QUYẾT TỬ CHO TỔ QUỐC QUYẾT SINH
Bom ba càng là một
loại vũ khí chống tăng do xưởng quân giới Việt Nam sản xuất năm 1946.
Bom ba càng được
thiết kế với kíp kích nổ bằng va chạm theo nguyên tắc đầu đạn lõm, không quá
phức tạp trong việc chế tạo nên phù hợp với thời điểm đó. Bom có dạng hình
phễu, nhồi bằng thuốc nổ hoặc thuốc bom (7–10 kg), có vành gang gắn ba càng
sắt; đáy phễu là bộ phận gây nổ, gồm: hạt nổ, kim hỏa và chốt hãm an toàn.
Khoảng lõm ở đáy hình côn khi nổ sẽ khiến cho sức nổ hướng vào lớp thép xe
tăng. Đuôi bom có một lỗ dùng để tra cán dài khoảng 1,2m. Người ta phải lắp 3
điểm chạm (3 kíp) để đề phòng có cái kíp nào "xịt" vì không có nhiều
cơ hội cho các chiến sỹ cảm tử tiếp cận với xe tăng.
Khi đánh bom, động
tác phải dứt khoát, tay trái hoặc tay phải nắm (nâng) nơi tiếp giáp đuôi bom và
gậy, tay còn lại nắm chắc 2/3 của gậy, mặt bom chếch 45 độ về phía trước, cách
mục tiêu 2 - 3m hạ bom ngang tầm vai hai tay lao bom vào vị trí đã chọn, phải
bảo đảm ba càng bom cùng lúc chạm trên mặt phẳng của mục tiêu ( xe tăng, xe bọc
thép bánh hơi chọn nơi thành bên hông xe, dưới tháp pháo…) để bộ phận gây nổ
kích nổ chuẩn xác. Bom nổ gây áp lực cháy nổ rất lớn (nhiên liệu và đạn trên xe
cùng bị kích nổ), sức ép một phần dội ngược lại phía sau hất người đánh bom bật
ngửa xuống đường, tổ cứu hộ phải sẵn sàng ngay lập tức ra hỗ trợ chiến sĩ đánh
bom vào nơi an toàn.
Ðánh bom ba càng phải
là những chiến sĩ mưu trí, quả cảm, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.
Bởi sức công phá của bom rất lớn và tỷ lệ thương vong cũng rất cao. Trong điều
kiện thiếu thốn, khó khăn mọi bề, thời gian gấp rút, lại chưa có vũ khí chống
tăng hiệu quả, cho nên bom ba càng được sản xuất với số lượng hạn chế và chỉ sử
dụng trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Biết rõ hành động này là cực
kỳ nguy hiểm, là sẽ hy sinh vì phải lao cả người và bom vào xe tăng thì sức
công phá mới có hiệu quả cao nhất, nhưng rất nhiều chiến sĩ vẫn viết đơn tình
nguyện xin được làm nhiệm vụ vinh quang đó, xung phong gia nhập đội “Cảm tử
quân” vì được chiến đấu bảo vệ Thủ đô là niềm vinh dự, tự hào cũng là trách
nhiệm thiêng liêng khi Tổ quốc cần.
Trong những ngày đầu
chiến đấu trong vòng vây tại Hà Nội, 10 đội cảm tử quân được thành lập, với
tổng cộng khoảng 100 đội viên. Họ được biết với tên gọi là chiến sĩ quyết tử
quân, khác với đa số chiến sỹ khác là Vệ quốc quân hoặc tự vệ Hà Nội. Chiến sĩ
quyết tử quân thường mặc áo trấn thủ, đeo khăn đỏ, cầm bom ba càng, có khi được
tổ chức truy điệu sống trước khi ra trận.
Trải qua 60 ngày đêm
(19/12/1946 đến 18/2/1947) chiến đấu anh dũng, sáng tạo và quyết liệt, quân dân
Thủ đô đã làm tròn nhiệm vụ cầm cự, giam chân địch trong thành phố để bảo vệ và
sơ tán cơ quan đầu não cách mạng, bước đầu đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng
nhanh của Pháp.
ST
11
2
lượt chia sẻ
Thích
Bình
luận
Chia
sẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét