TCCS - Phương thức cầm quyền của Đảng là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi hình thức, phương pháp cầm quyền cho phù hợp hơn, hiệu quả hơn và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng.
Một số nhận thức xuất phát để đổi mới phương thức cầm quyền
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức mà Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền liên tục gần 80 năm. Từ thực tiễn cầm quyền của Đảng và các kết quả nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam thường bao gồm các cách thức chủ yếu sau:
Đảng cầm quyền bằng đường lối, chủ trương thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng. Có được địa vị cầm quyền là do Đảng có đường lối chính trị đúng đắn và được thực hiện hiệu quả. Khi trở thành đảng cầm quyền thì phương thức cầm quyền hàng đầu vẫn là bằng đường lối chính trị của Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận; qua đó, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện nội dung cầm quyền của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng pháp luật: Phương thức cầm quyền này gắn liền với phương thức cầm quyền bằng đường lối, chủ trương. Sau khi Đảng đề ra đường lối, chủ trương; với chức năng của mình, Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành pháp luật, chiến lược, kế hoạch để toàn dân, toàn xã hội thực hiện, nhờ đó đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống. Bởi vậy, pháp luật không chỉ khẳng định vai trò của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng. Nếu thực hiện tốt phương thức cầm quyền bằng pháp luật thì sẽ giúp bảo đảm tính nghệ thuật của lãnh đạo chính trị và giúp gia tăng sự bền vững địa vị cầm quyền của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng công tác cán bộ: Đây là phương thức cầm quyền phổ biến của tất cả đảng cầm quyền trên thế giới. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng lập tức đưa người của mình vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước, qua đó mà thực thi sự cầm quyền của đảng. Đảng cộng sản cầm quyền nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nói riêng càng đặc biệt chú trọng cầm quyền bằng công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng công tác tổ chức: Muốn cầm quyền tốt, Đảng phải thiết lập được mô hình tổ chức và các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị phù hợp, bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời, có cách thức tốt để phân công, bố trí, kiểm tra, giám sát cán bộ của Đảng giữ vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị để tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng công tác tư tưởng: Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng đều có thể phục vụ cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác lý luận giúp xác lập sự thống trị hệ tư tưởng của Đảng đối với xã hội, bảo đảm nền tảng tư tưởng cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác tuyên truyền, cổ động, văn hóa, văn nghệ giúp Đảng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng đến toàn xã hội và bảo vệ địa vị cầm quyền, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị: Trong các thể chế đa đảng, thường các chính đảng, kể cả đảng cầm quyền không được phép thiết lập tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, thậm chí công chức không được tham gia đảng phái chính trị; vì vậy, cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị là một đặc thù, một thế mạnh trong phương thức cầm quyền của đảng cộng sản với thể chế nhất nguyên chính trị. Phương thức cầm quyền này quan hệ chặt chẽ với phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức, tuy có phạm vi hẹp hơn, chỉ trong phạm vi xây dựng tổ chức của Đảng, nhưng là phương thức cầm quyền rất mạnh, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
Đảng cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát: Đường lối, chủ trương của Đảng có được thực hiện nghiêm túc hay không? Việc thể chế hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng có kịp thời, đầy đủ không? Chất lượng, hiệu quả công việc có được đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện tốt không...? Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng sẽ biết được rõ ràng vấn đề này; trên cơ sở đó, điều chỉnh phù hợp nội dung, phương thức cầm quyền. Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước, với hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên hoạt động trong tất cả cơ quan nhà nước, các tổ chức của hệ thống chính trị nên cần thiết và đủ điều kiện để cầm quyền thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Quá trình gần 80 năm cầm quyền liên tục, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc rút nhiều bài học kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo, cầm quyền, về lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thành công lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền trong gần 80 năm qua là Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa từ “con số không” do hệ quả của chiến tranh, của chế độ chính trị thực dân, phong kiến, đến đủ sức quản lý đất nước, tổ chức nhân dân đánh bại hai “đế quốc to”, giành độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước; và ngày nay, đang từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Bên cạnh những thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thẳng thắn thừa nhận rằng còn có một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục trong thời gian tới. Đặc biệt, với vị trí, vai trò, trách nhiệm của một đảng cầm quyền duy nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận thấy, vẫn “Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền”(1); đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nội dung còn lúng túng, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Trong điều kiện mới hiện nay, muốn thực hiện tốt nội dung cầm quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới phương thức cầm quyền. Nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất của nhiệm kỳ do Đại hội XIII của Đảng nêu rõ phải: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(2). Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn cách làm và thành tựu trước đây, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai; những gì trước kia đúng, nhưng do tình hình và điều kiện đã thay đổi, trở nên không phù hợp nữa, cần bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng cũng phải theo tinh thần chỉ đạo như vậy, nghĩa là không phủ định các phương thức cầm quyền đã và đang vận hành, mà trước hết và chủ yếu là bổ sung nhận thức mới và thay đổi cách làm cụ thể trong mỗi phương thức cầm quyền cơ bản.
Giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi các hình thức, phương pháp cầm quyền, làm cho phương thức cầm quyền của Đảng phù hợp hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nội dung cầm quyền và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng. Để thực hiện đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết và định hướng chủ trương, chính sách lớn.
Với vị trí, vai trò là phương thức cầm quyền cơ bản của Đảng và từ thực trạng ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, để đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, nhiệm vụ hàng đầu là phải đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi”(3).
Đồng thời với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, phải đổi mới việc tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật.
Đổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật đòi hỏi tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hóa nhanh, đầy đủ, chất lượng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng.
Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, với vai trò là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Ba là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tư tưởng.
Để đổi mới phương thức cầm quyền, công tác tư tưởng của Đảng phải tiếp tục tăng cường đổi mới toàn diện trên các mặt công tác lý luận, tuyên truyền, cổ động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả; từ đó, thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân.
Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo xã hội bởi những giá trị của nền tảng tư tưởng của Đảng; sự thấu suốt đường lối, chủ trương của Đảng.
Công tác tư tưởng phải nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội; nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để bảo đảm vai trò, sứ mệnh tiên phong về lý luận của Đảng lãnh đạo, cầm quyền.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cơ chế quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tạo môi trường tự do sáng tạo, phát huy tài năng của các văn nghệ sĩ, để thúc đẩy xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức.
Công tác tổ chức của Đảng phải thiết lập, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền chặt chẽ, thông suốt đối với hệ thống chính trị, các lĩnh vực và xã hội trong điều kiện mới; đồng thời, hệ thống tổ chức bộ máy đó phải giúp tháo gỡ ách tắc, trì trệ, thúc đẩy sự phát triển. Khâu nào, chỗ nào tổ chức chưa hợp lý, chưa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, kìm hãm sự phát triển, thì phải được rà soát, sửa chữa, kiện toàn, khắc phục kịp thời.
Công tác tổ chức phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Phương hướng, mục tiêu đổi mới công tác tổ chức là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và điểm bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Năm là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác cán bộ.
Công tác cán bộ của Đảng phải quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ, trong đó có Quy định số 142-QĐ/TW, ngày 23-4-2024, về “Thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ”.
Đổi mới việc Đảng giới thiệu đảng viên vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị bảo đảm thật sự là đảng viên ưu tú, có đủ đức, đủ tài. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó, có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền.
Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung giữ vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Theo đó, cần thực hiện nghiêm Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, của Bộ Chính trị, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng.
Sáu là, đổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Việc đổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị đòi hỏi tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ, chi bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ.
Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp ủy là chủ tịch ủy ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở nơi có đủ điều kiện.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác phát triển đảng viên để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Bảy là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Nội dung này yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi; trong đó, tập trung vào cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có biện pháp phòng ngừa, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm kỷ luật đảng.
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng./.
--------------------------
Tự do internet không phải muốn làm gì thì làm
Internet là mạng xã hội ảo, song những tác hại mà nó gây ra là thật, vì vậy, các nước đều có những quy định để quản lý internet. Không phải chỉ Việt Nam, nhiều quốc gia trên thế giới đều ban hành các quy định để quản lý mạng xã hội phù hợp hướng tới môi trường internet an toàn lành mạnh, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng.
Ủy ban Châu Âu (EC) yêu cầu Facebook, Google, Twitter phải điều chỉnh các điều khoản sử dụng dịch vụ, truy quét thông tin xấu, gồm cả tin xuyên tạc, sai sự thật, nếu không sẽ phải chịu chế tài xử lý nghiêm khắc. Chính phủ Mỹ đã ban hành 3 đạo luật an ninh mạng chính là: Đạo Luật về Quyền riêng tư trong lĩnh vực Y tế (HIPPA) năm 1996, Đạo Luật Gramm-Leach-Bliley trong lĩnh vực Tài chính năm 1999 và Đạo Luật An ninh nội địa năm 2021. Tòa án Tối cao Mỹ đã thông qua sửa đổi Điều 41 Bộ luật Hình sự, cho phép Cục Điều tra Liên bang (FBI) được quyền truy cập vào máy tính của bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu và vào bất kỳ lúc nào nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm an toàn thông tin mạng internet.
Trung Quốc ban hành nhiều văn bản về quản lý internet, trong đó có: Pháp lệnh Bảo vệ an ninh của các hệ thống thông tin (tháng 2/1994); Chỉ thị số 292 (tháng 9/2000) quy định về giới hạn đối với các nhà cung cấp nội dung trên internet; Chính sách quản lý mạng trực tuyến (tháng 12/2012)… Đối với tổ chức, cá nhân, Luật An ninh mạng năm 2016 của Trung Quốc quy định bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi đăng tải các thông tin điện tử, cung cấp phần mềm ứng dụng cũng không được phép cài đặt chương trình độc hại hay có chứa các nội dung bị cấm đăng, phát tán theo quy định của pháp luật.
Đức đã có quy định về Luật An ninh mạng từ rất sớm. Tháng 7/2015, Quốc hội Đức đã thông qua Luật An ninh mạng nhằm bảo vệ tốt hơn cho công dân và các doanh nghiệp trong kỷ nguyên số. Luật An ninh mạng của Đức yêu cầu các công ty và cơ quan liên bang phải có tiêu chuẩn bảo mật mạng tối thiểu và phải được Văn phòng Bảo mật Thông tin Liên bang (BSI) chứng nhận. Trong luật mới có những điều, khoản cụ thể đối với người sử dụng mạng internet như cấm âm mưu sử dụng bạo lực lật đổ an ninh quốc gia, cấm xúi giục hành vi phạm tội... Luật An ninh mạng của Singapore ban hành năm 2017 cho phép Cơ quan An ninh mạng nước này theo dõi và quản lý an toàn không gian mạng của quốc gia. Cơ quan An ninh mạng được phép thực hiện các biện pháp chủ động để bảo vệ cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng và nhanh chóng ứng phó với các mối đe dọa và sự cố…
Những luận điệu xuyên tạc về công tác cán bộ của Đảng
Các luận điệu xuyên tạc về công tác cán bộ cho rằng thực chất đội ngũ cán bộ hiện nay sai phạm nhiều là do sai lầm của Đảng trong lựa chọn cán bộ. Họ cho rằng việc lựa chọn cán bộ của Đảng chủ yếu là theo “cánh hẩu”, phe nhóm, con ông cháu cha mà đưa lên chứ không phải vì tài năng hay đạo đức. Các quan điểm sai trái, xuyên tạc ấy cho rằng để khắc phục tình trạng sai lầm này thì Đảng Cộng sản Việt Nam hãy để cho mọi người tranh cử công khai và không cần Đảng phải thực hiện công tác cán bộ…
Khi Đảng xử lý hàng loạt các cán bộ sai phạm, các luận điệu xuyên tạc lại rêu rao cho rằng đó chỉ là “phe cánh triệt hạ lẫn nhau”, là “thanh trừng phe phái”, là “loại người của bên thua cuộc” để đưa những người của “bên thắng cuộc” lên... Họ cũng trắng trợn xuyên tạc cho rằng thực chất Đảng dung dưỡng cho cán bộ tham nhũng để chính những người ấy sẽ bảo vệ sự tồn tại cho chế độ. Đặc biệt, trong công cuộc phòng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua, khi một bộ phận người dân bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và chịu nhiều mất mát, vất vả, khó khăn, chúng liền vin vào cớ này để xuyên tạc và cho rằng thực chất cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở vô tài, bất đức, chỉ lo cho bản thân mình, phe nhóm mình mà không quan tâm đến người dân, để “sống chết mặc dân”… Trước những bất cập, nhất là yếu kém của một số cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở trong phòng, chống dịch Covid-19, họ tung ra những bài viết, bài nói để khoét sâu vào những bức xúc của người dân để quy chụp, đánh giá phiến diện một chiều khi cho rằng tất cả những yếu kém, hạn chế ấy là do cán bộ và nguyên nhân của các yếu kém đó là do công tác cán bộ của Đảng sai lầm với mục đích cuối cùng là đổ tất cả các hạn chế, bất cập ấy là do… Đảng (?!).
Trách nhiệm công dân khi tham gia mạng xã hội
Mạng xã hội là một thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, tạo thêm không gian để chia sẻ, trao đổi thông tin và kết nối, hợp tác trên phạm vi toàn cầu. Trước sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội, chúng ta cần phải nhận diện đúng những thông tin xấu, độc khi tiếp cận nhằm phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa những tác động tiêu cực, góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước và xây dựng một môi trường sống an toàn, chất lượng.
Điều 5, khoản 1 (điểm a, b, c, d, e), Nghị định 72/CP của Chính phủ quy định những hành vi bị cấm trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và những thông tin trên mạng gồm:
a) Chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo;
b) Tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
c) Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định;
d) Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;
đ) Quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm; truyền bá tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm bị cấm;
e) Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Khi tham gia vào mạng xã hội, nếu người tiếp cận thông tin không tỉnh táo, sáng suốt thì có thể bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng tiêu cực bởi những thông tin xấu, độc đó. Để tích cực phòng, chống thông tin xấu, độc trên mạng xã hội, chúng ta cần tự trang bị cho mình vốn hiểu biết và những kỹ năng cần thiết:
Trước tiên, chúng ta cần có kỹ năng chọn lọc thông tin để nhận diện các thông tin xấu, độc. Mà để thực hiện được kỹ năng đó thì chúng ta cần tỉnh táo nhận diện được thông tin xấu, độc. Thông tin xấu, độc được nhận diện ở các yếu tố: Mục đích, ý nghĩa, nội dung...Về mục đích: Chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức, thái độ, lối sống của người tiếp xúc với thông tin, gây hoang mang, dao động, hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về nội dung: Thông tin xấu, độc thường lẫn lộn giữa thật và giả, thường là trà trộn một phần thông tin đúng với thông tin sai lầm, bịa đặt, xuyên tạc… Để xác định được xem thông tin mà mình tiếp cận là giả hay thật; đúng hay sai; tốt hay xấu thì chúng ta cần tiếp cận nhiều với các thông tin chính thống.
Để xác định chắc chắn đó là thông tin chính thống, nên tiếp nhận hay không thì cần nắm rõ chủ thể đăng tải. Nếu chủ thể đăng tải thông tin là các nick ảo, nick không chính danh và tổng thể nội dung trang có thái độ nhìn nhận không phù hợp với quan điểm chính thống thì cần loại bỏ... Sau khi nhận diện được thì chúng ta nên tránh các thông tin xấu, độc theo hướng đã được nhận diện; đồng thời chọn lọc những thông tin có lợi, những thông tin phù hợp với thuần phong mỹ tục... để tiếp cận. Thường thì những thông tin được tung ra nhằm khuấy động dư luận và tạo ra các luồng nhận thức khác nhau. Nhiều người vì tò mò nên tiếp cận thông tin đó mà không suy nghĩ xem nên tiếp nhận như thế nào cho đúng.
Mặt khác, chúng ta cần có kỹ năng công nghệ - thông tin nhất định để chặn các nick ảo, lọc, xóa, báo xấu... các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội để không cho các thông tin đó lan truyền dễ dàng. Cần cẩn thận cân nhắc xem nên comment (bình luận), like (thích), share (chia sẻ), dẫn link hay không nên một vấn đề nào đó, để tránh việc vô tình trở thành cầu nối giúp lan tỏa thông tin xấu, độc. Việc nắm các quy định của Luật An ninh mạng là một vấn đề bắt buộc giúp người sử dụng tránh những hành vi vi phạm có khi chỉ là vô tình nhưng gây ảnh hưởng tiêu cực cho bản thân và xã hội.
Tác hại của thông tin xấu, độc trên mạng xã hội
Mạng xã hội là một thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, tạo thêm không gian để chia sẻ, trao đổi thông tin và kết nối, hợp tác trên phạm vi toàn cầu. Trước sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội, chúng ta cần phải nhận diện đúng những thông tin xấu, độc khi tiếp cận nhằm phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa những tác động tiêu cực, góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước và xây dựng một môi trường sống an toàn, chất lượng.
Về nội dung và bản chất, có thể nhận diện: Thông tin xấu, độc tán phát trên internet và mạng xã hội “là những thông tin bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, lẫn lộn đúng sai, thật giả hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu thù địch”.
Thông tin xấu, độc làm ảnh hưởng lớn tới nhận thức của người tiếp nhận; làm cho người tiếp nhận có cách nhìn nhận lệch chuẩn. Từ đó, những người tiếp nhận sẽ có những hành động gây bất lợi cho nhà nước ở các phương diện mà họ tiếp cận. Dần dần, những thông tin xấu, độc đó không chỉ bị tiêm nhiễm với người thiếu bản lĩnh mà như một chất xúc tác, thúc đẩy họ chống lại những giá trị cốt lõi được các thế hệ cách mạng đã hy sinh máu xương, trí lực để dựng xây nên.
Thực tế cho thấy, nhiều thông tin xấu, độc trong giai đoạn vừa qua đã góp phần tạo nên sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của không ít người do họ thiếu cái nhìn khách quan, trung thực, sáng suốt trên chặng đường đóng góp xây dựng xã hội tốt đẹp. Một số cá nhân (có những người trước đó là anh hùng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là những nhà khoa học có tầm cỡ được chế độ đãi ngộ của Nhà nước), vì thiếu bản lĩnh, thiếu niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, vì lợi ích nhỏ nhen, đã sẵn sàng bán rẻ cả danh dự, nhân phẩm của bản thân, bán rẻ cả quá khứ vinh quang, tốt đẹp... để mưu lợi rẻ tiền và nuôi trong mình những ảo tưởng.
Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân và phủ nhận vai trò của tổ chức công đoàn hiện nay
Với sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu trên phạm vi toàn thế giới, ngày nay, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đã và đang xuyên tạc bản chất, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn. Phê phán, bác bỏ các luận điệu sai trái đó cùng việc bảo vệ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn trên cơ sở khoa học là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã làm rõ địa vị kinh tế - xã hội khách quan của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bởi đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại và hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội. Điều này không phải là mong muốn chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng của C. Mác như một số luận điệu xuyên tạc. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai trò và sứ mệnh ấy là do có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng. Giai cấp công nhân ra đời và phát triển từ nền đại công nghiệp gắn với dây chuyền máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín, mang tính xã hội hóa cao. Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tinh thần hợp tác cao, là giai cấp duy nhất thống nhất được lợi ích cũng như nhận thức, tư tưởng và hành động trong xã hội, hội đủ những phẩm chất cần có của một giai cấp cách mạng, có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng có nghĩa là khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường của giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và xu thế phát triển của thời đại. Việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn được Đảng ta khẳng định qua các kỳ đại hội, gần đây nhất là Đại hội XIII, với yêu cầu: “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, được thể hiện qua các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người. Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng”, Người viết: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập tháng 12-1958, Người viết: “Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiền tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Mà đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được”(7). Báo Nhân Dân ra ngày 6-1-1960 đăng tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có đoạn: “Ngay từ lúc đầu, Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lúc đó, giai cấp phong kiến đã đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thì chỉ mong thỏa hiệp với đế quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”(8). Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê - Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam đều luận chứng hết sức thuyết phục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn hơn 91 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng lãnh đạo cách mạng, là một lực lượng xã hội to lớn, ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành, nghề, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và gắn với nền công nghiệp hiện đại. Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ có khả năng phát minh, cải tiến và áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay./.
Con đường đi tới tương lai - Những đánh giá mang tầm thời đại
Trong một bài viết gửi báo chí ở Việt Nam, bà Merle Ratner, nhà hoạt động xã hội người Mỹ, điều phối viên Chiến dịch hỗ trợ và công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đã có phân tích rất xác đáng: "Người dân Mỹ đau đớn nhận ra rằng, CNTB đã giáng cho họ một đòn đau đớn. Tuy nhiên, điều mà họ chưa thể thấu hiểu hoàn toàn đó là đau khổ của họ không chỉ do những cá nhân tham lam chỉ coi trọng khối tài sản khổng lồ của họ hơn tình thương đối với nhân loại mà còn xuất phát từ bản chất của CNTB. CNTB luôn nhắm đến tối đa hóa lợi nhuận và giá trị thị trường. Tham lam và bất bình đẳng là gen di truyền của CNTB và chúng sẽ chỉ bị loại bỏ khi thay đổi hệ thống chính trị và kinh tế triệt để. Tương lai của loài người chắc chắn phải là chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tương lai hoàn toàn thuộc về CNXH. Nhưng CNXH trong thời đại mới sẽ khác hơn những gì đã diễn ra trong thế kỷ 20. Có khả năng sẽ có nhiều cuộc thử nghiệm khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Tất cả cần phải được nghiên cứu, tổng hợp và rút ra bài học kinh nghiệm”.
Nhìn vấn đề ở logic lịch sử như vậy càng cho thấy bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý nghĩa trước mắt đối với nước ta mà còn là một bài viết mang tính tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận rất quan trọng giúp nhận diện những vấn đề có tính quy luật lớn của thời đại hiện nay, cũng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo trên thế giới quan tâm. Đó chính là một vấn đề mang tính toàn cầu như chuyên gia người Mỹ từng khẳng định: “Phải được nghiên cứu, tổng hợp và rút ra bài học kinh nghiệm”.
Một giá trị hết sức quan trọng và to lớn khác là bài viết đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng; khẳng định những biện pháp, cách thức, các khâu đột phá cần làm, các vấn đề then chốt phải thực hiện để đi lên CNXH. Bài viết mang tính khái quát nhưng đã khẳng định rất rõ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về CNXH ngày càng rõ hơn, con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn và đang từng bước được hiện thực hóa. Bài viết vừa có tầm vóc lý luận và thực tiễn to lớn, vừa là thông điệp mạnh mẽ của Đảng ta và nhân dân ta về sự lựa chọn con đường đi tới tương lai; tiếp tục cổ vũ quần chúng nhân dân kiên định, vững bước trên con đường đã chọn./.
Thấm nhuần quan điểm: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực sự là một đột phá lý luận của Đảng ta
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định quan điểm “kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Bài viết đã lột tả đầy đủ được tính bản chất và sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trả lời câu hỏi định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam? Đặc biệt tôi rất tâm đắc khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích rất kỹ đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định, “một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển... Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”. Quả thực, chúng ta chưa bao giờ “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Một điển hình hết sức sinh động cho quan điểm này chính là công tác phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam thời gian qua. Ngay từ đợt dịch đầu tiên, mặc dù nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề nhưng để đảm bảo an sinh xã hội, gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng đã được ban hành, triển khai ngay nhằm hỗ trợ khoảng 20 triệu người dân đang gặp khó khăn bởi đại dịch Covid-19. Trong suốt hơn 1 năm ứng phó với dịch bệnh, Việt Nam luôn kiên trì thực hiện mục tiêu kép: “Vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phát triển kinh tế-xã hội”. Chính nhờ quan điểm “không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”, trong cuộc chiến với dịch bệnh, Việt Nam đã nổi lên như một điểm sáng, một hình mẫu của thế giới.
Có thể khẳng định, những phân tích, luận giải về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa làm sáng rõ, là kim chỉ nam cho công cuộc Đổi mới của đất nước trong thời gian tới. Tôi tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta sẽ tiếp tục giành những thắng lợi mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Nhất quán quan điểm trong xây dựng “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), lần đầu tiên, Đảng ta đã chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền Việt Nam”: Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (sửa đổi, bổ sung 2011), Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chế độ là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này được Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận, đồng thời chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Nhà nước pháp quyền XHCN về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực tiễn qua 35 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng đầy đủ và phát triển hơn, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trên con đường đi lên CNXH.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, góp phần tạo sự đồng thuận, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.
Nhận diện: Lợi dụng vấn đề dân tộc trong chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
Tây Nguyên của Việt Nam là nơi quy tụ đồng bào thuộc nhiều dân tộc khác nhau sinh sống. Các thế lực thù địch đang tập trung vào địa bàn này để chống phá. Được thế lực phản động nước ngoài hỗ trợ, chúng tìm mọi cách vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng và hiệu lực của chính quyền các cấp, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện âm mưu thành lập cái gọi là "nhà nước Đê Ga tự trị", tạo cớ để nước ngoài nhảy vào can thiệp. Chúng đã gây nên các cuộc bạo loạn chính trị ở nhiều nơi trên địa bàn Tây Nguyên (năm 2001 và 2004).
Một số nét cơ bản về âm mưu, thủ đoạn chống phá hiện nay cho thấy, lợi dụng vấn đề dân tộc đã thực sự trở thành một trọng điểm trong chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Qua công tác đấu tranh, chúng ta nhận diện âm mưu, thủ đoạn của địch trong "diễn biến hòa bình" về vấn đề dân tộc với một số nét cơ bản sau:
- Vấn đề dân tộc là một trong những nội dung trọng tâm của "diễn biến hoà bình", được coi là vấn đề then chốt của địch nhằm phá vở khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, chia rẽ Nhân dân vvới Đảng, Nhà nước.
- Trong vấn đề dân tộc, địch tập trung tuyên truyền nhằm "khoét sâu", "nới rộng" mâu thuẫn nội bộ dân tộc thông qua triệt để khai thác, nhào nặn thông tin, tuyên truyền tiêu cực về dân sinh, dân trí, dânchủ, môi trường tự nhiên và văn hóa, xã hội.
- Kích động hình thành tâm lý kỳ thị, phân biệt trong một bộ phận Nhân dân; xây dựng 'ngọn cờ" nhằm tập hợp lực lượng trong đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tuyên truyền xuyên tạc về tình hình dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền ở các địa phương. Một mặt nhằm gây mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mặt khác vừa tạo 'tiếng vang', kêu gọi tài trợ, vừa thúc đẩy sự can thiệp, gây sức ép của các tổ chức Quốc tế vào đời sống chính trị nước ta.
Thứ nhất, lợi dụng vấn đề dân tộc với chiên lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch thống nhất với nhau về mục tiêu, nội dung, biện pháp chống phá cách mạng Việt Nam.
Về mục tiêu, việc lợi dụng vấn đề dân tộc với chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đều là loại hoạt động tiến công chông phá cách mạng nước ta, đi đến loại trừ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc.
Về nội dung tiến công, phá hoại, lợi dụng vấn đề dân tộc với chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Về biện pháp thực hiện, lợi dụng vấn đề dân tộc với chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ chủ yếu bằng các hoạt động phi vũ trang, bằng chính lực lượng từ bên trong có sự trợ lực, răn đe bằng sức mạnh toàn diện ở bên ngoài.
Thứ hai, bắt nguồn từ đặc điểm Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và tầm quan trọng đặc biệt của các dân tộc trong cách mạng Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh (chiếm trên 86% dân số cả nước) là dân tộc đa số, còn lại 53 dân tộc (chiếm gần 16% dân số cả nước). Tuy là các dân tộc thiểu số nhưng 53 dân tộc thiểu số có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, Đảng và Nhà nưởc ta luôn quan tâm sâu sắc đến vấn đề dân tộc, coi thực hiện tốt chính sách dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng.
Thấy được tầm quan trọng của các dân tộc hợp thành quốc gia dân tộc Việt Nam, kế tục chính sách mà thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã thực hiện trước đây, ngày nay các thê lực thù địch càng ráo riết, triệt đề khai thác, tận dụng vấn đề dân tộc, coi đó là một trọng điểm trong chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nưởc ta.
Thứ ba, vùng các dân tộc thiểu số ở nước ta đang có những khó khăn mà kẻ địch có thể lợi dụng chống phá.
Mặc dù, đã có sự quan tâm toàn diện và sâu sắc của Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta, song do nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý... và cả những hạn chế, sai sót trong tổ chức thực hiện, cho đến nay vùng các dân tộc thiểu số của nưốc ta vẫn còn nhiều khó khăn cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đời sống của đồng bào các dân tộc thiêu số nhiều nơi còn khó khăn, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hoá, đời sống và quốc phòng, an ninh còn nhiều bất cập. Các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng những hạn chế đó để chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, đây là một lý do giải thích vì sao lợi dụng vấn đề dân tộc trở thành một trọng điểm của chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thê lực thù địch đối vối cách mạng Việt Nam hiện nay. Từ đó, ta cần nhận thức sâu sắc và nêu cao cảnh giác, đối phó./.
Nâng cao cảnh giác trước phương thức, thủ đoạn mạo danh lừa đảo qua mạng xã hội
Trước sự phát triển của Công nghệ thong tin, tình hình mạo danh, lừa đảo trên không gian mạng thông qua mạng xã hội, như: Facebook, Zalo... ngày càng tinh vi, phức tạp và đang có chiều hướng gia tăng về số vụ. Đặc biệt trong thời gian gần đây, xuất hiện tình trạng một số đối tượng đã tạo tài khoản mạo danh, sử dụng thông tin cá nhân, hình ảnh của các đồng chí lãnh đạo, người có uy tín trong tỉnh, nhằm thực hiện các hành vi lừa đảo, trục lợi cá nhân..., gây ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của lãnh đạo Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương. Nguy hại hơn, các đối tượng mạo danh các cơ quan Nhà nước, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để thực hiện các hành vi lừa đảo, trục lợi cá nhân và chống phá Đảng, Nhà nước. Phát tán thông tin xấu, độc trên mạng xã hội để bôi nhọ cá nhân, tổ chức, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Nhiều đối tượng đưa tin giả trên mạng xã hội tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước đã bị xử lý trước pháp luật…
Trước tình hình đó, Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Bộ Công an nhận diện 6 phương thức, thủ đoạn chủ yếu của dạng tội phạm này. Trong đó, các đối tượng sử dụng các dịch vụ có chức năng giả mạo đầu số, giả mạo số điện thoại, mạo danh cán bộ của cơ quan chức năng trong các cơ quan thực thi pháp luật gọi điện cho người dân để thực hiện hành vi lừa đảo, gây sức ép, yêu cầu khác nhau như phục vụ điều tra, làm người dân hoang mang, từ đó phải chuyển một số tiền lớn vào một tài khoản do các đối tượng này cung cấp. Lừa đảo qua các mạng xã hội như: Chiếm quyền điều khiển tài khoản mạng xã hội của người bị hại, sau đó tạo ra các kịch bản nhắn tin lừa đảo đến danh sách bạn bè của người bị hại; kết bạn qua mạng xã hội và hứa hẹn gửi quà có giá trị... sau đó, yêu cầu nạn nhân chuyển tiền nộp thuế hoặc lệ phí hải quan nhằm chiếm đoạt tiền; hoặc gửi tin nhắn qua Facebook, Zalo, Viber... thông báo trúng thưởng và đề nghị nộp phí để nhận thưởng.
Để chủ động phòng tránh các hoạt động lừa đảo qua không gian mạng, đặc biệt là thủ đoạn mạo danh lãnh đạo, tổ chức cá nhân để trục lợi, hoặc nguy hại hơn là tung tin thất thiệt nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền… người dân khi sử dụng các dịch vụ trên không gian mạng, phải nâng cao tinh thần cảnh giác, nhất là trong việc cung cấp, trao đổi, chia sẻ thông tin cá nhân trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, cần có sự chung sức, chung tay của các cấp, các ngành, các cơ quan tư pháp; đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo các thủ đoạn lừa đảo, xử lý triệt để các nguồn tin liên quan đến hành vi lừa đảo qua mạng xã hội./.
Một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động tư tưởng, lý luận trên không gian mạng
Không gian mạng có đặc điểm là dung lượng thông tin lớn, tốc độ truyền tải nhanh, vừa có độ bao phủ rộng khắp, vừa tương tác thông tin mạnh, tức thời. Trong thời đại internet thì mỗi một người chính là một IP; trong thời đại internet vạn vật thì mỗi một vật phẩm là một IP; trong thời đại trí tuệ nhân tạo thì mỗi một người máy cũng là một IP. Sự phát triển của công nghệ mới đang phá bỏ liên tục những ranh giới, những biên giới của không gian mạng. Cùng với việc mở rộng không gian mạng và tính liên kết ngày càng cao thì các vấn đề của xã hội, của con người lại càng nhiều và càng phức tạp. Không gian mạng đang chiếm lĩnh không gian và thời gian thực của con người ngày càng nhiều, ảnh hưởng ngày càng lớn với tốc độ ngày càng nhanh, chính vì vậy nó ảnh hưởng sâu rộng và phức tạp đến lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay.
Một là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn trên không gian mạng.
Không ngừng nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn cụ thể, đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút và khái quát lý luận là yêu cầu đầu tiên, là nhiệm vụ căn bản. Trận địa tư tưởng cần vũ khí quan trọng nhất là vũ khí lý luận, song lý luận phải thật sự khoa học chứ không phải lý thuyết suông, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và mang hơi thở của cuộc sống, phải bao quát được những vấn đề nền tảng, có tính quy luật và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề then chốt. Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Do đó, cần giữ vững và không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận, giáo dục chính trị, tư tưởng trên mặt trận trực tuyến.
Hai là, lấy dân làm gốc kết hợp với xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận trên địa hạt không gian mạng.
Dù trong tình huống nào đi nữa, nhất là trên không gian mạng, chúng ta càng cần phải tuân thủ nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, nghĩa là chúng ta cần cần có sự ủng hộ của những người quản trị , người điều hành , người điều tiết, người gây ảnh hưởng ,… cũng như của toàn thể cư dân mạng. Chúng ta cần phải luôn tôn trọng địa vị cao nhất của nhân dân, tin tưởng và dựa vào quần chúng nhân dân trên không gian mạng. Vấn đề cốt lõi của công tác tư tưởng trực tuyến là cách đối xử với quần chúng trên không gian mạng. Chúng ta nói lên tiếng nói của người dân, bênh vực nhân dân, đứng về phía quyền lợi của nhân dân thì nhân dân sẽ tin yêu chúng ta, bảo vệ chúng ta.
Định hướng tư tưởng bằng công tác lý luận không thể tách rời việc xây dựng đội ngũ những người làm công tác lý luận. Định hướng tư tưởng, lãnh đạo dư luận bằng chuyên gia và học giả là xu thế tất yếu. Mối quan hệ biện chứng giữa “xây” và “chống” chính là thể hiện ở đây. Những người làm công tác tư tưởng, lý luận trên không gian mạng đòi hỏi phải có tầm cao của tư tưởng, độ sắc nét của các nhận định, đánh giá và độ vững chắc của lý luận. Giống như Bác Hồ trước đây nói ai cũng hiểu, ai cũng thấm thía, những người làm công tác tư tưởng, lý luận cũng phải học theo phương pháp diễn ngôn đó. Nói một cách hình ảnh, lý luận không chỉ như một món ăn cầu kỳ dành cho khách sành ăn trong nhà hàng sang trọng, mà cần thiết hơn, nó còn phải là món ăn đường phố cho người lao động, món ăn hàng ngày trong mỗi gia đình. Những vấn đề lý luận mà quần chúng quan tâm cần được giải thích rõ ràng, cặn kẽ bằng ngôn ngữ của quần chúng; người làm lý luận phải nắm vững cách nói của quần chúng, sử dụng ngôn ngữ sinh động, gần gũi với nhiều hình thức đa dạng để dễ được quần chúng chấp nhận, để lý luận thực sự bén rễ và đi vào suy nghĩ,cũng như trở thành hành động cụ thể, thiết thực của người dân.
Ba là,truyền thông tư tưởng trên không gian mạng cần hay hơn, hấp dẫn hơn.
Thời đại thông tin ngày nay tạo ra những thay đổi lớn trong cấu trúc dư luận, thay đổi cách thức và phương tiện truyền thông, thậm chí còn tái tạo lại “hệ sinh thái” mới của nội dung. Trên không gian mạng, mọi người không muốn xem, nghe các bài viết một chiều.Trên không gian mạng, quyền lực của các tổ chức không tác động được đến cơ chế tiếp cận thông tin. Đồng thời, quan niệm truyền thông truyền thống lấy tin tức làm trung tâm đã dần thay đổi, chức năng giáo dục, chức năng tư tưởng của truyền thông ngày càng giảm đi, đồng thời các chức năng giao tiếp, chức năng giải trí ngày càng tăng lên. Nội dung thể hiện luận điểm của những người tham gia không gian mạng có xu hướng ngày càng ngắn lại, từ những cuộc tranh luận hàng trăm trang trên các diễn đàn trước kia, giờ đây được rút gọn, cá nhân hoá thành các bài dài trên trang cá nhân (blog), rồi rút ngắn hơn nữa ở các tút trên Facebook, rồi các thông điệp cực ngắn trên Twitter. Bản thân các video dài trên Youtube đã ngắn đi nhiều ở các nền tảng video khác, đặc biệt là ở TikTok với độ dài chỉ khoảng 15 giây. Với không gian mạng như vậy thì các bài nghiên cứu lý luận, các bài viết mang tính tư tưởng như hiện nay dường như dài và khô khan với cư dân mạng. Chính vì vậy, truyền thông tư tưởng trên không gian mạng muốn đạt hiệu quả thì thông tin cần phải thực sự hấp dẫn, thu hút và lấy được sự yêu thích của không chỉ đảng viên, mà cả của người dân, đặc biệt là giới trẻ./.
Giải pháp Phòng, chống âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch phản động
Là một trong những nước XHCN còn lại đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược DBHB và không loại trừ khả năng tiến hành CMM để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta chỉ ra là: “Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ ta”. Đây là nguy cơ lớn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.
Để phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, LLVT và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ đoạn DBHB và CMM của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra CMM trong mọi tình huống. Nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện CMM.
Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến CMM ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn nhằm thực hiện CMM ở Việt Nam.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm mống, nguy cơ CMM ở Việt Nam.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức và giành chiến thắng./.
Đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng
Trước tình hình trong nước, thế giới và khu vực, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, làm lẫn lộn đúng - sai, thật - giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch; bôi nhọ, vu khống lãnh tụ, kích động bạo lực, lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin.
Song do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như tác hại của quan điểm sai trái, thù địch đối với xã hội còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn mang tính hình thức, thụ động, chưa đa dạng, phong phú về nội dung, có nơi, có lúc còn thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót; việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện ở một số nơi còn chậm, kéo dài, vượt cấp, gây bức xúc trong nhân dân… là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch với nước ta.
Thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng 2 trang mạng xã hội là Facebook và Youtube để đăng, chia sẻ những thông tin sai trái, cơ hội chính trị lên không gian mạng Internet. Thủ đoạn thường được chúng sử dụng đó là dùng những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống với các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này. Ngoài ra, các đối tượng sử dụng trang Blog để nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước, khi nó kết hợp với mạng xã hội, các bài viết trên Blog được chia sẻ lên mạng xã hội tạo sức lan tỏa lớn.
Để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn, có sự suy xét khi tiếp cận những thông tin nhạy cảm, ở những thời điểm diễn ra các sự kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin. Đặc biệt, các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân cần phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp chỉ rõ các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu phản động thù địch, từng bước cô lập chúng trên mạng xã hội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt trong học tập, công tác, lao động sản xuất, trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày... “lấy cái đẹp để dẹp cái xấu”. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, cũng là góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngăn chặn hình thành điểm nóng trên không gian mạng
Những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống internet và mạng xã hội, hầu hết người dân đã có điều kiện tiếp cận với không gian mạng tràn ngập thông tin và hình ảnh được cập nhật liên tục. Bên cạnh những mặt tích cực, không gian mạng hiện nay còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về những thông tin giả mạo, trái chiều, thất thiệt từ những tên tội phạm, thế lực thù địch, những phần tử cơ hội… Ðáng chú ý, một bộ phận người dân do thiếu hiểu biết, cả tin cho nên vẫn còn nhầm lẫn, chưa phân biệt được đúng, sai khi tiếp nhận các thông tin xấu độc này. Ðánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm trên không gian mạng, Bộ Công an và công an các địa phương đã triển khai nhiều kế hoạch rà soát, phát hiện sớm để xử lý những điểm nóng trên không gian mạng, không để tình hình diễn biến phức tạp.
Tại địa bàn các tỉnh, thành phố trên cả nước thời gian gần đây, tình hình an ninh chính trị nội bộ, tư tưởng cán bộ và nhân dân cơ bản ổn định, chưa phát hiện các khuynh hướng chính trị cực đoan, công khai chống đối, song vẫn còn tiềm ẩn vấn đề phức tạp như: Công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, việc thực hiện chế độ chính sách tại một số nơi còn chưa kịp thời, chưa thỏa đáng dẫn đến đơn thư khiếu nại, tố cáo kéo dài; tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ còn diễn ra ở một số cơ quan, địa phương; cán bộ, đảng viên, công chức sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ… Thông qua không gian mạng, một số đối tượng xấu lợi dụng để phát tán tài liệu có nội dung xấu, hạ uy tín lãnh đạo và các cơ quan nhà nước; lợi dụng các vấn đề nóng đang được đông đảo nhân dân quan tâm để xuyên tạc, làm sai lệch bản chất hòng lôi kéo, dụ dỗ, hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực. Thời gian qua, các đơn vị nghiệp vụ của Công an trên cả nước đã rà soát trên không gian mạng, lập danh sách, thống kê các hội nhóm trên mạng xã hội thường xuyên đưa tin nhạy cảm về chính trị, phức tạp về an ninh trật tự; các trang mạng của các tổ chức xã hội dân sự đối lập; các diễn đàn, hội nhóm đông thành viên có liên quan đến tình hình an ninh chính trị, kịp thời phát hiện các cá nhân thường xuyên hoạt động đăng tải, chia sẻ, bình luận các bài viết có nội dung xấu trên không gian mạng, từ đó kịp thời triển khai công tác xác minh, ngăn chặn các hoạt động phức tạp; những trường hợp có biểu hiện bất mãn, tiêu cực, thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết có nội dung trái chiều, tham gia các nhóm, diễn đàn mạng xã hội phức tạp, phản động…
Cùng với công tác đấu tranh, xử lý, cần phối hợp với ngành giáo dục làm tốt công tác tuyên truyền cho nhóm thanh, thiếu niên, vì đây là nhóm tuổi tiếp cận với không gian mạng thường xuyên, liên tục. Ðồng thời, nêu ra một số biện pháp phòng ngừa để các em học sinh chủ động phòng tránh loại tội phạm này, cụ thể như: Giữ bí mật thông tin cá nhân, số điện thoại, địa chỉ nhà ở, thông tin tài khoản ngân hàng, tài khoản các dịch vụ trên in-tơ-nét, không chia sẻ, bình luận những thông tin về lịch sử, chính trị của đất nước không đúng sự thật, cần phải tỉnh táo trước các thông tin bịa đặt sai sự thật. Mọi thông tin liên quan tội phạm đề nghị kịp thời thông báo đến cơ quan công an nơi gần nhất để được xử lý../
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét