1. Bảo đảm quyền con người luôn là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta
Đảng
và Nhà nước ta luôn khẳng định, bảo đảm quyền con người (nhân quyền) là mục tiêu
của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), là bản chất của xã hội ta. Vì thế, suốt 25
năm đổi mới, nhất là những năm gần đây, công tác nhân quyền được đặc biệt quan
tâm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhận thức về nhân quyền trong xã
hội, đặc biệt là trong cán bộ công chức, ngày càng được nâng cao. Các cấp, các
ngành đã ngày càng quan tâm hơn đến công tác này. Bên cạnh Ban chỉ đạo nhân
quyền của Chính phủ, với hoạt động ngày càng đi vào nền nếp và chủ động, nhiều
địa phương cũng đã thành lập được Ban chỉ đạo nhân quyền cấp tỉnh/thành phố,
với sự tham gia của nhiều cơ quan, ban ngành. Sự phối hợp hoạt động của các
cấp, các ngành, các địa phương cũng ngày càng đồng bộ và chặt chẽ hơn... Đạt
được những thành tựu nói trên có sự đóng góp của nhiều cơ quan, đơn vị.
Trong
tiến trình hội nhập quốc tế, theo quan điểm của Đảng, Việt Nam có thể và cần
phải giành lại thế chủ động trên lĩnh vực nhân quyền. Ngày nay xu hướng toàn
cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ; không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà các
lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực nhân quyền cũng diễn ra xu hướng này. Dù muốn hay
không, mọi quốc gia đều bị cuốn vào và không khỏi bị tác động bởi tiến trình
này. Các quá trình này còn bị hướng lái và thúc đẩy mạnh mẽ bởi Mỹ và Phương
Tây; cả trên phạm vi toàn cầu cũng như ở mỗi khu vực và tiểu khu vực. Chúng ta
cần chủ động trong mọi hoạt động, kể cả thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia
nhằm tránh bị áp đặt, bị lôi cuốn thụ động vào quá trình phức tạp, nhạy cảm,
khó xử lý, nếu xử lý sai sẽ có nhiều hậu quả khôn lường.
Điều
đáng lưu ý là việc thiết lập cơ quan nhân quyền quốc gia phải đáp ứng được một
số tiêu chuẩn quốc tế về cơ chế nhân quyền quốc gia, tương thích với xu hướng
quốc tế và khu vực. Thông qua các hoạt động đối nội và đối ngoại, cơ quan này
có thể góp phần tích cực vào các hoạt động tuyên truyền về thành tựu nhân quyền
Việt Nam; cũng như trong hợp tác và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền.
Hiện
nay, hơn 120 nước trên thế giới đã có cơ quan nhân quyền quốc gia. Trong khu
vực Đông Nam Á, ngoài 5 nước đã có ủy ban nhân quyền quốc gia, một số quốc gia
cũng đang chuẩn bị theo xu hướng này. Bên cạnh đó, các quốc gia thuộc ASEAN
cũng đang tiếp tục hoàn thiện các cơ chế hiện có, đặc biệt là sự tham dự của
các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các tổ chức khu vực mà Việt Nam là thành viên,
như APEC, ASEM... đều đưa nhân quyền thành mối quan tâm chính, một hoạt động
chủ yếu, thường xuyên. Bối cảnh trên đòi hỏi chúng ta cần thiết lập một cơ quan
nhân quyền đủ sức đáp ứng các yêu cầu đối ngoại.
Căn
cứ vào bối cảnh và thực tiễn chính trị Việt Nam, việc xây dựng cơ quan nhân
quyền quốc gia theo đúng, đầy đủ các quy định của Nguyên tắc Paris là chưa phù
hợp. Tuy nhiên, việc xây dựng một thiết chế độc lập có chức năng giám sát việc
thực hiện quyền con người ở nước ta là cần thiết. Thiết chế ấy nên trực thuộc
Quốc hội.
Thực
tiễn ở Việt Nam cho thấy, để thực hiện tốt hơn nữa việc bảo vệ nhân quyền, cần
có một cơ quan đặc trách về vấn đề này. Một cơ quan như vậy cần được tổ chức
dựa trên các quy định và thông lệ quốc tế, song phải đảm bảo giữ vững được định
hướng XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng (nghĩa là cơ quan này cần phải đảm bảo
tin cậy về chính trị và chuyên môn), tuân thủ các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nhân quyền. Để thành lập một cơ quan như vậy phải có lộ trình chuẩn
bị từng bước về cơ sở pháp lý, nhân sự và điều kiện hoạt động.
Để
đáp ứng được yêu cầu nói trên, trước mắtkhông nên tập trung tất cả các chức
năng theo quy định của Nguyên tắc Paris vào một cơ quan, mà nên phân các chức
năng đó cho một số cơ quan đủ năng lực chuyên môn và uy tín chính trị đảm nhiệm. Khi các cơ quan hoạt
động ổn định, có thể sáp nhập vào một cơ quan quốc gia.
Những
điểm trình bày ở trên là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan
trọng để tiếp tục hoàn thiện các cơ quan nhân quyền hiện có và đề xuất việc xây
dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam.
2.
Một số mô hình thiết chế độc lập khả thi về thực hiện quyền con người
Trong
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, việc tiếp tục kiện toàn về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan nhà nước; bao gồm Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp là
một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm quyền con người. Đây
là một nhiệm vụ luôn được quan tâm và đặc biệt được coi trọng trong bối cảnh
đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Thông qua việc đổi mới các hoạt động
của Quốc hội, các chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, việc bảo
đảm quyền con người ngày càng được mở rộng và nâng cao. Điều này cho thấy, việc
tìm kiếm, bổ sung các cơ chế mới chỉ có tác dụng khi bản thân các nhánh quyền
lực cũng nhận thức rõ và không ngừng đổi mới chính mình. Ngược lại, dù có bổ
sung thêm bao nhiêu cơ chế đi chăng nữa, nhưng bản thân nhà nước không chuyển
động thì các cơ chế mới cũng mất tác dụng và trở nên vô nghĩa.
Với
ý nghĩa ấy, việc xây dựng, kiện toàn các cơ quan nhân quyền
phải gắn liền với đổi mới bản thân các cơ quan nhà nước, gắn liền với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
2.1.
Kiện toàn các cơ quan nghiên cứu, giáo dục nhân quyền
Nhận
thức về nhân quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi nhân quyền. Đến
nay đã có thêm một số cơ sở giáo dục đào tạo về quyền con người, trong đó có cả
đào tạo ở bậc đại học, theo các chương trình và nội dung khác nhau. Nếu không
được quan tâm kịp thời, các quan điểm nhân quyền tư sản, thông qua các đối
tượng dự học, không khỏi ảnh hưởng nhanh tới các tầng lớp trong xã hội. Do vậy,
kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nghiên cứu, giáo dục nhân quyền
là hết sức cần thiết nhằm tạo sự thống nhất nhận thức trong xã hội về quyền con
người.
a)
Đề nghị Trung ương giao cho một cơ quan chủ trì (phối hợp với các cơ quan khác,
như Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung
ương, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - đào tạo, Hội đồng lý
luận Trung ương…) nghiên cứu xây dựng một “giáo trình chuẩn” và tổ chức triển
khai việc giáo dục nhân quyền thống nhất, đồng bộ trong cả nước. Giáo trình này
được xây dựng trên quan điểm đổi mới của Đảng ta về quyền con người.
b)
Cần có một chiến lược, quan niệm và lộ trình cụ thể cho công tác giáo dục nhân
quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trước mắt, cùng với việc mở rộng tới
mọi đối tượng học tập tại hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, các trường chính trị tỉnh, trung tâm chính trị huyện/thị, cần nghiên
cứu để giảng dạy nhân quyền trong các trường đại học, cao đẳng, nhằm trang bị
tri thức nhân quyền đúng đắn cho học sinh, sinh viên. Cần kết hợp việc đào tạo
cơ bản, chính quy với bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày, sao cho tất cả cán bộ
trong bộ máy nhà nước đều được trang bị những kiến thức cơ bản về quyền con
người.
c)
Từng bước đào tạo, hình thành được đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về quyền
con người (đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ về nhân quyền)[1].
Cần coi trọng việc tập huấn về nhân quyền cho đội ngũ phóng viên, báo chí; tập
hợp những cây bút tâm huyết, trang bị chuyên sâu về nhân quyền, hình thành đội
ngũ đủ sức đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền...
d)
Cùng với việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và những vấn đề
đương đại đang nổi lên hiện nay, Trung ương nên giao cho một cơ quan, chẳng hạn
như Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc Hội đồng lý luận
trung ương, chủ trì một chương trình nghiên cứu tổng thể về quyền con người.
Bên cạnh những vấn đề cơ bản về quyền con người (theo quan điểm của Liên hiệp
quốc) và xu hướng nhân quyền hiện nay, Chương trình nghiên cứu này cần làm rõ
vị trí vấn đề quyền con người trong chủ nghĩa xã hội; vấn đề quyền con người
trong xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo theo định hướng XHCN; mối quan hệ giữa
Hiến pháp với các quy định pháp luật khác về quyền con người, các điều kiện bảo
đảm quyền con người; cơ chế giám sát nhân quyền ở Việt Nam; cần nghiên cứu,
hình thành những luận cứ khoa học trên cơ sở pháp lý quốc tế và thực tiễn quốc
gia phục vụ việc bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền...
e)
Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học với các quốc gia, trước hết là các nước
có cùng quan điểm với Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Chú trọng tham khảo kinh
nghiệm tổ chức nghiên cứu và kết quả nghiên cứu nhân quyền của các nước như
Trung Quốc, Nga…
2.2.
Kiện toàn các cơ quan hiện đang tham gia bảo vệ nhân quyền
Cùng
với việc không ngừng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm
công vụ, thông qua các chương trình đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp, tư
pháp, cần tiếp tục kiện toàn các cơ quan hiện đang tham gia bảo vệ quyền con
người.
a)
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ nhằm
đảm đương tốt hơn việc chỉ đạo mọi hoạt động nhân quyền; đặc biệt là nhiệm vụ
bảo đảm nhân quyền.
Trong
khi chưa thành lập được cơ quan nhân quyền quốc gia, cần đầu tư xây dựng một cơ
quan giúp việc cho Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ, với đội ngũ cán bộ tương
xứng với nhiệm vụ đang đặt ra hiện nay, có khả năng phối hợp nghiên cứu, giảng
dạy và đáp ứng tốt các yêu cầu đối nội và đối ngoại của đất nước (ở Trung Quốc,
Hội nghiên cứu nhân quyền có 166 người; Viện Nhà nước - pháp luật của Liên bang
Nga có 350 người…với nhiều chuyên gia giỏi được thu hút từ nhiều ngành/lĩnh vực).
b)
Kiện toàn các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, tư vấn, trợ giúp Chính
phủ trên lĩnh vực nhân quyền. Đó là Bộ Tư pháp, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ;
Ban Tôn giáo; các Vụ/Cục về giới, về quyền trẻ em, về việc làm thuộc Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội …
c)
Thành lập chức danh nhân quyền tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án
nhân dân tối cao nhằm giúp người đứng đầu các cơ quan này theo dõi, xử lý các
vấn đề nhân quyền thuộc thẩm quyền.
2.3.
Bổ sung cơ chế bảo vệ nhân quyền trên cơ sở các tổ chức hiện có
Kiện
toàn và tăng thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, phản
biện Chính phủ về việc thực thi nhân quyền và các cơ quan tư pháp trong hoạt
động xét xử. Đó là: Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban
Đối ngoại, Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban các Vấn đề xã
hội, Ủy ban Thanh thiếu niên và nhi đồng thuộc Quốc hội. Hình thành cơ chế phối
hợp về hoạt động giám sát và thúc đẩy quyền con người của các ủy ban thuộc Quốc
hội.
