc khía cạnh đạo đức của một tổ chức, hệ thống chính trị Xô-viết và của một người cộng sản chân chính đứng đầu tổ chức đó là lãnh tụ vĩ đại V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”(2). Người coi V.I. Lê-nin là Người thầy dạy vĩ đại của cách mệnh vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lênin muôn đời bất diệt(3).

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam được hun đúc, vun đắp từ hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và gương mẫu thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng là cái gốc sự phát triển của cách mạng, bởi vậy trong tư duy và hành động, Người luôn kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”, trong đó đặc biệt đề cao hai phương diện chính: Đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên và đạo đức của tổ chức đảng.

Về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ công cuộc đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức của từng cán bộ, đảng viên; coi trọng đúng mức công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng đối với người lãnh đạo. Người cho rằng, đạo đức người cách mạng giống như gốc rễ của cây, như nguồn của sông suối, khi “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(4). Người cũng nhiều lần khẳng định, đạo đức cách mạng là yếu tố không thể thiếu đối với người làm cách mạng; “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ... Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(5). Do vậy, Người coi nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức nói chung, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói riêng là động lực cốt lõi làm nên những thành công của con đường cách mạng đầy gian nan.

Cho đến những năm cuối cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên toàn hệ thống chính trị. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(6). Theo người, “đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”(7). Bên cạnh đó, Người cũng thường xuyên nhấn mạnh những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng, như trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có tình nghĩa; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng, tiến bộ,... Cụ thể:

Trung với nước, hiếu với dân được xem là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối các phẩm chất khác, thể hiện bản lĩnh, tinh thần cống hiến của người cách mạng luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thậm chí là hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng khái niệm “trung” và “hiếu” trong quan niệm đạo đức truyền thống “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” và mở rộng nội hàm, cách hiểu sang nội dung mới, rộng lớn hơn, đó là “Trung với nước, hiếu với dân” nhằm tạo nên sự chuyển biến trong nhân sinh quan nói chung và các quan điểm về đạo đức cách mạng nói riêng. Trong đó, “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; “Hiếu với dân” là gần dân, lấy dân làm gốc, gắn bó với dân, “hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Đặc biệt, Người khẳng định “Trung với nước” phải gắn liền “Hiếu với dân” bởi nước là “nước của dân”, người dân là chủ thể nắm quyền lực nhà nước; mọi lực lượng đều ở dân, còn cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan
cách mạng”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là các khái niệm đạo đức truyền thống được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và vận dụng linh hoạt để phù hợp với yêu cầu, nội dung mới của đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”(8). Người cũng cho rằng đây chính là một biểu hiện sinh động của phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” và chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa chúng. Theo đó, “cần” và “kiệm” phải luôn đi đôi với nhau như hai chân của con người, “CẦN mà không KIỆM, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”... KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm, không phát triển được”(9). Chữ “liêm” phải đi đôi với chữ “kiệm”, cũng như chữ “kiệm” phải đi đôi với chữ “cần”, cụ thể, “Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”(10); hay “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn”(11). Mặt khác, “cần, kiệm, liêm, chính” nhất định sẽ đi đến chí công vô tư và ngược lại.

Yêu thương, quý trọng con người cũng là một phẩm chất quan trọng trong đạo đức cách mạng và luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý, bởi đây là đức tính nền tảng để hình thành, nung nấu ý chí quyết tâm làm cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người. Người xác định rõ, làm việc “chính” là người “thiện”, làm việc “tà” là người “ác”, đó là hai hạng người và loại việc cơ bản trong cuộc sống; những người bị áp bức, bóc lột, sẵn sàng làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo khác nhau thì vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, coi nhau như anh em một nhà trong một “thế giới đại đồng”. Người khuyên mọi người lấy thẳng thắn, chân thành để đối xử, lấy tin yêu, giúp đỡ để cảm hóa lẫn nhau; trân trọng, phát huy yếu tố tích cực trong mỗi người để hạn chế, đẩy lùi yếu tố tiêu cực, giúp tất cả cá nhân đều tiến bộ, trưởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng và nhân dân, bởi “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”(12).

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân(13), điều này có nghĩa “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”(14), phải biết “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”(15)Theo Người, để xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân “như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”(16) và “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(17). Mục tiêu của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên là nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, tức là dần quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Về đạo đức cách mạng của tổ chức đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có một đảng chân chính, vững mạnh, cần xác định rõ mục đích tối thượng của Đảng chính là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân mà chiến đấu và Đảng không có lợi ích riêng nào hết. Đây cũng là lý tưởng đạo đức cao đẹp của Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, Người chỉ rõ, đạo đức chính là ở chỗ làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thấm sâu vào tư tưởng và hành động của từng cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(18), có ý chí, khát vọng, quyết tâm đêm ngày đều “nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại”(19). Theo đó, trong đời hoạt động cách mạng, Người luôn chú trọng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng; khuyến khích đội ngũ cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh mà nhiều cán bộ, đảng viên có trình độ lý luận chính trị rất thấp(20). Người khẳng định, “có thể tránh được biết bao bế tắc, sai lầm và biết bao thất bại đau đớn, nếu chúng ta có thể cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác”(20) và thường xuyên căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tích cực vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, luôn bổ sung, làm giàu lý luận bằng những kiến thức thực tiễn mới, tránh giáo điều, kinh viện.

Xuất phát từ tình hình thực tế trong Đảng cũng như bối cảnh lịch sử đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(22); Người lý giải: “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(23). Theo đó, Người cảnh báo: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng(24)Từ rất sớm, Người đã chỉ ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức vị cao: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””(25). Do đó, nếu không giữ được đạo đức cách mạng thì đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ dễ bị tha hóa, tự đánh mất mình, sa vào suy thoái, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sỹ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”(26). Khẳng định vai trò tiên quyết của việc nêu gương, Người cho rằng lãnh đạo, người đứng đầu phải thật sự gương mẫu, làm gương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(27).

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh trò chuyện với công dân tại buổi tiếp công dân thường kỳ_Nguồn: baoquangninh.vn 

Thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức ở nước ta hiện nay

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, thuộc về chế định nội tại trong sự phát triển của Đảng; là nhiệm vụ cần có, phải có để Đảng luôn là Đảng của đạo đức, văn minh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhận thức rõ điều đó, đồng thời dựa trên hệ thống quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(28), theo đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khoa học, thiết thực nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào uy tín, năng lực, phẩm chất của Đảng  và hệ thống chính trị(29).

Nhìn chung, thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt quan tâm về mọi mặt, đạt được những thành tựu có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả xây dựng nền văn hóa, trong đó có đạo đức chưa thực sự được như mong muốn. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, bị dục vọng chi phối, có dấu hiệu suy thoái về đạo đức, lối sống,...; xuất hiện tình trạng tham nhũng, kèn cựa địa vị, tranh chức, quyền, dùng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm”; dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh mà bất chấp cả liêm sỉ, danh dự,...

Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng Đảng về đạo đức trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Trách nhiệm làm cho “môi trường đạo đức” của Đảng ngày càng trong sạch không phải của riêng ai, nhưng trước hết và cơ bản nhất là của từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên; phải kiên quyết ngăn chặn những hậu quả nặng nề, có thể làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng. Trước tình hình đó, nhân dân luôn có mong ước, ý nguyện cũng như nghiêm khắc yêu cầu Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh được thể hiện từ yếu tố cơ bản nhất, đó là nền tảng đạo đức thông qua những hành động thực tiễn, việc làm, ứng xử thiết thực(30).

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thứ nhất, kiên quyết thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhiệm vụ xây dựng nền đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân(31). Mặt khác, phải làm cho yếu tố đạo đức thẩm thấu vào trong đường lối, định hướng chính trị của Đảng; Đảng phải luôn giữ vững mục tiêu cách mạng trong đường lối chính trị của mình, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Theo đó, đường lối chính trị đúng đắn phải được xuất phát, đúc kết từ thực tiễn mà ra và hàm chứa trong đó cả những giá trị phổ quát, ưu việt của nhân loại. Muốn vậy, trước hết phải tuân thủ và thực hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng một Đảng của đạo đức và văn minh.

Thứ hai, nền đạo đức cách mạng phải được hòa quyện bền chặt trong mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Theo đó, một Đảng chân chính, đạo đức và có đủ tư cách để lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân thì tiêu chí hàng đầu là thường xuyên chăm lo, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Để làm được điều này, cần nỗ lực huy động, phát huy vai trò và “nuôi dưỡng” sức mạnh vĩ đại của các tầng lớp nhân dân. Trong mọi trường hợp, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên phải luôn trăn trở, suy nghĩ, suy xét thấu đáo, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước.

Thứ ba, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng; luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, có niềm tin vào cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng; tránh hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu, thấy sai không phê phán, thấy đúng không bảo vệ, thậm chí còn cổ xúy, phụ họa cho quan điểm và việc làm sai trái, lệch lạc với chủ trương, đường lối của Đảng; đặc biệt, cần nghiêm túc, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay(32). Bên cạnh đó, không ngừng đấu tranh với những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không trung với nước, không hiếu với dân, không thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,...; sống cơ hội, bè phái, vụ lợi, hám danh, vô cảm, chỉ thích xa hoa, hưởng lạc, không gương mẫu nêu gương,...

Thứ tư, kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng chuẩn mực đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, hướng tới nhân dân và vì nhân dân trên tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(33). Tăng cường tuyên truyền, quán triệt thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””, từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và yêu cầu nâng cao chất lượng, sinh hoạt Đảng; đồng thời, quan tâm công tác kiểm tra, giám sát trong chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng. Mặt khác, bên cạnh việc giáo dục, rèn luyện, cần có cơ chế đủ mạnh, kịp thời để xử lý kỷ luật, thậm chí có thể đưa ra khỏi Đảng những người có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, trong đó cần bám sát tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự rèn luyện, gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, luôn có ý thức không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, dám nói, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiên quyết khắc phục những biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực trong xã hội; thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”. Mặt khác, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức từ cấp thấp đến cấp cao. Ở góc độ lớn hơn, cần nghiên cứu, bổ sung, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong các chương trình, môn học ở hệ thống giáo dục phổ thông, đại học, nhằm thiết lập nền tảng đạo đức vững chắc cho thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước./.

 

TCCS - Việc xuất hiện ngày càng nhiều cơ chế, hình thức liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng “tiểu đa phương” mới, phong phú, linh hoạt về nội hàm và phương thức vận hành đang tác động nhiều mặt đến lợi ích và chính sách bảo đảm an ninh, phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu và làm rõ nội hàm các xu hướng tập hợp lực lượng thông qua cơ chế đa phương mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác đối ngoại đa phương của nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như trong dài hạn.

Đánh giá tổng quan về hệ thống đa phương toàn cầu hiện nay

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, thế giới tiếp tục chuyển động nhanh, phức tạp, với nhiều diễn biến vượt ra ngoài khuôn khổ dự báo thông thường. Cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng hình thành rõ nét. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng chung của các dân tộc trên thế giới, nhưng đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, đặc biệt là dưới tác động của chiến tranh, xung đột, cạnh tranh nước lớn, tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên và các vấn đề an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, an ninh mạng, khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia,... Những chuyển biến sâu rộng của tình hình thế giới và khu vực đã tác động mạnh mẽ đến chủ nghĩa đa phương, đặc biệt là các cơ chế đa phương truyền thống được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trên nền tảng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế(1).

Toàn cảnh phiên họp Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tại New York (Mỹ) về nghị quyết chấm dứt xung đột Israel - Hamas ở Dải Gaza, ngày 10-6-2024_Ảnh: THX/TTXVN

Trong tổng thể bối cảnh tình hình thế giới và khu vực, có thể đưa ra một số nhận định về hệ thống đa phương toàn cầu trong khoảng 5 năm trở lại đây như sau:  

Thứ nhất, chủ nghĩa đa phương đang đối mặt với thách thức chưa từng có do sự gia tăng các hành vi đơn phương, chính trị cường quyền, vi phạm hoặc diễn giải, áp dụng luật pháp quốc tế theo ý muốn riêng, cùng với sự tiếp diễn phức tạp của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ.

Các thể chế đa phương truyền thống tiếp tục bộc lộ những hạn chế về tính hiệu quả, hiệu lực, cơ cấu, luật lệ do chưa kịp thích ứng, cải tổ trước đà biến động nhanh của tình hình quốc tế và tính chất phức tạp liên thông của các thách thức toàn cầu. Nguồn lực hợp tác quốc tế bị dàn trải do phải xử lý các vấn đề đa khủng hoảng, như đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, xung đột Nga - U-crai-na, I-xra-en - Pa-le-xtin, căng thẳng trên Biển Đỏ...), trong khi chi tiêu quân sự toàn cầu liên tiếp tăng trong thập niên qua(2).

Việc triển khai nhiều chương trình nghị sự lớn về hợp tác phát triển gặp nhiều khó khăn, trong đó có Chương trình hành động Addis Ababa về tài chính cho phát triển, Khung hành động Sendai về giảm nhẹ rủi ro thiên tai giai đoạn 2015 - 2030, việc thực hiện các mục tiêu trong Chương trình Nghị sự Phát triển bền vững đến năm 2030(3). Dưới tác động của cạnh tranh nước lớn, quá trình hợp tác xử lý nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực bị chính trị hóa, trong một số trường hợp thậm chí bị gián đoạn hoặc bế tắc. Quá trình thương lượng, triển khai các thỏa thuận thương mại xuất hiện nhiều nội hàm mới liên quan đến khía cạnh an ninh, nhân quyền, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động, cùng với sự gia tăng các hình thức bảo hộ sau biên giới và qua biên giới, như cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM), các tiêu chuẩn về môi trường... Đồng thời, xu hướng tăng cường phân tách, phân mảnh, khu vực hóa các liên kết kinh tế mang tính địa - chính trị đang đặt ra vấn đề về lựa chọn hệ thống, tiêu chuẩn trong quá trình hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế. Trước tình hình trên, nhu cầu thúc đẩy cải tổ các thể chế đa phương truyền thống ngày càng được nhiều nước coi trọng. Tuy nhiên, việc cải tổ toàn diện các cơ quan có vai trò quyết định trong xử lý các vấn đề toàn cầu là quá trình tiệm tiến, đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực, đồng thuận của các quốc gia(4).

