Trong khi Trung Quốc nhiều lần lên tiếng khẳng định chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì cho đến năm 1988, không có một văn bản pháp lý quốc tế nào chính thức xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi xin giới thiệu một số tư liệu và chứng cứ lịch sử chứng minh điều đó
Ngày 27/11/1943, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, những người đứng đầu các nước Anh, Hoa Kỳ và Cộng hòa Trung Hoa, đại diện lúc đó là Tưởng Giới Thạch, đã họp tại Cairo, Thủ đô Ai cập và đã ra một bản tuyên bố gọi là Tuyên bố Cairo.
Tuyên bố Cairo có đoạn viết: “Mục đích của họ là Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ Nhất năm 1914 và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa”[1].
Như vậy là về phần lãnh thổ của Trung Quốc, Tuyên bố Cairo đã không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau đó, tại Hội nghị Potsdam ngày 25/7/1945, những người đứng đầu ba nước Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh lại ra tuyên bố khẳng định các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thi hành.
Năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch đến một số đảo của quần đảo Hoàng Sa và các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Đây chỉ là hành động nhằm giải giáp quân đội Nhật Bản ở đây theo quyết định của Hội nghị Potsdam là Trung Quốc chịu trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật ở khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 chứ hoàn toàn không có ý nghĩa xác định hoặc thu hồi chủ quyền của Trung Hoa dân quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ ngày 4 đến ngày 8/9/1951, Hội nghị San Francisco được triệu tập đã bàn về việc ký hòa ước với Nhật Bản, có 51 quốc gia tham dự. Dự thảo Hòa ước đưa ra hội nghị, trong đó Điều 2 của chương II có ghi: “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền danh nghĩa và các đòi hỏi của mình đối với các lãnh thổ được nêu trong các khoản của điều này”.
a,Triều Tiên
b,Đài Loan, Bành Hồ
c, Kurile, phần phía Nam đảo Sakkalin
d, Các đảo ở Thái Bình Dương
e, Châu Nam cực
f, Các đảo thuộc quần đảo Spratly và Paracel” (tức Hoàng Sa và Trường Sa).
Tại phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951, Hội nghị đã tán thành quyết định của Chủ tịch Hội nghị, không chấp thuận đề nghị bổ sung “đòi Nhật Bản công nhận chủ quyền hoàn toàn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Manchuris (Mãn Châu ), đảo Đài Loan (Formusa) với tất cả các đảo kế cận nó, quần đảo Penlinletao (Pescadores tức Bành Hồ), quần đảo Tunshatuntao (quần đảo Pratas), cũng như đối với quân đảo Sishatuntao và Chunshatuntao (quần đảo Hoàng sa, nhóm đảo Amphitrites, bãi cát ngầm Maxfield) và quần đảo Nanshatuntao, kể cả quần đảo Trường Sa và Nhật từ bỏ các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với các vùng lãnh thổ nêu trong điểm này”.
Quyết định này của Hội nghị đã được thông qua với 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng.
Các nước bỏ phiếu thuận có Argentina, Australia, Bolivia, Brazil, Campuchia, Canada, Sri Lanka, Chile, Colombia, Costarica, Cuba, Dominicana, Ecuador, Ai cập, Elsalvado, Ethiopia, Pháp, Hy Lạp, Goatemala, Haiti, Onduras, Indonesia, Iran, Iraq, Lào, Liban, Liberia, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Nicaragoa, Na Uy, Pakistan, Panama, Paraguay, Peru, Philippines, Arab Saudi, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ, Việt Nam (Quốc gia Việt Nam), Nhật Bản.
Như vậy, cuối cùng, Điều 2 chương II của Hòa ước vẫn giữ nguyên như dự thảo và gồm 5 khoản sau đây:
a, Nhật Bản, trong khi công nhận nền độc lập của Triều Tiên, từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với Triều Tiên, kể cả các quần đảo Quelpart, Port Hamilton và Dagelet”
b, Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với vùng Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ)
c, Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với các quần đảo Kurile, đảo Sakhalin và quần đảo nằm sát nước Nhật Bản mà ở đó Nhật Bản đã giành được chủ quyền theo Hiệp ước Portsmouth ngày 5/9/1905”.
d, Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi liên quan tới chế độ ủy trị của Hội quốc liên và chấp nhận quyết định ngày 2/4/1947 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc gia hạn chế độ ủy trị đối với các đảo Thái Bình Dương trước đây dưới quyền ủy trị của Nhật Bản”.
e, Nhật Bản từ bỏ tất cả các đòi hỏi muốn có bất kỳ quyền hoặc tước hiệu hoặc lợi ích nào liên quan tới bất cứ phần nào của vùng Nam cực, dù đó là các hoạt động của các công dân Nhật hoặc các hình thức khác”.
f, Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel)[2].
Như vậy, các đất đai mà Tuyên bố Cairo xác nhận và Hòa ước San Francisco khẳng định lại là của Trung Quốc chỉ bao gồm Đài Loan, Bành Hồ và không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.
Việc Hòa ước San Francisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và Hoàng Sa, Trường Sa thành hai điều khoản riêng biệt, tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc
Cũng tại Hội nghị San Francisco, ngày 7/9/1951, Trưởng đoàn đại biểu chính quyền Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã tuyên bố rằng: từ lâu, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam và “cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo luôn luôn thuộc về Việt Nam”[3].
Tuyên bố của Trưởng đoàn Trần Văn Hữu đã không gặp phải sự chống đối và bảo lưu nào của đại diện tất cả 51 quốc gia tham dự hội nghị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét