LUẬN ĐIỆU TRƠ TRẼN “LIÊN MINH QUÂN SỰ MỸ – NHẬT – PHI VÀ SỰ CÔ ĐƠN NGUY HIỂM CỦA VIỆT NAM” CẦN ĐƯỢC LÊN ÁN
Một trong các sự kiện thu hút sự quan tâm của dư luận toàn thế
giới trong tháng 4 năm 2024 vừa qua chính là sự kiện ngày 11/4/2024 diễn ra Hội
nghị thượng đỉnh lần đầu tiên giữa lãnh đạo ba nước Mỹ – Nhật Bản –
Philippines. Hội nghị đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng về hợp tác giữa
các bên liên quan, trong đó có vấn đề về liên minh quân sự giữa Mỹ, Nhật Bản và
Philippines.
Bình luận về sự kiện này, trên trang mạng “quyenduocbiet”, Nguyên Anh đã đăng bài viết tựa đề “Liên minh quân sự Mỹ – Nhật –
Phi và sự cô đơn nguy hiểm của Việt Nam”. Bài viết, viện cớ sự liên minh quân sự giữa ba
nước Mỹ, Nhật, Philippines để phê phán chủ trương không tham gia liên minh quân
sự của Việt Nam là “sự cô đơn nguy hiểm”. Từ đó, “khuyên” Việt Nam cần thực hiện liên minh quân sự với Mỹ.
Nguyên Anh còn cho rằng, điều kiện tiên quyết để trở thành “đồng minh của Mỹ” là: “Việt Nam bắt buộc phải là một
quốc gia không cộng sản”. Thực chất đây là những luận điệu trơ trẽn, nhằm xuyên tạc, công
kích chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam, nhất là chủ trương “không
tham gia liên minh quân sự”. Đồng thời phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác đối ngoại quốc phòng.
Cần khẳng định rằng, Việt Nam chủ trương “không tham gia liên minh quân sự” là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững
môi trường hòa bình để phát triển đất nước, bởi lẽ:
Thứ nhất, quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng,
Nhà nước ta là xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả
nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân,
sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Chính sách quốc phòng của
Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải
quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp
quốc tế. Đồng thời, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, kiên
quyết không “trông chờ” sự “bảo hộ” của bất cứ một thế lực nào.
Thứ hai, thực tiễn cho thấy, các cuộc chiến tranh
và xung đột trên thế giới gần đây, nhất là trường hợp xung đột giữa Nga và
Ukraina,… chỉ ra, một trong những nguyên nhân và “ngòi nổ” của nó là chính sách
đối nội và đối ngoại thiếu sự nhất quán của chính phủ các nước đó. Chính phủ và
ngay cả một bộ phận nhân dân các nước này luôn trông chờ sự “cứu giúp” từ thế
lực bên ngoài hoặc dựa hẳn vào một liên minh quân sự với các quốc gia khác. Hậu
quả để lại cho nhân dân các nước đó là sự phá hỏng không gian kinh tế – xã hội,
bị chiến tranh tàn phá và luôn phải đối mặt với nguy cơ bất ổn, kéo lùi sự phát
triển của đất nước. Điều này cho thấy sự hiện hữu những vấn đề về “lợi bất cập
hại”, “hại” sẽ nhiều hơn “lợi” trong tham gia liên minh quân sự, để rồi đánh
mất độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, tự chuốc thêm kẻ thù, tự đưa quốc
gia, dân tộc mình vào tình thế “nguy hiểm”.
Thứ ba, thành công của Việt Nam trong
giữ vững chủ quyền, độc lập, bảo vệ lợi ích của quốc gia – dân tộc những năm
qua chính là thành công của xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ,
tự cường; và thực hiện thắng lợi đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ
đối ngoại. Thành tựu đó đã khẳng định: Chủ trương không tham gia liên minh quân sự là
đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi
hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại
của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và
là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đến nay, Việt Nam
đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước Ủy viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới. Hợp tác
quốc phòng giữa Việt Nam và các nước ngày càng đi vào chiều sâu với các nội
dung, lĩnh vực hợp tác thiết thực, phù hợp với điều kiện, nhu cầu và lợi ích
của ta và các nước đối tác, tập trung vào các lĩnh vực như trao đổi, tham vấn,
đối thoại, đào tạo, hợp tác quân binh chủng, công nghiệp quốc phòng, quân y,
cứu hộ – cứu nạn, tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển, giao lưu hữu
nghị quốc phòng biên giới; chủ động tham gia và tổ chức đăng cai các hội thao
quân sự quốc tế…Những kết quả quan trọng trên đây là cơ sở để chúng ta tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ tư, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác đối ngoại quốc phòng là vấn đề có tính nguyên tắc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Công tác đối ngoại quốc phòng là
một bộ phận trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Mọi hoạt động hợp tác quốc
phòng đều phải bám sát quan điểm, chủ trương, phương châm, mục tiêu, nội dung,
phương thức mà Đảng xác định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động này được
cụ thể hóa thông qua vai trò quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Bộ Quốc phòng
và chỉ huy các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Với ý nghĩa đó, hợp tác
quốc phòng trong tình hình hiện nay chính là: “thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đồng
thời, mọi hoạt động hợp tác quốc phòng đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc phòng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ quyền độc tôn
lãnh đạo hoạt động đối ngoại quốc phòng; quyền lãnh đạo đó không san sẻ, chia
sẻ cho các lực lượng, tổ chức chính trị – xã hội khác.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cho thấy, “luận điệu” của
Nguyên Anh thực chất là một âm mưu thâm độc núp bóng vỏ bọc “bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ” nhưng lại nhằm chống phá đất nước, chúng ta cần phải đề cao cảnh
giác, chủ động phát hiện vạch trần, đấu tranh kiên quyết, không để bị lừa gạt,
gây tổn hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét