Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

         

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, chống phá đã tăng cường thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước ta với tần suất ngày càng nhiều, mức độ ngày càng cao, biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây ra những tác động tiêu cực và hậu quả khó lường, làm tổn hại đến tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó có hoạt động tuyên truyền phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nội dung quan trọng, quyết định sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta.

Các thế lực thù địch tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh với hai thái cực khác nhau: Một là, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống. Hai là, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản. Cả hai quan niệm này đều sai, vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống dân tộc và các giá trị tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những luận điểm sáo rỗng, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, thực tiễn, trực tiếp chỉ đạo thành công cách mạng Việt Nam.

Các thế lực thù địch đã đưa ra các luận điệu sai trái như: Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin, không hề có tư tưởng cao siêu; du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm là một sai lầm; tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do” là phi nhân tính. Chúng đưa lên mạng nhiều luận điệu xuyên tạc về cái gọi là “tác hại của tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Chúng còn xuyên tạc rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong khi chưa hiểu chủ nghĩa xã hội là gì. Lý luận về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh là “cực kỳ đơn giản đến nỗi người ta hỏi không biết đó có phải là chủ nghĩa xã hội macxit hay không? Và rằng “không thể đem cái thứ chủ nghĩa xã hội sơ sài không tưởng này đối chọi thắng lợi với chủ nghĩa tư bản phát triển được” hay “Hồ Chí Minh thực chất chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm phương tiện”…Bằng các luận điệu rời rạc, sai trái của mình, chúng hòng âm mưu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin; ngụy biện rằng hiện nay học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, bằng cách giải thích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc. Do đó, việc xây dựng những luận chứng khoa học để kịp thời phản bác, bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch và bảo vệ tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận của Đảng ta hiện nay.

          Chúng ta khẳng định rằng, không thể phủ nhận Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, nhân cách và giá trị tư tưởng của Người đã được UNESCO vinh danh, song thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình”, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội đã dùng danh nghĩa "phi chính phủ", “từ thiện” để lập một số quỹ hỗ trợ cho các tổ chức phản động chống phá, xuyên tạc về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh như Quỹ Đầu tư phát triển Mỹ (USAID), Quỹ Hỗ trợ dân chủ nhân quyền (NDI), Quỹ Quốc gia hỗ trợ dân chủ (NED), Việt Tân... Cùng với đó là việc bảo trợ cho các "loa truyền thông" như Trung tâm Asia, Chantroimoi media, Danlambao, Tiếng Dân News… thường xuyên đăng tải các thông tin, bài viết, phỏng vấn để bôi đen sự thật, trắng trợn xuyên tạc, vu cáo tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.

          Thông qua các trang mạng xã hội trên, những kẻ tự xưng là yêu nước, dân chủ và cả những người “có tiếng nói phản biện" ở trong và ngoài nước đã không chỉ bịa đặt, bôi đen một số thông tin về đời tư, về ngày sinh, về những người thân trong gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh, về nguồn gốc của Người nhằm hạ bệ thần tượng mà còn xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh khi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam; Hồ Chí Minh là nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là người cộng sản; Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh là tự biện, lý thuyết, giáo điều, sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, đã bị xóa bỏ nên không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay…

          Thâm độc hơn, là họ đã không từ một thủ đoạn nào để bôi xấu và tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, để khi thì đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, khi thì lại cho rằng Hồ Chí Minh không có tư tưởng vì đó là một nhà hoạt động thực tiễn. Cùng với đó, chúng còn có những chiêu bài tinh vi với vẻ bề ngoài là “đề cao” vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng thực chất là cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin.

          Các thế lực thù địch lập luận rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Điển hình là việc Hồ Chí Minh không bao giờ “bê nguyên xi” chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam mà đều có sự thay đổi. Do đó, các thế lực thù địch ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua chủ nghĩa Mác - Lênin” hay “chỉ cần chủ nghĩa Mác - Lênin là đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam”(1).

          Nhận thấy vị trí vững chắc không dễ gì lay chuyển được của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong trái tim và khối óc nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch cũng đã ra sức ngụy biện rằng “bây giờ chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin!”. Chủ ý của quan điểm này là sự đối lập, chia rẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phá vỡ từng mảng trong nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra sự xáo trộn trong ý thức hệ của nhân dân.

          Ngoài ra, các thế lực thù địch tung ra luận điệu: “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”(2).Thực chất của luận điệu này chính là muốn hướng lái dư luận hoài nghi về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Sâu xa hơn nữa muốn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, muốn Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, thực hiện đa nguyên, đa đảng, từ bỏ mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

          Có thể nhận thấy, luận điệu đối lập hay đòi tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch đi ngược lại lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Mưu đồ thâm hiểm mà chúng nhằm tới là xuyên tạc, phủ nhận và hạ bệ cả chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, “xem xét dưới góc độ phương pháp, việc tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nhận thức phiến diện, siêu hình, phi lôgic - lịch sử và không khoa học”(3)

          Thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả lịch sử và lôgíc từ sự kết hợp tự nhiên truyền thống yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam và cả các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành với những nguyên lý của học thuyết cách mạng, khoa học và hiện đại này; không giáo điều mà chính là nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học, cách mạng của nó để bổ sung, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới bằng thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Sự bổ sung và phát triển sáng tạo ấy thể hiện rõ trong quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chú trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; về xây dựng, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi; về xây dựng nhà nước kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa; về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên… trong tiến trình cách mạng Việt Nam hơn 9 thập niên qua.

          Hơn thế nữa, không phải tự nhiên Hồ Chí Minh lại nói chủ nghĩa Mác - Lênin không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường cho nhân dân các dân tộc bị áp bức, bóc lột tàn bạo dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; trong đó, có nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Bởi, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đăng trên báo L’Humanité, ngày 16 và 17/7/1920 và Người nhận thấy: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(4). Bởi, chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận chủ yếu, quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong 3 nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh (chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây; chủ nghĩa Mác - Lênin) và là thành tố quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà còn là hòn đá tảng, là cơ sở để Người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng Việt Nam phù hợp với yêu cầu của dân tộc và xu thế của thời đại.

          Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, cho nên, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, cũng không thể đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là càng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại. Thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ cội nguồn chính yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin và “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc" như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.

          Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, cho nên, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, cũng không thể đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là càng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vĩ đại của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội; giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với tiến trình cách mạng Việt Nam là không thể phủ nhận, bởi đó là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"(5).

          Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính chặt chẽ, liên tục, nhất quán, bao quát và toàn diện đúng như Đại hội IX (4/2001) của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(6).

          Trong Văn kiện Đại hội IX, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định gồm 9 nội dung cơ bản: 1) Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 2) Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 3) Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. 4) Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 5) Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 6) Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 7) Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. 8) Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 9) Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

          Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”(7) . Điều này tiếp tục được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” (8). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định: "Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh"(9)

          Trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch ngày càng tăng cường và đẩy mạnh hơn các chiến dịch, các thủ đoạn, các hình thức từ bên ngoài, câu kết và phối hợp với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở trong nước để chuyển tải, truyền bá các thông tin sai lệch, bịa đặt, vu khống, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, công khai tấn công vào những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, việc chủ động phòng và chống sự xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng trở nên bức thiết.

          Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, nhất là khi tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội. Thực tế, hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển; đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận; không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được minh chứng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in sâu trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người. Vì thế, việc tiếp tục giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi mà còn góp phần giữ vững bản chất của một Đảng chân chính, cách mạng.

          Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, kiên định và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, chúng ta cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

          Một là, mỗi cấp ủy đều phải nâng cao nhận thức và xác định rõ việc đấu tranh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài. Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn làm chuyển hóa chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch.

          Hai là, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới" gắn với Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Theo đó, đẩy mạnh và kịp thời phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin về chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời, chủ động đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng thiết thực, hiệu quả.

          Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng, các kênh thông tin khác, xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền sát hợp thực tế để chủ động đấu tranh, phòng, chống và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh; gắn với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Gắn tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần củng cố niềm tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh - cội nguồn sức mạnh, tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hành trình hướng đến tương lai.

          Bốn là, chú trọng xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh học từ đại học đến sau đại học, để đội ngũ cán bộ đó có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có năng lực nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tốt, góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các lực lượng nòng cốt, chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội; trở thành nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”./.

Văn hóa tri ân

 

Trong mỗi chúng ta lớn lên đều có một phần lịch sử, trong mỗi bước đi, mỗi thành quả đạt được hôm nay đều ghi dấu công lao của hàng vạn người trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, tháng 7 còn được gọi là “Tháng tri ân” với ngày kỷ niệm thiêng liêng của cả dân tộc - Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7).

Tính thuế thu nhập cá nhân sao cho phù hợp!

 

Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là loại thuế được tính trực tiếp trên thu nhập của người lao động, là khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp trong một phần tiền lương, hoặc từ các nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước sau khi đã được giảm trừ.

Vì sao không phát hiện được cán bộ yếu kém?

 Một trong những vi phạm phổ biến nhất trong công tác cán bộ đó là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Khi nguyên tắc tập trung dân chủ bị lợi dụng, biến thành “bình phong” cho những toan tính lợi ích cá nhân với sự giúp sức, hợp thức hóa của tổ chức thì rất nguy hại.

Đề cập đến thực trạng này, theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Việc vi phạm các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ đang diễn ra khá phổ biến, nghiêm trọng trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ ở nhiều tổ chức đảng hiện nay. Biểu hiện trước tiên là việc góp ý, giới thiệu nhân sự trong tổ chức đảng trở nên hình thức, thiếu thực chất.

Tình trạng thảo luận xuôi chiều, thiếu tranh luận, thiếu phản biện... để tìm ra nhân sự đáp ứng các tiêu chí “hiền, tài”. Thay vào đó, việc áp đặt ý kiến chỉ đạo của các đồng chí chủ trì cấp ủy, thiếu sự trao đổi của các thành viên cấp ủy chưa được khắc phục. Không ít cấp ủy viên, đảng viên khi thảo luận thì không dám thể hiện chính kiến của mình để bảo vệ cán bộ tốt, cán bộ uy tín. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bố trí, bổ nhiệm con, em, người thân của lãnh đạo các cấp chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào những vị trí quan trọng; dẫn tới nguy cơ tạo ra những “ê kíp” cán bộ vận động theo hướng tiêu cực và tạo nên “trào lưu” cán bộ, đảng viên tìm mọi cách chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền...

Theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc: Việc tổ chức đảng mất sức chiến đấu là hết sức nguy hại. Nhưng đau lòng hơn, quan ngại hơn là tình trạng ngay chính trong nội bộ ban thường vụ, cấp ủy hoặc nội bộ tổ chức lại có những cá nhân ngầm “bắt tay nhau” vì lợi ích nhóm. Với uy quyền và điều kiện sẵn có, một số cán bộ, đảng viên cố tình kéo bè kéo cánh, cùng thực hiện những “thương vụ” trong quá trình tiến hành công tác cán bộ.

Bàn về thực trạng nêu trên, PGS, TS Lê Quang Phi (thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội) khẳng định: Dù BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hệ thống quy định, cơ chế đồng bộ, toàn diện, tạo nên sự ràng buộc về mặt pháp lý khá chặt chẽ, nhưng con người thực hiện mới là nhân tố quyết định hiệu quả của chủ trương. Một khi nội bộ tổ chức đảng, tập thể cơ quan, đơn vị, địa phương không tự giác thực hiện đầy đủ, cố tình bao che, che chắn cho nhau thì cơ quan và tổ chức đảng cấp trên cũng rất khó phát hiện, thực thi hiệu quả.

Từ những vụ việc xảy ra trong thời gian qua cho thấy, đã có một số tổ chức, địa phương, ban, ngành cố tình bỏ qua hoặc vận hành sơ sài, chiếu lệ, đối phó trong tiến hành công tác quy hoạch cán bộ; nhất là việc thực hiện các quy trình, tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ, lựa chọn nhân sự bổ nhiệm hoặc bầu vào các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, Nhà nước. Một số ban thường vụ, BCH đảng bộ cấp tỉnh, huyện (và tương đương) có triển khai nhưng làm chưa đầy đủ, chưa tròn trách nhiệm; có nơi đánh giá cán bộ cảm tính, áp đặt, chưa toàn diện mà chủ yếu dựa vào tiêu chí bằng cấp... dẫn đến những quyết định sai lầm trong lựa chọn, quy hoạch, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Không ít trường hợp cán bộ đã vào quy hoạch là cứ thế phát triển với một bộ hồ sơ rất đẹp...

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng đến nay cho thấy, ở một số đảng bộ vẫn diễn ra thực trạng, nhân sự chọn ai hoàn toàn thuộc vào ý chí chủ quan của những người nắm quyền quyết định, tức là lạm quyền trong công tác cán bộ. Trong khi đó, các quy trình, thủ tục được tiến hành xem ra chỉ là cách hợp lý hóa, hợp thức hóa quyết định nhân sự của người nắm quyền lực và cũng là tấm khiên, tấm mộc để đối phó với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cấp có thẩm quyền.

Phải chăng công tác giám sát, kiểm soát quyền lực đang được vận hành yếu kém, hay có những vướng mắc khách quan? Những vấn đề này cần được làm sáng tỏ và phải sớm sửa chữa triệt để thì công tác cán bộ nói chung, công tác quy hoạch cán bộ nói riêng mới đi vào thực chất, hiệu quả.

Bắt đúng trọng bệnh để kê thuốc đặc hiệu

 Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ là việc gốc, việc then chốt của Đảng nên đặc biệt chăm lo, tập trung hoàn thiện nguyên tắc, thủ tục, quy định, quy trình về công tác cán bộ. Sự phát triển của đội ngũ cán bộ và thành tựu của công tác cán bộ giúp đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ là các vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm.

Gốc hỏng thì cây chết!

Với tinh thần thẳng thắn, Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XII và khóa XIII đã chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm trong công tác thẩm tra, đánh giá cán bộ. Chính từ những hạn chế đó dẫn đến tình trạng để lọt vào BCH Trung ương những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. Đây là những khuyết điểm rất lớn, cần sớm được ngăn chặn, đẩy lùi. 

Việc chống chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền là vấn đề được Trung ương và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp hết sức quan tâm, quyết liệt triển khai thực hiện với nhiều giải pháp căn cơ, đồng bộ, toàn diện. Quyết liệt bởi đây là mối nguy hại rất lớn đối với sự tồn vong của Đảng, gây quấy nhiễu, bẩn đục công tác cán bộ. Và khi gốc bị hỏng thì tất yếu cây sẽ chết! Chất lượng đội ngũ cán bộ quyết định sự thành-bại của sự nghiệp cách mạng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng răn dạy: Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.

Khi cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực, thậm chí vi phạm kỷ luật mà vẫn lọt vào quy hoạch sẽ gây hại cho tổ chức, cho công việc. Họ không có đủ tâm và tầm, cũng không hành động vì lợi ích chung, nên việc gì cũng thu vén cho cá nhân và lợi ích nhóm. Họ biến chức tước trở thành một thứ hàng hóa đặc biệt để đầu tư, kiếm lời. Cũng bởi thế họ sẽ cố kết, tìm mọi cách khởi xướng việc “mua quan bán chức” trong Đảng và hệ thống chính trị; sinh ra thế hệ cán bộ kế cận, kế tiếp cũng phấn đấu thăng tiến bằng chính con đường ấy. Từ đó mà công tác đánh giá cán bộ trở nên hình thức, đánh mất bản chất; các khâu, các bước, quy trình của công tác cán bộ chỉ còn là hình thức.

Sống, làm việc trong bầu không khí chính trị và môi trường ấy, không ít cán bộ tốt sẽ bị ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, lý tưởng, tình cảm, động cơ phấn đấu; sinh ra chán nản, nhụt ý chí, thiếu niềm tin vào tổ chức. Chính điều đó kéo lùi chất lượng đội ngũ cán bộ, ngăn cản những bước tiến của sự nghiệp cách mạng. Lâu dần, người dân sẽ mất niềm tin vào đội ngũ cán bộ và vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, kịp thời nhận diện, chấn chỉnh những mảng tối trong công tác quy hoạch cán bộ là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Giúp dân thoát nghèo bằng sự trân trọng và cảm thông

 

Tại Kỳ họp thứ 17 của HĐND tỉnh Bắc Ninh diễn ra mới đây, một trong những nội dung của kỳ họp được nhiều đại biểu thảo luận sâu kỹ, nhân dân rất đồng tình, đó là cần có chính sách đặc thù hỗ trợ đối tượng thuộc hộ không có khả năng thoát nghèo ổn định cuộc sống, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu đến năm 2025 tỉnh không còn hộ nghèo.

Để đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” là trách nhiệm, tình cảm từ trái tim của các thế hệ người Việt Nam

 Những thành tựu trong thực hiện chính sách và phong trào đền ơn, đáp nghĩa góp phần khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; thể hiện sự quan tâm, tình cảm, trách nhiệm đối với người đã cống hiến, đóng góp, hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc, tô đậm thêm truyền thống nhân văn, nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Đồng thời, những thành tựu đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị - xã hội để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc, chăm lo người có công với cách mạng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ chuyển lại cho chúng ta(1). Trong suốt 77 năm qua, thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được kết tinh thành nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để tri ân, giáo dục các thế hệ người Việt Nam hiện nay và thế hệ mai sau, cả trong và ngoài nước, có ý thức trách nhiệm, phấn đấu vươn lên để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc(2); “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”(3).

Các chính sách ưu đãi đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được Nhà nước ban hành, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện để thể chế quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về ưu đãi người có công với cách mạng; chuẩn hóa điều kiện, tiêu chuẩn xem xét công nhận người có công với cách mạng; góp phần chăm lo, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công(4). Với việc ban hành và triển khai toàn diện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trong giai đoạn 2012 - 2022, ngân sách nhà nước được bố trí 357.373 tỷ đồng để thực hiện tăng mức chuẩn trợ cấp người có công bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn hộ nghèo khu vực thành thị. Trong năm 2023, đã trợ cấp thường xuyên cho trên 1,13 triệu người có công với cách mạng, với kinh phí 29 nghìn tỷ đồng; gần 3,4 triệu đối tượng bảo trợ xã hội và gần 355 nghìn hộ gia đình, cá nhân được nhận chăm sóc, nuôi dưỡng hằng tháng... Trong quý I-2024, các địa phương trong cả nước đã thực hiện chi trả trợ cấp cho 1.054.953 người có công với cách mạng, với kinh phí khoảng hơn 8,05 nghìn tỷ đồng(5). Mới đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2021/NĐ-CP quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng từ 2,055 triệu đồng lên 2,789 triệu đồng nên kinh phí thực hiện trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng trong năm 2024 là 35.629 tỷ đồng. Để tặng quà nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2024), Chủ tịch nước đã ký Quyết định tặng quà cho 1.371.586 người, với tổng kinh phí để tặng quà cho người có công là 419.646 triệu đồng. Việc thực hiện nhanh chóng, kịp thời chính sách của Nhà nước đã góp phần nhanh chóng tạo ra sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế và xã hội; sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và bản thân người có công với cách mạng; tác động sâu sắc đến toàn xã hội, cùng với Nhà nước chăm lo người có công với cách mạng, phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Đây là các chính sách đột phá, tác động tích cực đến đời sống của hàng triệu người có công, thân nhân của người có công với cách mạng.

Hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã tích cực vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các phong trào “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, “Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”, “Người chiến sĩ Công an nhân dân thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ”, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng, qua nhiều hoạt động thiết thực, như “Tặng nhà tình nghĩa”, “Tặng sổ tiết kiệm”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng”, “Chăm sóc vườn cây tình nghĩa”, “Đi tìm đồng đội”, “Quy tập hài cốt về nghĩa trang”, “Trồng cây xanh trong các khu mộ liệt sĩ”, “Thương binh tàn nhưng không phế”...  Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao, thu hút sự tham gia của toàn xã hội. Các phong trào phát triển sâu rộng, được xã hội đồng tình, hưởng ứng; qua phong trào đã xuất hiện nhiều tổ chức và tấm gương tiêu biểu trong mọi tầng lớp nhân dân đóng góp các nguồn lực ủng hộ quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”(6). Đồng thời, cá nhân được hưởng chính sách cũng đã tự vượt lên theo tinh thần “tàn nhưng không phế”, không ỷ lại, đòi hỏi Nhà nước; tận tâm cống hiến sức lực còn lại để vươn lên ổn định cuộc sống. Việc xây dựng, nâng cấp, tu bổ phần mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ được quan tâm đầu tư; công tác tìm kiếm, quy tập, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực, hiệu quả, làm ấm lòng hương hồn các liệt sĩ và góp phần giảm bớt nỗi đau cho những người ở lại(7)

Một số định hướng, giải pháp cần tập trung thực hiện

Trong giai đoạn hiện nay, để việc tiếp tục thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” là trách nhiệm, tình cảm từ trái tim của các thế hệ người Việt Nam, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, hệ thống chính trị các cấp cần tập trung thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công; tích cực thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, coi đây là trách nhiệm, đạo lý để đền đáp sự hy sinh to lớn của thế hệ cha anh; là hành động thiết thực nhằm tiếp tục phát huy lòng bác ái, hiếu nghĩa, truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời kỳ mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; mở rộng hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến bộ đội Việt Nam hy sinh, mất tích trong chiến tranh, phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Đồng thời, thường xuyên quan tâm gần gũi, lắng nghe, chia sẻ, động viên, tạo mọi điều kiện để người có công tiếp tục phát huy ý chí tự lực, tự cường, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và tham gia các hoạt động xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước. 

Hai là, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện tốt hơn nữa chính sách, pháp luật đối với người có công, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn với tinh thần không để người có công nào không được hưởng chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, trọng tâm là địa bàn trong nước; tập trung rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ; kết luận địa bàn, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên phạm vi toàn quốc; xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin bằng phương pháp thực chứng và giám định ADN. Tập trung tu bổ, sửa chữa nâng cấp nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia tưởng niệm, công trình ghi công liệt sĩ. 

Ba là, nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào “Cung cấp thông tin mộ liệt sĩ” trên phạm vi cả nước của đồng đội liệt sĩ, đồng bào đang làm ăn, sinh sống ở nước ngoài, hội cựu chiến binh các cấp; triệt để khai thác các nguồn thông tin lưu trữ; làm tốt công tác phối hợp, nâng cao hiệu quả xác định danh tính hài cốt liệt sĩ... Tích cực đổi mới phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” theo hướng phát triển mô hình hay, việc làm tốt, mang lại hiệu quả thiết thực, vận động tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân cùng tham gia xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ở các cấp với nhiều hình thức phong phú phù hợp với khả năng, điều kiện thực tế, như “Xây Nhà tình nghĩa”, tặng “Sổ tiết kiệm tình nghĩa”, “Phụng dưỡng các Mẹ Việt Nam Anh hùng”... Tổ chức thăm hỏi, động viên đối tượng người có công tại các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng thương bệnh binh và gia đình chính sách tiêu biểu,... góp phần bù đắp thiệt thòi của người có công và gia đình có công với cách mạng. Đồng thời, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến làm tốt phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” và đối tượng chính sách có nhiều cố gắng vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, học tập, công tác... trên từng địa bàn và cả nước. 

Bốn là, chấn chỉnh, xử lý tập thể và cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm, tiêu cực, làm không đúng chế độ, chính sách đã ban hành. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách vì chế độ, chính sách này không chỉ mang tính nhân văn sâu sắc, mà còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực, giải quyết dứt điểm khiếu nại của các đối tượng chính sách, không để tích tụ, kéo dài./.

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGOẠI TRƯỞNG HOA KỲ ANTONY BLINKEN THẮP HƯƠNG VÀ CHIA BUỒN VỚI GIA ĐÌNH TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

     Tối ngày 27/7, tại căn nhà của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nằm trên phố Thiền Quang, Hà Nội, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken cùng phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng thống Biden cử đã đến thắp hương viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và chia buồn với Phu nhân Ngô Thị Mận cùng gia quyến của Tổng Bí thư!
Ngoại trưởng Blinken chuyển lời chia buồn của Tổng thống Joe Biden tới Phu nhân Ngô Thị Mận và gia đình trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Ngoại trưởng Blinken nhấn mạnh các lãnh đạo, quan chức Chính quyền Hoa Kỳ cũng như cá nhân Tổng thống Biden luôn coi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một người bạn, là đối tác tin cậy. Với tầm nhìn và dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, tình hữu nghị và quan hệ giữa hai nước đã được vun đắp và phát triển mạnh mẽ vượt bậc, đạt tầm mức cao nhất là quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện như ngày nay.
Nhấn mạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là hình mẫu trong việc hàn gắn giữa hai nước cũng như là người góp phần xây dựng cầu nối giữa nhân dân hai nước, Ngoại trưởng Blinken khẳng định Tổng thống Biden, Chính phủ và Nhân dân Hoa Kỳ sẽ luôn ghi nhớ và tôn vinh di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với những tình cảm và kỷ niệm tốt đẹp về một người đã tạo nên những dấu ấn lịch sử cho mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước.
Thay mặt gia quyến, Phu nhân Ngô Thị Mận bày tỏ xúc động trước những tình cảm tốt đẹp của phía Hoa Kỳ, cá nhân Tổng thống Biden và Ngoại trưởng Blinken đã dành cho Tổng Bí thư. Phu nhân chia sẻ, khi còn sống, Tổng Bí thư đã dành sự quan tâm, vun đắp cho mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ; đã cùng Tổng thống Biden ra Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa kỳ lên Đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 9/2023. Phu nhân tin tưởng hai bên sẽ tiếp tục thực hiện hiệu quả Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ tháng 9/2023 để thúc đẩy và đưa quan hệ hợp tác hai nước ngày càng phát triển tốt đẹp, thực chất và đi vào chiều sâu, vì lợi ích nhân dân hai nước.

Nhân dịp này, Phu nhân Ngô Thị Mận đã gửi lời cảm ơn chân thành và lời chúc sức khỏe tới Tổng thống Biden, Phu nhân và gia đình./.


Yêu nước ST.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà Lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một trí tuệ lớn, tài năng lớn của cách mạng Việt Nam, nhà tư tưởng, nhà văn hóa, ngọn cờ lý luận của Đảng, người học trò xuất sắc không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, sống trọn cuộc đời vì nước, vì dân.

Trên 55 năm hoạt động liên tục, được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, với tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc bén, gắn kết chặt chẽ với tổng kết thực tiễn, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; bổ sung, hoàn thiện và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày hôm nay.”

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, công tác Đảng và xây dựng Đảng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã đi sâu làm rõ bản chất của Đảng, vai trò của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, về xây dựng Đảng cầm quyền từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.

Từ đó, đồng chí đã cùng Ban Chấp hành Trung ương hoạch định và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái, hư hỏng trong Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực đi đôi với không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, bản lĩnh, trình độ trí tuệ, tính tiên phong, phát huy truyền thống tốt đẹp, mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, xây dựng xã hội thực sự “là đạo đức, là văn minh.”

Trên cương vị Chủ tịch Quốc hội và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí luôn đau đáu với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, vì Nhân dân, do Nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đặt mục tiêu “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”(1).

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, ý thức sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc,” “Văn hóa còn thì Dân tộc còn,” Nhà văn hóa Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo xuất sắc trên mặt trận văn hóa của Đảng đã dành nhiều tâm huyết xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập toàn diện, sâu sắc lĩnh vực văn hóa; Hội nghị toàn quốc về văn hóa của Đảng sau hơn 70 năm là dấu mốc gắn kết tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy mạnh mẽ vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Với nhãn quan chính trị sâu sắc và tầm tư duy chiến lược, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng phát triển tư duy đối ngoại Việt Nam, tổng kết thực tiễn và hình thành nghệ thuật “Ngoại giao cây tre”; xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam.”

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bản sắc “Ngoại giao cây tre” được phát huy mạnh mẽ, tạo những bước ngoặt có tính lịch sử, thay đổi về chất trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác lớn. Chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam là đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay và cũng chưa bao giờ Việt Nam lại hòa nhập sâu rộng như hiện nay vào nền kinh tế thế giới, nền chính trị quốc tế và nền văn minh nhân loại.

Thời kỳ kiêm nhiện chức danh Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; chăm lo xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh, đoàn kết gắn bó.

Đồng chí thường xuyên căn dặn lực lượng vũ trang phải thấm nhuần, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, lấy “Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất,” hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, “dựa vào dân mà làm việc,” “phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân,” gắn bó mật thiết với nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân, phải làm cho dân ngày càng tin hơn, giúp đỡ nhiều hơn.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh, thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới đạt nhiều kết quả quan trọng; lực lượng Công an, lực lượng Quân đội đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, thực sự là thanh kiếm và lá chắn, hai cánh của một con chim, bảo vệ giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Xuyên suốt trong tư tưởng của đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Nhân dân, là con người, là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, xây dựng con người, lấy Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới.

Về Đảng, đồng chí khẳng định “Đảng ta phải có trách nhiệm cao nhất với dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân”(2); “đường lối của Đảng mà không phản ánh được lợi ích của Nhân dân, của đất nước, của dân tộc, không phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, là đường lối sai lầm”(3), “liên hệ chặt chẽ với nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng”(4).

Phân tích sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa, đồng chí nêu rõ “Nhà nước pháp quyền XHCN về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”(5).

Về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đồng chí khái quát “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước ta là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(6), “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội…, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ.”

Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Đảng ta đã ban hành các Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Sáu vùng kinh tế trên cả nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, hoạch định mục tiêu, tầm nhìn, phương hướng, giải pháp nhằm tạo sự phát triển mạnh mẽ, đột phá, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thực hiện ước vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu.

Trọn cuộc đời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã bền bỉ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta bằng một tinh thần, ý chí thép, không lùi bước trước những trở ngại, khó khăn; khẳng định một nhân cách lớn, coi “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất,” giữ vững nguyên tắc, sống trọn cuộc đời vì nước, vì dân. Đồng chí thực sự là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức cách mạng trong sáng, “chí công vô tư,” lối sống giản dị, phong cách làm việc dân chủ, tận tụy, khoa học, tôn trọng và yêu thương con người..., được cán bộ, đảng viên và nhân dân kính trọng, tín nhiệm cao, tin tưởng và yêu quý, được bạn bè quốc tế trân trọng và đánh giá cao.

Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng; kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, xây dựng Đảng ta và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát triển nhanh, bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 khi Đảng ta tròn 100 năm thành lập, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2045, hoàn thành mục tiêu 100 năm thành lập nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.

 

 

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc

 

Xúc động trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiều trí thức Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc) đã chia sẻ những tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ đối với nhà lãnh đạo đáng kính của Việt Nam - người luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Tiến sĩ Lê Trọng Nghĩa, Phó chủ tịch Mạng lưới Đổi mới sáng tạo và Trí thức Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc) khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng rất kiên quyết trong cuộc chiến chống tham nhũng, giúp nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước.

Những chính sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn hướng đến việc cải thiện đời sống của người dân, từ giáo dục, y tế cho đến an sinh xã hội. Bên cạnh đó, những chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người Việt Nam ở nước ngoài dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giúp kiều bào cảm thấy gần gũi hơn với quê hương và đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Việc tổ chức các sự kiện văn hóa, kêu gọi đầu tư và hỗ trợ giáo dục đã giúp gắn kết kiều bào với đồng bào trong nước, tạo nên một sự đoàn kết mạnh mẽ.

Tiến sĩ Lê Trọng Nghĩa cho biết, cộng đồng người Việt tại Đài Loan (Trung Quốc) rất ngưỡng mộ và yêu mến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đánh giá cao những nỗ lực của Tổng Bí thư trong công cuộc chống tham nhũng và nâng cao uy tín của Việt Nam. Tình cảm của cộng đồng dành cho ông thể hiện qua sự ủng hộ và tham gia tích cực vào các hoạt động hướng về quê hương, cũng như niềm tự hào về những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư.

Trong khi đó, Nghiên cứu sinh Trần Bảo Huy tại Đại học Hải Dương đánh giá, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo xuất sắc, trọn đời vì nước vì dân. Trong suốt 13 năm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đời sống vật chất của người dân Việt Nam được cải thiện. Bên cạnh đó, Tổng Bí thư còn đặc biệt quan tâm và dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc.... Văn hóa còn thì dân tộc còn...” - đây là kim chỉ nam quan trọng, định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc; bảo vệ văn hóa truyền thống là bảo vệ nền tảng tinh thần và bản sắc của dân tộc, góp phần vào sự phát triển của đất nước Việt Nam phồn vinh, giàu đẹp, đời sống nhân dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc.

Theo bạn Trần Bảo Huy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Trong những chuyến công du nước ngoài, Tổng Bí thư luôn dành thời gian nói chuyện và động viên cộng đồng kiều bào, du học sinh đang sinh sống, lao động và học tập tại nước ngoài nhằm tăng thêm tính gắn bó, đoàn kết - thể hiện sự coi trọng không chỉ của cá nhân Tổng Bí thư mà còn của Đảng ta tới cộng đồng hơn 6 triệu người đang ở nước ngoài, một phần máu thịt không thể tách rời của Việt Nam; hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển và hòa nhập xã hội sở tại, giúp kiều bào tiếp tục nâng cao tự hào, tự tôn dân tộc và hướng về cội nguồn, đồng thời có chính sách phù hợp để đồng bào đóng góp hiệu quả vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Không chỉ vậy, thông qua các cuộc gặp, hội đàm với lãnh đạo các quốc gia trong những chuyến công du nước ngoài, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đề cập và bày tỏ mong muốn cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài sẽ được tạo điều kiện thuận lợi trong học tập, làm việc để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội không chỉ của nước sở tại, mà còn là sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Là một đảng viên trẻ, một người con Việt Nam đang học tập và sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), bạn Trần Bảo Huy chia sẻ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn là tấm gương sáng để noi theo về tư tưởng đạo đức, suy nghĩ và hành động. Khắc ghi lời dạy của đồng chí Tổng Bí thư: “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”, bạn Trần Bảo Huy luôn áp dụng trong từng suy nghĩ, từng hành động của mình, để phát huy hình ảnh con người Việt Nam tốt đẹp trong mắt bạn bè quốc tế.

Đông đảo các bạn nghiên cứu sinh, sinh viên trong Hội Sinh viên Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc) đã đến viếng và ghi sổ tang tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc.

Theo bạn Trần Bảo Huy, với tác phong giản dị, gần gũi, khiêm tốn, chân thành, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại ấn tượng sâu sắc với bà con kiều bào, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ vẫn đồng hành cùng dân tộc trong mỗi chặng đường phía trước và sẽ luôn ở trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh

 Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở bất cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, từ khi còn là một cán bộ trẻ cho đến khi giữ cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu, trăn trở với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Đặc biệt, với trọng trách là Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, với nhiều quan điểm, chủ trương hết sức quan trọng, có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn, nhân ái, đầy sức thuyết phục của người đứng đầu Đảng ta.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, nghiêm minh nhưng rất nhân văn và sự mẫu mực về đạo đức cách mạng, sự nhất quán giữa nói và làm, làm đi đôi với nói của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành rất quyết liệt, bài bản, toàn diện, đi vào chiều sâu, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, để lại dấu ấn sâu đậm trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn bè quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu về phẩm chất, tài năng, trí tuệ, bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, suốt đời vì nước, vì dân đã vĩnh biệt chúng ta, nhưng những tư tưởng, quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư mãi mãi là “kim chỉ nam” cho hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Hơn bao giờ hết, các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là việc làm cần thiết, tất yếu, là xu thế không thể đảo ngược; phải tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, với quyết tâm cao, hành động cụ thể, quyết liệt và “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy lý luận sắc bén, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, nó diễn ra trong nội bộ chúng ta, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; phòng chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình, liên quan đến lợi ích vật chất, tiền tài, chức vụ, danh dự, uy tín của tổ chức và cá nhân con người; đụng chạm đến những người có chức, có quyền.

Đảng, Nhà nước ta đã thấy sớm và đã chỉ đạo làm nhiều lần, làm quyết liệt, nhưng còn nhiều việc phải làm và còn phải làm lâu dài, quyết liệt hơn nữa, với quyết tâm cao hơn nữa, bền bỉ, kiên trì, không thể nóng vội. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu không được chủ quan, nóng vội, nhưng cũng không được né tránh, cầm chừng, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không được chững lại, hay chùng xuống trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Ngay cả khi đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, đồng chí cũng lưu ý: Ban Chỉ đạo không phải là “một chiếc đũa thần” có thể xoay chuyển ngay được tình hình. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở chúng ta phải nhận thức sâu sắc về nguy cơ, tác hại của tham nhũng, nó làm tê liệt sức chiến đấu, tổn thương thanh danh, xói mòn uy tín của Đảng, làm biến chất Đảng, không chỉ làm mất tiền, mất của, mà còn mất người, mất chế độ.

Do đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực: một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược” (1), khó mấy cũng phải tìm mọi cách để làm, làm cho bằng được, làm đến cùng, “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm” (2).Đồng chí Tổng Bí thư tin tưởng rằng, nếu tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều có quyết tâm lớn, có sự thống nhất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại, thì tham nhũng, tiêu cực nhất định sẽ được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi. Và khi “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” .

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân cơ bản của tham nhũng; phải gắn phòng chống tham nhũng với phòng chống tiêu cực; gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội

Cùng với nhận diện bản chất và tác hại của tham nhũng, đồng chí Tổng Bí thư cũng chỉ rõ các nguyên nhân khách quan, chủ quan nảy sinh tham nhũng và khẳng định chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta. Trong đó, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.

Đây mới là cái gốc, cái nguy hiểm nhất dẫn đến tham nhũng; ngược lại tham nhũng tác động làm cho tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trầm trọng hơn. Vì vậy, phải gắn phòng chống tham nhũng với phòng chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nếu chỉ phòng chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ; tiền bạc, tài sản có thể thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả; phòng, chống tiêu cực tức là trị tận gốc của tham nhũng.

Đồng thời, Tổng Bí thư yêu cầu, phải gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; không phải đóng cửa để chỉnh đốn Đảng; vấn đề căn cơ trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là phòng ngừa từ sớm, từ xa, mà trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; phải đặc biệt quan tâm, chú trọng công tác cán bộ.

Nhất quán phương châm không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn, trị bệnh cứu người

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I.Lênin đã chỉ rõ phải “trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn” những đảng viên cộng sản tham nhũng, thậm chí phải “trừng phạt nặng hơn gấp ba lần” những người ngoài đảng(3); Chủ tịch Hồ Chí Minh đã y án tử hình đối với Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu là một điển hình về tính nghiêm minh trong xử lý tham nhũng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định:

Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để trị bệnh cứu người, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính. Từ đó đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên quyết xử lý nghiêm khắc những hành vi tham nhũng, tiêu cực, nhưng phải có lý, có tình, nhân văn, nhân ái, với nguyên tắc:

Mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở bất cứ cương vị công tác nào sai phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào; có vụ việc thì phải xác minh làm rõ; tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó, có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật; vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.

Quá trình xử lý phải tiến hành đồng bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng thực hiện trước, tạo tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng nghiêm hơn xử lý theo pháp luật. Không chỉ xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, mà còn xử lý nghiêm cả những người dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; người lợi dụng chống tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc, kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước. Đồng thời, trong chỉ đạo xử lý tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư luôn yêu cầu việc xử lý phải nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn:

Phải phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng; trong xử lý phải quán triệt đúng đắn các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phân hóa giữa người sai phạm vì động cơ cá nhân, vụ lợi với người sai phạm không có động cơ cá nhân, vụ lợi; phải truy tố, xét xử vắng mặt những kẻ phạm tội đang bỏ trốn, theo pháp luật; việc xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của Nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm.

Đây là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; được các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, mang lại hiệu quả rõ rệt trong thực tế, tạo bước đột phá mới, là điểm sáng, dấu ấn nổi bật trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua.

Gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với kiểm soát quyền lực, “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” thể chế

Quyền lực luôn luôn có nguy cơ bị “tha hóa”, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Do vậy, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư là phải kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực, để đảm bảo quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, theo đúng nguyên tắc: Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn; lợi dụng, lạm dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý nghiêm minh.

Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu: Cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật; bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của Nhân dân.

Công quỹ là của công, cho nên một xu, một hào cũng không được chi dùng bừa bãi; công quyền là vì dân cho nên không được mảy may vì riêng tư; phải thật sự chí công vô tư, công tư phân minh, công trước tư sau, vì công mà quên tư; mọi việc đều xuất phát từ dân, vì dân. Tuyệt đối không được lạm dụng, lợi dụng quyền lực, không được cậy có quyền, uốn thẳng thành cong.

Đối với người được giao chức vụ, quyền hạn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa. Về phía cơ quan, tổ chức, phải quan tâm siết chặt kỷ cương, dùng kỷ luật nghiêm minh và giám sát nghiêm khắc để cán bộ, đảng viên biết giữ gìn, nhớ điều cấm, giữ giới hạn; phải tăng cường giám sát, kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn; trong công tác cán bộ và các lĩnh vực chuyên môn sâu, khép kín, bí mật thì càng phải chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, nhất là kiểm tra, giám sát từ bên ngoài; đồng thời, phải công khai quy trình sử dụng, thực thi quyền lực theo pháp luật để cán bộ, nhân dân giám sát.

Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế về kiểm soát quyền lực; phải thiết lập cho được cơ chế để nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực thật sự có hiệu lực, hiệu quả; phải “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế.

Kiểm soát quyền lực, thực hành liêm chính và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực là những cơ quan được giao nhiều quyền lực, hoạt động có nhiều đặc thù, tính chất phức tạp, bí mật; thường xuyên đối mặt với những tiêu cực trong xã hội, khiến cán bộ, công chức dễ bị sa ngã, mua chuộc. Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu, hơn ai hết, các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực và đội ngũ cán bộ làm công tác này phải liêm, phải sạch; không thể “Chân mình còn lấm bê bê, Lại cầm bó đuốc đi rê chân người” (4).

Do vậy, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư đặt ra những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm, bản lĩnh, với lời dặn vô cùng thấm thía và hết sức sâu sắc:

“Phải có trái tim sục sôi bầu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng hành động vì nước, vì dân; có cái đầu đầy bản lĩnh và trí tuệ để khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; có đôi chân vững chắc và bàn tay sạch để đứng vững, đứng thẳng và khước từ mọi sự cám dỗ tầm thường, giữ danh dự của người cán bộ…; “Còn Đảng thì còn mình”, xứng danh là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn” thép vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân”(5).

Ngay cả đối với các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư cũng yêu cầu phải đề cao trách nhiệm, là những tấm gương thật sự mẫu mực, quyết liệt đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, để xứng đáng với niềm tin, tình cảm và nguyện vọng của Nhân dân; nếu ai vướng vào tham nhũng, tiêu cực thì “Tôi” (Đảng, Nhà nước) sẽ xử lý trước.

Thực hiện nhất quán cơ chế “bốn không” trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực: “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực

Để thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo: Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực.

Đây vừa là quan điểm, phương châm mang tính tổng thể trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quý được đồng chí Tổng Bí thư đúc rút qua hơn 10 năm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Để thực hiện có hiệu quả phương châm “bốn không”, theo đồng chí Tổng Bí thư, phải hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải rất chặt chẽ, không sơ hở, bất cập, để “không thể tham nhũng, tiêu cực”; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, để “không dám tham nhũng, tiêu cực”; xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trở thành nếp sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, để “không muốn tham nhũng, tiêu cực”; thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với cống hiến và tài năng của cán bộ, công chức, viên chức, để “không cần tham nhũng, tiêu cực”.

Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dựa vào dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Trong quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn quán triệt sâu sắc bài học lịch sử vô giá “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến nhân dân, dựa vào nhân dân. Thực tiễn cho thấy, không có gì mà nhân dân không biết, không có gì có thể qua mắt được nhân dân; chỉ có phát huy đầy đủ sức mạnh của nhân dân mới có thể đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, tạo thành một “phong trào, xu thế” không thể đảo ngược.

Do vậy, đồng chí Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh: Sức mạnh và động lực to lớn của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của Nhân dân và cả hệ thống chính trị, báo chí, mà nòng cốt là các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực, như nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Nếu không dựa vào dân thì cuộc chiến chống tham nhũng khó có thể thành công.

Đồng chí Tổng Bí thư đã dẫn lại những lời chỉ dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhắc nhở các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên ghi nhớ sâu sắc và triển khai thực hiện: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”; phải “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp” .

Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Từng bước mở rộng phòng chống tham nhũng, tiêu cực ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng

Tham nhũng, tiêu cực không chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước, mà còn có sự giúp sức, hỗ trợ đắc lực của các đối tượng hoạt động ngoài khu vực nhà nước. Mặt khác, tội phạm tham nhũng có tính quốc tế, là vấn nạn của các quốc gia.

Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải triển khai có hiệu quả hoạt động phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở khu vực ngoài nhà nước, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng; các giải pháp phòng chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm với các nước; phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư pháp của các nước, các tổ chức quốc tế để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội tham nhũng lẩn trốn, chuyển giao tài liệu, chứng cứ và thu hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài.

Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong phòng chống tham nhũng. Nội luật hóa và thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận về phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam.

Phối hợp chặt chẽ, “đúng vai, thuộc bài”, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”

Một trong những bài học kinh nghiệm mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực là phải chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng, kịp thời, hiệu quả của các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong quá trình hoạt động, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan chức năng chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; nếu vi phạm liên quan đến cán bộ diện cấp ủy quản lý thì báo cáo với Thường trực cấp ủy đó, đồng thời chuyển hồ sơ, tài liệu cho ủy ban kiểm tra cùng cấp để xử lý theo quy định của Đảng. Đồng chí yêu cầu, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực tuyệt đối không được “quyền anh quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”; phải “đúng vai, thuộc bài”; “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo nghiên cứu, trình Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Nhờ đó, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở đã có sự chuyển biến rõ nét, từng bước khắc phục hiệu quả tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, khẳng định chủ trương đúng đắn, kịp thời của Trung ương, của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với 80 năm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động cách mạng phong phú, bền bỉ, Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với trí tuệ uyên bác, sắc sảo đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hệ thống tư tưởng và lý luận quý giá về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc mà đồng chí Tổng Bí thư trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh.

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tấm gương tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng

Mặc dù bận rộn chuẩn bị cho sự kiện Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Trường Đại học Việt-Nhật, GS, TS Furuta Motoo, Hiệu trưởng Trường Đại học Việt-Nhật đã dành thời gian trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân về những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Phóng viên (PV): Được biết Giáo sư từng có cơ hội gặp gỡ trực tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại những ấn tượng như thế nào đối với ông?

GS, TS Furuta Motoo: Tôi có vinh dự lớn từng hai lần được gặp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 4, năm 2012 và Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 5, năm 2016. Qua phong thái của Tổng Bí thư, tôi cảm nhận rõ ông là nhà lãnh đạo giản dị, dễ gần và cởi mở. Từng nhiều năm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, tôi thấy phong thái của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa là nhân cách bẩm sinh của ông, vừa có được từ học tập phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

PV: Giáo sư có thể chia sẻ rõ hơn về cảm nhận rất thú vị này?

GS, TS Furuta Motoo: Theo tôi, muốn hiểu Việt Nam phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh. Một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình tìm tòi, định hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, căn cứ vào thực tiễn quá trình đổi mới ở Việt Nam, đã có sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam.

Tôi biết rằng, có khá nhiều người Việt Nam coi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo cấp cao thể hiện rõ nét nhất tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông chính là tấm gương tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng và lối sống giản dị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xứng đáng là người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

 PV: Đất nước Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giáo sư đánh giá như thế nào về những dấu ấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam?

GS, TS Furuta Motoo: Những thành tựu phát triển của Việt Nam sau gần 4 thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới đã nhận được sự ngưỡng mộ và khâm phục của các nước trên thế giới. Ngày càng có nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển quan tâm đến “mô hình phát triển của Việt Nam”. 

Nhắc tới những thành tựu và sự phát triển vượt bậc của đất nước Việt Nam ngày hôm nay, không thể không nhắc tới vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tôi vẫn còn nhớ câu nói của Tổng Bí thư về đất nước các bạn: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Với thực tế phát triển ở Việt Nam, lời khẳng định này có sức thuyết phục cao không chỉ ở trong nước mà còn được thế giới công nhận. 

Vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là nhà lãnh đạo cấp cao tiêu biểu đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh và phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị và góp phần đưa vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

PV: Ông đánh giá thế nào về vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với nền ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” và chiến dịch “đốt lò” bài trừ tham nhũng?

GS, TS Furuta Motoo: Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc dân tộc nhờ kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam là một nét đặc trưng được cả thế giới ghi nhận. Con người Việt Nam với tinh thần cởi mở luôn tích cực tiếp thu những yếu tố tốt đẹp trong văn hóa của thế giới. Trong tình hình quốc tế diễn biến phức tạp như ngày nay, hiếm có một quốc gia nào có quan hệ tốt với cả 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Việt Nam. Đây cũng chính là một kết quả của “ngoại giao cây tre”.

Đường lối đối ngoại Việt Nam mềm dẻo nhưng giữ được sự nhất quán trong việc thực hiện như vậy là công việc không dễ dàng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đóng vai trò lớn trong việc kiên trì đường lối “ngoại giao cây tre”.

Tôi cho rằng, chống tham nhũng là nỗ lực không thể thiếu khi muốn đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Trong sự nghiệp lãnh đạo của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kiên định lãnh đạo một chiến dịch chống tham nhũng có ý nghĩa lịch sử.