Cần
thu hút sự tham gia tích cực hơn của một số Ban thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; đồng thời bổ sung thêm một số cơ quan mới như: Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Luật gia, Hội Luật sư...
Các
phát hiện, tư vấn, kiến nghị của các cơ quan này có thể được chuyển tới Ban Bí
thư, Thường vụ Quốc hội để kịp thời giải quyết.
2.4.
Cơ quan nhân quyền quốc gia dựa trên Nguyên tắc Paris
Về
lâu dài, cần nghiên cứu toàn diện nhằm tiến tới thành lập Ủy ban nhân quyền
quốc gia. Đây là mô hình được nhiều nước lựa chọn so với mô hình cơ quan Thanh
tra Quốc hội.
Về
cơ sở pháp lý, theo quy định của Nguyên tắc Pari, dù
theo mô hình nào thì các cơ quan này cũng phải được thành lập từ một quy định
trong Hiến pháp hoặc trên cơ sở một đạo luật riêng biệt. Thực tiễn Việt Nam cho
thấy, việc ban hành một đạo luật là thích hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh đang
tiến hành sửa đổi Hiến pháp hiện nay, có thể bổ sung đoạn văn sau vào Hiến pháp
mới “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, có cơ chế bảo vệ quyền con
người”. Luận điểm này vừa nhằm khẳng định quyết tâm chính trị của Nhà nước Việt
Nam trong việc bảo vệ nhân quyền, vừa như báo hiệu trước việc xây dựng một cơ
chế bảo vệ nhân quyền mới trong tương lai.
Cơ
quan này chỉ có chức năng theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi nhân quyền,
chứ không có chức năng trực tiếp giải quyết các khiếu nại, tố cáo những vi phạm
nhân quyền. Phạm vi xem xét các vấn đề nhân quyền có thể bao gồm: Xem xét việc
ban hành luật và văn bản dưới luật có phù hợp với Hiến pháp hay không; việc
thực thi nhân quyền của Chính phủ; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử có theo
đúng trình tự, thủ tục pháp luật và theo hướng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người hay không. Cơ quan này còn có trách nhiệm xem xét báo cáo nhân quyền quốc
gia; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc gia với các quy định của
công ước nhân quyền và đề xuất kiến nghị.
Cơ
quan này được đảm bảo tính độc lập tương đối, nhưng không “đối lập”, “đối
trọng” với Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Do đặc thù chính trị ở
Việt Nam, hoạt động của cơ quan này phải nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền con
người, không phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Cần
lựa chọn những người đã có nhiều năm công tác trên lĩnh vực bảo vệ pháp luật,
có chuyên môn về nhân quyền, có uy tín xã hội; đặc biệt là kiên định với vai
trò lãnh đạo của Đảng, định hướng XHCN, có bản lĩnh trong xử lý công việc và
bảo vệ lẽ phải (Chủ tịch Uỷ ban nhân quyền quốc gia của các nước đều có mối
quan hệ tốt, tin cậy từ Tổng thống, hay Thủ tướng Chính phủ).
Kinh
nghiệm của Trung Quốc là Hội nhân quyền Trung Quốc - mặc dù được lãnh đạo chặt
chẽ bởi Đảng cộng sản (người đứng đầu - Chủ tịch Hội - thường là Bộ trưởng
đã nghỉ hưu, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký có hàm Thứ trưởng thuộc Văn phòng
Nhà nước; các thành viên vẫn giữ chức vụ thuộc một Ban Đảng, như Ban Tuyên
huấn, hoặc cơ quan Nhà nước khác), nhưng tổ chức này vẫn được xem là tổ chức
phi chính phủ, có quy chế tư vấn tại Hội đồng Kinh tế, xã hội của Liên hiệp
quốc (ECOSOC); đặc biệt, các thành viên của tổ chức này có uy tín cao trong xã
hội Trung Quốc cũng như trên trường quốc tế - cả về phẩm hạnh cũng như tri thức
nhân quyền. Kinh nghiệm Inđônêxia, Malaixia, Nga về bổ nhiệm chức vụ này cũng
tương tự như vậy. Cách bố trí nhân sự này rất cần được tham khảo trong xây dựng
và vận hành cơ quan nhân quyền ở Việt Nam.
2.5. Các
phương án về cơ quan nhân quyền quốc gia
Xuất
phát từ thực tiễn phức tạp của vấn đề nhân quyền ở nước ta trong bối cảnh hiện
nay, việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia cần có sự chuẩn bị đầy đủ về
kiến thức, kinh nghiệm, cơ sở pháp lý, chuyên gia, nhân sự... cho bộ máy. Lộ
trình xây dựng cơ quan này ít nhất là 5-7 năm, qua hai giai đoạn: Giai đoạn
trước mắt, khoảng năm năm tập trung thành lập và củng cố cơ quan Thanh tra về
nhân quyền, củng cố, hoàn thiện các cơ quan nhà nước liên quan đến vấn đề nhân
quyền, chuẩn bị các tiền đề cần thiết. Giai đoạn thứ hai, thành lập và hoàn
thiện cơ quan nhân quyền quốc gia trên cơ sở bộ máy, đội ngũ cán bộ các cơ quan
nhân quyền đã tồn tại.
2.5.1.
Phương án 1 (trước mắt): Thành lập cơ quan Thanh tra Quốc hội về nhân quyền.
-
Cơ sở pháp lý: Ra đời theo một đạo luật của Quốc hội; trực thuộc Quốc hội hoặc
Ủy ban Thường vụ của Quốc hội; người đứng đầu cơ quan Thanh tra do Quốc hội
thông qua trên cơ sở đề xuất của Chủ tịch nước.
-
Chức năng, nhiệm vụ: Theo dõi, tư vấn cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; giám sát các hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp liên quan đến vấn đề tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền
con người; xem xét, đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng
năm về tình hình thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm
quyền; tiếp nhận và xử lý các đơn khiếu kiện, tố cáo liên quan đến những sai
phạm trong thi hành và bảo vệ pháp luật, liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân (thực thi chức năng hiện nay của Ban Dân nguyên của
Quốc hội; một phần chức năng của Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban các
Vấn đề xã hội...); thúc đẩy việc giáo dục nhân quyền; hợp tác quốc tế trên lĩnh
vực giáo dục nhân quyền, xây dựng năng lực và hỗ trợ thực hiện nhằm thúc đẩy
các quyền con người với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế có
liên quan.
-
Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) Là một vị đại biểu Quốc hội đương nhiệm; 2)
Từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền (nên là một Bộ trưởng hoặc tương
đương đã nghỉ quản lý); 3) có phẩm chất đạo đức, am hiểu lĩnh vực nhân quyền và
dày dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo cơ chế độc lập với các cơ quan quyền lực
nhà nước; 5) được miễn trừ trách nhiệm pháp lý mà không bị truy tố hay xem xét
bởi Chủ tịch nước, Thủ tướng do thực hiện chức năng và thẩm quyền của mình; 6)
được hưởng lương trực tiếp từ ngân sách nhà nước do Quốc hội thông qua (chế độ
như một Phó Thủ tướng)[2].
Các thành viên khác gồm những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học...
đã được thử thách trong công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà
Nẵng) và miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh); cơ quan này không bị hành chính hóa
trong hoạt động.
Có
thể thay thế mô hình này bằng chức danh Văn phòng Nhân quyền quốc gia trực
thuộc Chủ tịch nước (trong
điều kiện tăng thẩm quyền cho Chủ tịch nước như đã nêu trong Cương lĩnh sửa đổi
của Đảng và Hiến pháp sửa đổi tới đây).
2.5.2.
Phương án 2 (trong dài hạn): Thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia.
-
Cơ sở pháp lý: ra đời theo một đạo luật của Quốc hội; trực thuộc Quốc hội hoặc
Ủy ban Thường vụ của Quốc hội; người đứng đầu Ủy ban (Chủ tịch) do Quốc hội
thông qua trên cơ sở đề xuất của Chủ tịch nước.
-
Chức năng, nhiệm vụ: theo dõi, tư vấn cho Chủ tịch nước, Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; nhận và giải
quyết đơn khiếu kiện (sau khi đã sử dụng hết các trình tự thủ tục mà vẫn không
đạt kết quả mong đợi); phát hiện bản chất vụ việc và đưa ra khuyến nghị với các
cơ quan có thẩm quyền về cách thức giải quyết (không được trao chức năng điều
tra); xem xét, đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng năm
về tình hình thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm quyền;
hợp tác quốc tế với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế trên
lĩnh vực giáo dục, xây dựng năng lực... về quyền con người.
-
Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) Từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền
(nên là một Bộ trưởng hoặc tương đương đã nghỉ quản lý) và hiện vẫn đang là
đảng viên; Được Chủ tịch nước đề xuất và Quốc hội thông qua theo đa số phiếu
tán thành; 3) có phẩm chất đạo đức, trình độ/am hiểu lĩnh vực nhân quyền và dày
dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo cơ chế hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng
của các nhánh quyền lực nhà nước; 5) được miễn trừ trách nhiệm pháp lý mà không
bị truy tố hay xem xét bởi Chủ tịch nước, Thủ tướng do thực hiện chức năng và
thẩm quyền của mình; 6) được hưởng lương trực tiếp từ ngân sách nhà nước do
Quốc hội thông qua (như các đại biểu Quốc hội cao cấp khác). Các thành viên
khác gồm những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học... đã được thử
thách trong công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà Nẵng) và miền
Nam (Thành phố Hồ Chí Minh); cơ quan này không phải là cơ quan hành chính,
không bị hành chính hóa trong hoạt động.
Ủy
ban này trước mắt có thể trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có chức năng xem xét các thông tin
liên quan đến sai phạm của cán bộ thực thi công vụ cũng như trong quá trình tố
tụng và có thể độc lập tương đối với các bộ khác trong nội các.
2.5.3.
Phương án 3 (ngắn hạn): Thành lập Hội đồng Nhân quyền quốc gia
-
Cơ sở pháp lý: ra đời theo một đạo luật của Quốc hội hay Lệnh (Order) hoặc Nghị
định (Decree) của Chủ tịch nước; trực thuộc Chủ tịch nước; người đứng đầu Hội
đồng (Chủ tịch) do Chủ tịch nước bổ nhiệm với chức vị tương đương bộ trưởng.
-
Chức năng, nhiệm vụ: theo dõi, tư vấn cho Chủ tịch nước và các cơ quan quyền
lực nhà nước về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; nhận đơn khiếu kiện
(sau khi đã sử dụng hết các trình tự thủ tục mà vẫn không đạt kết quả mong
đợi); phát hiện bản chất vụ việc và đưa ra khuyến nghị với các cơ quan có thẩm
quyền về cách thức giải quyết (không được trao chức năng điều tra); xem xét,
đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng năm về tình hình
thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm quyền; hợp tác quốc tế
trên lĩnh vực giáo dục, phổ biến, tuyên truyền, xây dựng năng lực,... về quyền
con người với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế có liên quan.
-
Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền
(nên là một Bộ trưởng hoặc tương đương đã nghỉ quản lý) và hiện vẫn đang là
đảng viên; 2) được Chủ tịch nước bổ nhiệm trực tiếp; 3) có phẩm chất đạo đức,
trình độ/am hiểu lĩnh vực nhân quyền và dày dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo
cơ chế hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của các nhánh quyền lực nhà nước; 5)
được miễn trừ trách nhiệm pháp lý một phần mà không bị truy tố hay xem xét bởi
Thủ tướng do thực hiện chức năng, thẩm quyền của mình; các thành viên khác gồm
những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học... đã được thử thách trong
công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (Thành phố
Hồ Chí Minh); cơ quan này không bị hành chính hóa trong hoạt động