Thứ hai, mặc dù đối mặt với nhiều thách thức song về tổng thể, các cơ chế đa phương với Liên hợp quốc là trung tâm tiếp tục được hầu hết quốc gia coi trọng và đóng vai trò đi đầu, khởi xướng, dẫn dắt nhiều sáng kiến, nỗ lực tích cực nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu.

Khó khăn hiện nay của chủ nghĩa đa phương chủ yếu là vấn đề tính hiệu quả, chưa phải là khủng hoảng về sự tồn tại của các cơ chế đa phương truyền thống. Các nước, trong đó cả nước lớn và các nước vừa và nhỏ vẫn tiếp tục tận dụng các thể chế và cơ chế hợp tác đa phương để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, chung tay xử lý các vấn đề toàn cầu vượt quá năng lực ứng phó của từng quốc gia đơn lẻ. Các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, như tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hòa bình các tranh chấp đã trở thành nền tảng không thể thay thế trong điều hòa quan hệ quốc tế. Liên hợp quốc tiếp tục đi đầu tiến trình cải tổ, định hình các khuôn khổ mới về quản trị toàn cầu, trong đó có chương trình nghị sự “Tương lai của chúng ta” (OCA), thỏa thuận số toàn cầu, quản lý trí tuệ nhân tạo... Các liên kết kinh tế, liên kết số, hợp tác công nghệ và chuyển đổi xanh tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhiều cơ chế hợp tác về kinh tế, phát triển toàn cầu và khu vực, như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), G7, G20, G77, Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động, mở rộng thành viên và tăng cường hợp tác với các đối tác(5). Ở cấp độ khu vực, ASEAN tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng, thúc đẩy xây dựng tầm nhìn ASEAN sau năm 2025 và khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực.

Lãnh đạo các nước G7 và các đại biểu tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 ở thành phố Fasano, Italia, ngày 13-6-2024_Ảnh: Kyodo/TTXVN

Thứ ba, các cơ chế đa phương mới, cơ chế hợp tác “tiểu đa phương”, mô hình hợp tác nhóm ba bên, bốn bên có xu hướng ngày càng gia tăng, với hình thức, phương thức hoạt động, phạm vi và lĩnh vực hợp tác đa dạng, linh hoạt.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, không chỉ các cường quốc mà nhiều nước tầm trung và nước nhỏ cũng tìm cách thúc đẩy các cơ chế hợp tác đa phương, các sáng kiến mới để thúc đẩy những mục tiêu riêng, như gia tăng tự chủ chiến lược, thúc đẩy xây dựng các khuôn khổ, “luật chơi” mới trên các lĩnh vực đa dạng. Đáng chú ý, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trở thành trọng điểm của sự hình thành, triển khai các cơ chế hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh vực.

Trong đó, nổi bật là: Trung Quốc khởi xướng các sáng kiến toàn cầu, như Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI), Sáng kiến Văn minh Toàn cầu (GCI), Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI), đề xuất các khuôn khổ hợp tác mới trong các sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại” và các dự án Vành đai, Con đường (BRI) chất lượng cao. Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và nhiều quốc gia, như Ấn Độ, Ca-na-da, Ô-xtrây-li-a triển khai các sáng kiến, chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó Mỹ thúc đẩy Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF), Đối tác về hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII) và nhiều cơ chế hợp tác chuyên ngành khác. Nga tiếp tục thúc đẩy sáng kiến Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU). Nhật Bản thúc đẩy sáng kiến Cộng đồng châu Á phát thải ròng bằng “0”. Ấn Độ thúc đẩy sáng kiến Liên minh năng lượng mặt trời (ISA), Hiệp hội vành đai Ấn Độ Dương (IORA), Liên minh hạ tầng chống chịu thiên tai (CDRI), Liên minh nhiên liệu sinh học toàn cầu (GBA). EU khởi xướng sáng kiến Cổng kết nối Toàn cầu (Global Gateway). Đan Mạch thúc đẩy Sáng kiến Diễn đàn Đối tác về tăng trưởng xanh vì mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G). Xuất hiện nhiều cơ chế liên kết kinh tế mới, trong đó các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã đi trước WTO trong việc xây dựng một số khuôn khổ, quy tắc mới về thương mại quốc tế.

Nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ cũng đang thúc đẩy thành lập các cơ chế hợp tác ba bên, bốn bên mới về quốc phòng, an ninh, khoa học - công nghệ, chuỗi cung ứng, hoặc trong một lĩnh vực chuyên ngành cụ thể, như nông nghiệp, y tế, môi trường. Các mô hình hợp tác ba bên, bốn bên có thể là hình thức liên kết mang tính thể chế hóa cao, hoặc chỉ đơn thuần là những cơ chế đối thoại, dự án hợp tác chuyên ngành trên một lĩnh vực cụ thể. Trong đó, có thể kể đến “hợp tác Nam - Nam” và “hợp tác 2+1”, các cơ chế hợp tác, liên kết về chip bán dẫn (Liên minh CHIP4, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc)), khoáng sản, tài nguyên hiếm (Câu lạc bộ Khoáng sản thiết yếu - CRM), hợp tác ba bên giữa Liên minh châu Âu, một nước châu Phi và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) trong lĩnh vực nông nghiệp; hợp tác phát triển ba bên Trung Quốc - EU - châu Phi, Cộng đồng Kinh tế Borneo giữa In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin và Bru-nây...    

Đồng thời, các cơ chế hợp tác mới có thể ra đời, vận hành trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác đa phương truyền thống (như trường hợp Nhóm bạn bè về Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển - UNCLOS 1982 do Việt Nam khởi xướng và đồng sáng lập)(6) hoặc các sáng kiến mới nhằm bổ trợ cho hoạt động của các diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng (như Diễn đàn Tương lai ASEAN do Việt Nam khởi xướng và đăng cai tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội vào ngày 23-4-2024).

Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 15 các nhà lãnh đạo Nhóm BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) tại thành phố Johannesburg, Nam Phi, ngày 24-8-2023_Ảnh: AFP/TTXVN

Xu hướng tập hợp lực lượng tại các cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế đa phương mới và tác động đối với các quốc gia

Từ những đặc điểm lớn của hệ thống đa phương toàn cầu hiện nay, đặc biệt là sự xuất hiện của các cơ chế đa phương mới, có thể nhận định về xu hướng tập hợp lực lượng và tham gia các cơ chế đa phương như sau:

Thứ nhất, các thực thể và phương thức tập hợp lực lượng tại các cơ chế hợp tác đa phương ngày càng mang tính liên tổ chức, liên chủ thể, có sự phối kết hợp của nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và nhóm, cá nhân có vai trò, ảnh hưởng. Các hình thức tập hợp lực lượng tại các diễn đàn đa phương ngày càng linh hoạt, đa dạng, không bó hẹp trong các nhóm tập hợp “cứng” như giai đoạn trước đây. Một quốc gia có thể cùng lúc tham gia nhiều cơ chế hợp tác khác nhau với quy mô thành viên đa dạng, nội hàm hợp tác phong phú. 

Thứ hai, cùng với sự chuyển biến ngày càng rõ nét của cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc, các nước đang phát triển, các nước phương Nam với vị thế gia tăng(7) đang ngày càng có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn về lập trường, hành động để phát huy vị thế là “nhóm đa số” trong cộng đồng quốc tế. Đồng thời, các tập đoàn lớn (đặc biệt là các tập đoàn về công nghệ)(8), các thực thể phi nhà nước cũng tăng cường tương tác, tham gia vào hoạt động của các thể chế đa phương.

Thứ ba, cùng với việc hình thành các cơ chế đa phương mới, các tập hợp lực lượng xuất hiện nhiều hơn theo lĩnh vực cụ thể, tập trung vào giải quyết một hoặc một nhóm vấn đề và kết quả dựa trên lợi ích nguyên tắc chung và phù hợp với lợi thế quốc gia. Chủ đề, lĩnh vực hợp tác là rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, an ninh đến kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường. Điều này xuất phát từ việc thể chế hóa hợp tác tại các tổ chức đa phương truyền thống là quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, nguồn lực do phải có sự đồng thuận (hoặc đồng ý của đa số thành viên), trong khi phản ứng chính sách trên một lĩnh vực cụ thể hiện nay đòi hỏi tốc độ kết nối quyết sách, nguồn lực quốc tế nhanh nhạy, kịp thời. Đồng thời, hợp tác nhóm, “tiểu đa phương” không yêu cầu tính thể chế hóa cao, ít mang tính ràng buộc trong khi vẫn đáp ứng được lợi ích và tạo lợi thế bổ sung cho các bên tham gia, không bị giới hạn bởi không gian và phạm vi địa lý.

Những chuyển biến nói trên đang đặt ra cơ hội và thách thức đan xen đối với các quốc gia, nhất là các nước tầm trung và nước nhỏ trên các phương diện như sau:

Về mặt cơ hội: 1- Tham gia, đóng góp tích cực hơn vào quá trình cải tổ các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các thể chế, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các nước đang phát triển trong tiến trình liên kết và hội nhập quốc tế; 2- Nâng cao giá trị địa - chiến lược của quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng, tranh thủ hiệu quả và có chọn lọc nguồn lực từ hợp tác đa phương và các cơ chế hợp tác mới để phục vụ các mục tiêu an ninh và phát triển của quốc gia; 3- Tham gia từ sớm, từ đầu vào quá trình định hình khuôn khổ, “luật chơi” trong các lĩnh vực mới, nhất là các liên kết, hội nhập về số, chuyển đổi năng lượng, phát triển xanh, bền vững...; 4- Các cơ chế, sáng kiến hợp tác đa phương mới có thể bổ trợ cho các cơ chế đa phương truyền thống, góp phần giải quyết các vấn đề toàn cầu và củng cố quản trị toàn cầu theo hướng hiệu quả hơn. 

Về mặt thách thức: 1- Các cơ chế hợp tác mới có khả năng làm giảm quan tâm, đầu tư nguồn lực của các nước lớn dành cho các thể chế đa phương truyền thống, làm gia tăng nguy cơ mâu thuẫn, chia rẽ giữa các nước/nhóm nước, đồng thời có thể đưa ra các tiêu chuẩn, luật lệ mới, cạnh tranh vai trò, hiệu quả của các cơ chế đa phương truyền thống; 2- Sức ép “chọn bên” gia tăng gây khó khăn cho các nước tầm trung và nước nhỏ trong ứng xử tại các diễn đàn đa phương, nhất là liên quan đến sáng kiến tập hợp lực lượng trong các vấn đề nhạy cảm; 3- Thách thức về bỏ lỡ cơ hội hợp tác, nhất là trong các lĩnh vực mới, khuôn khổ mới nếu chậm tham gia vào các cơ chế hợp tác có mục tiêu định hình các khuôn khổ, “luật chơi” mới.

Về tổng thể, thuận lợi và thách thức là đan xen, trong đó các yếu tố thuận lợi và cơ hội phát triển vẫn nhiều hơn và tùy thuộc vào khả năng tranh thủ, thích ứng của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. 

Đề xuất một số phương hướng triển khai đối ngoại đa phương thời gian tới

Đối ngoại đa phương là một trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Trong những năm qua, công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được triển khai toàn diện, thực chất trên cơ sở quán triệt và bám sát Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030” (Chỉ thị số 25-CT/TW), góp phần quan trọng củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước giúp đối ngoại và ngoại giao “đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước...”(9).

Nổi bật là việc Việt Nam đã tham gia tích cực tại hơn 70 cơ chế, tổ chức đa phương quốc tế và khu vực (tính đến tháng 12-2023); hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với nhiều dấu ấn, sáng kiến(10); tham gia đóng góp tích cực vào hoạt động của APEC, ASEM, WTO, Tổ chức Pháp ngữ, Ủy hội sông Mê Công Quốc tế (MRC); thúc đẩy cử cán bộ vào làm việc tại các tổ chức quốc tế(11) và vận động Tòa trọng tài thường trực (PCA) đặt trụ sở tại Việt Nam; là một trong số những nước đầu tiên ký Hiệp định về Biển cả (BBNJ) và tham gia thiết lập Quan hệ đối tác về chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP)(12); tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025(13), lần đầu tiên tham gia cùng lúc 5 cơ chế quan trọng của UNESCO(14), tích cực chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh P4G lần thứ tư vào năm 2025. Mới đây nhất, ngày 23-4-2024, Việt Nam đã tổ chức thành công Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) với sự tham dự trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Xỏn-xay Xi-phan-đon (Sonexay Siphandone), Tổng Thư ký ASEAN Cao Kim Hơn (Kao Kim Hourn) cùng hơn 500 đại biểu Chính phủ, cơ quan đại diện ngoại giao, học giả, chuyên gia, các tổ chức quốc tế. Đây là sáng kiến quan trọng mà Việt Nam khởi xướng nhằm thúc đẩy vai trò trung tâm và đoàn kết của ASEAN, xây dựng Cộng đồng ASEAN lấy người dân làm trung tâm, thúc đẩy sự tương tác đa chiều giữa các nước ASEAN và các đối tác của ASEAN.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với các lãnh đạo doanh nghiệp ASEAN tham dự toạ đàm “Cộng đồng doanh nghiệp ASEAN, gắn kết, tự cường và bền vững: Nắm bắt thời cơ trong thời đại số” trong khuôn khổ Diễn đàn Tương lai ASEAN 2024 do Việt Nam tổ chức, ngày 23-4-2024, tại Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Ở trong nước, 5 đến 7 năm tới là giai đoạn bản lề, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đại hội XIII đề ra tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực nói chung và tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác đa phương nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, đối ngoại đa phương Việt Nam cần tiếp tục được triển khai đồng bộ, hiệu quả, toàn diện. Do đó, công tác đối ngoại đa phương cần tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, an ninh, quốc phòng, kinh tế - xã hội, trong đó có Nghị quyết số  34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII” và Chỉ thị số 25-CT/TW, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, củng cố cục diện đối ngoại rộng mở và thuận lợi cho phát triển đất nước.

Hai là, chú trọng đổi mới tư duy, định hướng tham gia các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu một cách có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với thế và lực của đất nước và mang lại hiệu quả thực chất.

Cần tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa đa phương với Liên hợp quốc đóng vai trò trung tâm, tăng cường phát huy vai trò trong ASEAN, các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công, đóng góp tích cực vào củng cố đoàn kết, vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đồng thời, phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm tại Liên hợp quốc và các cơ chế, diễn đàn quan trọng mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Tổ chức Thương mại thế giới, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, APEC, ASEM, phong trào Không liên kết, Tổ chức Pháp ngữ....

Với các sáng kiến, cơ chế hợp tác đa phương mới, cần đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu về chủ trương ứng xử, tham gia phù hợp với chủ trương và lợi ích của Việt Nam, đặc biệt là trên các lĩnh vực Việt Nam đang có ưu tiên, như chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng dụng khoa học - công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuỗi cung ứng, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước và các thách thức an ninh phi truyền thống khác. Đồng thời, tăng cường hiệu quả hợp tác của các cơ chế hợp tác ba bên, bốn bên mà Việt Nam là thành viên (như hợp tác Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia, Việt Nam - EU - một nước châu Phi về nông nghiệp).

Ba là, phát huy các kết quả quan trọng đã đạt được tại các thể chế đa phương, nghiên cứu thúc đẩy “thương hiệu” về đối ngoại đa phương mang tính dài hạn, đồng bộ và xuyên suốt ở các thể chế, diễn đàn, tạo nên bản sắc, dấu ấn bền vững cho đối ngoại đa phương Việt Nam giai đoạn tới, gắn kết chặt chẽ với đối ngoại song phương và hội nhập quốc tế của đất nước, hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia.    

Cần lan tỏa và phát triển đồng bộ các sáng kiến Việt Nam đã thúc đẩy thành công, như Diễn đàn Tương lai ASEAN và Nhóm bạn bè về UNCLOS, cùng với việc thúc đẩy các sáng kiến mới trên vấn đề, lĩnh vực mà Việt Nam có ưu tiên và thế mạnh, như chuyển đổi năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, hợp tác biển, phụ nữ, hòa bình và an ninh, hỗ trợ nhân đạo quốc tế, gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc...

Cần chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia định hình khuôn khổ, “luật chơi” trên các lĩnh vực hợp tác mới, thúc đẩy tính bổ trợ giữa tham gia các cơ chế hợp tác đa phương mới với tham gia trong các thể chế đa phương truyền thống. Đồng thời, nỗ lực hơn trong việc phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, trung gian hòa giải phù hợp với điều kiện và khả năng của Việt Nam.

Bốn là, tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính và con người cho công tác đối ngoại đa phương, tương xứng tiềm lực và vị thế của Việt Nam. 

Cần đẩy mạnh xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ ngang tầm khu vực và quốc tế về các vấn đề đa phương quan trọng, gắn sát với lợi ích của Việt Nam, xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể trong việc đăng cai các Hội nghị quốc tế lớn, ứng cử và đưa người vào các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, UNESCO..., trong đó chú trọng tăng cường đưa người ứng cử, đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo. Đồng thời, bố trí nguồn lực thích đáng cho công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và những thành tựu, sáng kiến của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương.

Năm là, tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành trong tham gia công tác đối ngoại đa phương.

Cần nâng cao chất lượng và tính chủ động trong nghiên cứu, dự báo, tham mưu liên quan đến xu thế toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, chiều hướng chính sách và tập hợp lực lượng tại cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực, các vấn đề toàn cầu và tiến trình thảo luận về quản trị toàn cầu, quá trình khởi xướng và thương lượng các khuôn khổ, “luật chơi” mới tại các diễn đàn đa phương. Đồng thời, tăng cường phối hợp, gắn kết giữa các bộ, ngành trung ương với địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để tìm kiếm lĩnh vực, đối tác hợp tác tiềm năng, tiếp tục phát huy phương châm “lấy địa phương, doanh nghiệp và người dân làm trung tâm phục vụ”, tranh thủ tối đa các điều kiện thuận lợi bên ngoài cho phát triển đất nước theo Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 10-8-2022, của Ban Bí thư, “Về ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030”./.

------------------------------

(1) Các cơ chế đa phương truyền thống này bao gồm các tổ chức, diễn đàn toàn cầu, như Liên hợp quốc - tổ chức đóng vai trò trung tâm và các tổ chức, diễn đàn, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Pháp ngữ, Phong trào Không liên kết; các tổ chức, diễn đàn khu vực, như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh châu Phi (AU), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),...
(2) Đạt hơn 2.440 tỷ USD năm 2023 (theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Xtốc-khôm - SIPRI)
(3) Tiến độ mới chỉ đạt 12% sau nửa chặng đường (2015 - 2023). Xem: “Progress towards the Sustainable Development Goals” (Tạm dịch: Báo cáo về tiến độ triển khai các Mục tiêu phát triển bền vững), General Assembly Economic and Social Council, tháng 5-2023, https://hlpf.un.org/sites/default/files/2023-04/SDG%20Progress%20Report%20Special%20Edition.pdf  
(4) Xem: Ursula Werther-Pietsch: “Dynamics and UN Reform from 1990 to 2030” (Tạm dịch: Động lực và cải cách Liên hợp quốc từ năm 1990 đến năm 2030), Global Power Shift, ngày 30-10-2021, https://pesquisa.bvsalud.org/global-literature-on-novel-coronavirus-2019-ncov/resource/pt/covidwho-1513952 
(5) Xem:  “BRICS Membership Expansion Guiding Principles, Standards, Criteria and Procedures” (Tạm dịch: Nguyên tắc, tiêu chuẩn, tiêu chí và thủ tục hướng dẫn mở rộng thành viên BRICS), BRICS 2023 Secretariat, ngày 23-8-2023, https://brics2023.gov.za/wp-content/uploads/2023/11/BRICS-Membership-Expansion-guiding-principles-criteria-and-standards-2023.pdf
(6) Nhóm bạn bè về UNCLOS do Việt Nam khởi xướng vào năm 2020 và đến nay có sự tham gia của 115 quốc gia, đại diện cho tất cả khu vực địa lý
(7) Các nước phương Nam có quy mô thị trường chiếm 88% dân số thế giới. Riêng các nước khối BRICS đã đóng góp 30% GDP toàn cầu 2030, tương đương các nước thuộc nhóm G7. Xem: Kishore Mahbubani: “Measuring the power of the Global South” (Tạm dịch: Đánh giá sức mạnh nội lực của các nước phía Nam bán cầu), Chatham House, ngày 21-3-2024, https://www.chathamhouse.org/publications/the-world-today/2024-02/measuring-power-global-south
(8) Xem: J. Clement: “Google, Amazon, Meta, Apple and Microsoft (GAMAM), Statistics & Facts (Tạm dịch: Google, Amazon, Meta, Apple and Microsoft (GAMAM), Thống kê và sự kiện), Statista, ngày 10-1-2024, https://www.statista.com/topics/4213/google-apple-facebook-amazon-and-microsoft-gafam
(9) Nguyễn Phú Trọng: “Tiếp tục đổi mới, xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại, vững mạnh toàn diện, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””, Tạp chí Cộng sản, số 1.028 (tháng 12-2023), tr. 10
(10) Thúc đẩy Liên hợp quốc thông qua Ngày Quốc tế Phòng chống dịch bệnh (27-12 hằng năm); thúc đẩy Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về bảo vệ hạ tầng thiết yếu trong bối cảnh xung đột vũ trang; thúc đẩy thành lập Trung tâm ASEAN ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi (ACPHEED)
(11) Như việc cử cán bộ làm việc tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, Văn phòng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc
(12) Huy động 15,5 tỷ USD cho giai đoạn 3 đến 5 năm tới để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng tại Việt Nam
(13) Hiền Hạnh: “Việt Nam cử thêm 4 sĩ quan tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc”, Báo Tin tức, ngày 22-2-2024, https://baotintuc.vn/quan-su/viet-nam-cu-them-4-si-quan-tham-gia-gin-giu-hoa-binh-lien-hop-quoc-20240222171730611.htm
(14)  Hội đồng chấp hành UNESCO (nhiệm kỳ 2021 - 2025), Ủy ban Di sản Thế giới (nhiệm kỳ 2023 - 2027), Phó Chủ tịch Đại hội đồng UNESCO Khóa 42, Phó Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Chính phủ Công nước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa