Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

ĐẤU TRANH VỚI QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG CỦA NƯỚC TA TRONG HƠN 90 NĂM QUA

 Thành quả cách mạng của nước ta trong hơn 90 năm qua, là kết quả của lớp lớp thế hệ người Việt Nam anh dũng chiến đấu hy sinh để giành độc lập cho dân tộc từ khi có Đảng, là kết quả cuộc đấu giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong phạm vi bài viết này tác giả tập trung làm rõ những luận cứ khoa học để đấu tranh với quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành quả cách mạng của nước ta trong hơn 90 năm qua, bảo vệ thành quả cách mạng vẽ của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành chặt chẽ của Nhà nước, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước ta đã và đang đạt được những thành tựu rực rỡ, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, và như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ như ngày hôm nay”. Thế nhưng, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội về chính trị với dã tâm và những hằn học sẵn có, chúng luôn tìm cách phủ nhận những thành quả cách mạng mà nước ta đã đạt được trong hơn 90 năm vừa qua. Đây là một thủ đoạn chính trị không có gì mới mẽ của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trong thời gian vừa qua. Trong bối cảnh, chúng ta đang chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIVcủa Đảng, để hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các thế lực thù địch đã cố tình đổi trắng thay đen, phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta, phủ nhận thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng trong hơn 30 vừa qua. Vì vậy, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch đó là hết sức cần thiết và cấp bách, nếu không sẽ ảnh hưởng tới uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của cả một chế độ. Trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn để đấu tranh với những luận điểm cực kỳ nham hiểm nói trên:

Một là, âm mưu nham hiểm phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

Trước hết, chúng tìm cách phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà toàn thể dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được: Các thế lực thù địch luôn mạnh miệng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”. Vì vậy, “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ từ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”. Chúng cho rằng, những thắng lợi mà Việt Nam giành được trong quá khứ chẳng qua chỉ là “đó là sự ăn may, vì lúc này, phát xít Nhật đã thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”, những điều này dường như đã trở thành các chiêu trò thuyết giảng của các thế lực thù địch.

Tiếp theo, chúng trắng trợn phủ nhận thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta: Cuộc chiến tranh Việt Nam (cách gọi của chúng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta) là “cuộc chiến in đậm dấu ấn dân tộc”, “cuộc nội chiến giữa một bên là chính quyền Sài Gòn, được Mỹ và một số nước phương Tây hậu thuẫn và một bên là chính quyền Hà Nội, được Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ”, v.v.. Chúng cho rằng: “Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, người Mỹ không hề muốn cai trị người Việt Nam, người Mỹ can thiệp vào Việt Nam là để giải phóng chứ không phải để cai trị; hay chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản và không cộng sản”. Từ đó, chúng đi đến kết luận rằng: “Cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất là không cần thiết và hoàn toàn có thể tránh khỏi”. Chúng còn cho rằng: “Cuộc chiến tranh (Việt Nam) mang tính chất ủy nhiệm, cuộc chiến tranh mang tính ý thức hệ”; “Có nhất thiết phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của nước nhà thì quý biết nhường nào?”;.

Đối với những kết quả trong sự nghiệp đổi mới của đất nước chúng phủ nhận bằng cách tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc, trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Các thế lực thù địch tập trung công kích, xuyên tạc thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất, theo chúng, là “không có thật”. Chúng còn nói xằng rằng, những thành tựu đổi mới nếu có chỉ là “chui vào túi của bọn độc tài”, bọn tham nhũng, tham quan; còn đất nước vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, đời sống của nhân dân còn rất khó khăn, người dân nghèo thì không được thụ hưởng. Sau 45 năm thống nhất đất nước, 35 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là “nước tụt hậu, nhân dân còn đói nghèo, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, xã hội vô kỷ cương...”.

Các thế lực thù địch cho rằng, Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Thực chất là chúng phủ nhận và đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con người bị vi phạm. Chúng luôn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để đả kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Sự thật là, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, cần phải nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và quyền làm chủ của nhân dân, tức là quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đây là vấn đề lớn về lý luận, về thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị trong xã hội văn minh, hiện đại mà con người và nhân dân là trung tâm.

Hai là, cơ sở lý luận và thực tiễn phê phán quan điểm sai trái, thù địch nói trên

Luận cứ không thể phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Như chúng ta đã biết, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là sai lầm về lịch sử, bởi đó là kết quả của một quá trình đấu tranh mà trước đó toàn thể dân tộc Việt nam đã có sự chuẩn bị hết sức chu đáo để giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách đúng đắn.

Điều này, được minh chứng rõ nét trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư duy lý luận sắc sảo của mình Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Vì vậy, Người đã trực tiếp tổ chức thành lập Đảng và tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào các phong trào cách mạng ở Việt Nam, tạo ra các phong trào cách mạng nối tiếp nhau, như: phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Khi tình thế và thời cơ cách mạng chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta không thể có cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực như hiện nay; nhân dân ta không có được địa vị người làm chủ như bây giờ. Bởi, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn và lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới; trình độ dân trí thấp, với 95% dân số không biết viết, không biết đọc. Nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào, bằng khoảng 10% dân số của Việt Nam lúc bấy giờ.

Vì vậy, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia sản xuất. Khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất tấc vàng”... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Kết quả là, đến đầu năm 1946, sản lượng hoa màu tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Giặc đói đã được đẩy lùi, tài chính bước đầu được gây dựng lại. Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín của Đảng và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong quần chúng. Nhân dân càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Nhà nước đã tích cực vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chế độ thực dân, phong kiến; phát triển phong trào bình dân học vụ. Vì vậy, chỉ trong vòng một năm, từ ngày 08/9/1945 đến ngày 08/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với hơn 97.664 giáo viên và đã xoá mù chữ cho 2.520.673 người. Tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh cũng được quan tâm. Thế nên, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “giặc đói”, “giặc dốt” không thể bị đẩy lùi chỉ trong thời gian rất ngắn như vậy.

Hôm nay, nhìn lại gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu trên đã bác bỏ sự vu cáo, bịa đặt hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ tình phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được.

Tìm hiểu và nghiên cứu sâu về thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đánh đổ đế quốc Pháp, phát xít Nhật và bọn phong kiến, tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc. Đó không phải là sự chuyển giao từ chế độ “vua trị sang “đảng trị” mà là sự thay đổi về bản chất, từ chế độ “quân chủ phong kiến” sang chế độ “dân chủ cộng hòa", từ chế độ cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến sang chế độ nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước dân chủ nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân”1. Đồng thời, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc): “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thông nhất độc lập”2.

Và hơn thế nữa, thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam. Bởi lẽ, sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Tuy “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi, làm nên mốc son Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương. Song, với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm sau đó. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ, hy sinh của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Như vậy, nguyên nhân vừa sâu xa, vừa trực tiếp dẫn đến hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta, chính là bản chất hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai chứ không phải một lý do nào khác, càng không phải do Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Luận cứ không thể phủ nhận bản chất, tính chính nghĩa và thành quả của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ.

 

VÀI NÉT ĐÁNG TỰ HÀO VỀ TINH THẦN ĐOÀN KẾT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 Từ xưa đến nay, tinh thần đại đoàn kết, cố kết cộng đồng của người Việt Nam luôn là một truyền thống quý báu; một nét đặc trưng riêng có.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Không chỉ trong thời chiến mà khi đất nước hòa bình, truyền thống đoàn kết cũng được toàn Đảng, toàn dân gìn giữ, phát huy. Điều đó thể hiện trong những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, trong sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đến nay, Việt Nam đã ra khỏi danh sách những nước kém phát triển, từng bước vươn lên, dần khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Tinh thần đoàn kết không chỉ thể hiện trong những chính sách nhân văn, kịp thời của cấp ủy, chính quyền mà còn thể hiện rõ nét trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi cộng đồng dân cư. Đó là câu chuyện người dân góp tiền để cậu học trò nghèo đi học đại học; là những tổ nhóm phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh phụ giúp những gia đình người khuyết tật, già cả, neo đơn gặt lúa chạy bão; là tình quân dân ấm nồng khi các anh bộ đội về làng, xắn tay áo cùng bà con dọn dẹp, khắc phục hậu quả sau cơn lũ...

Lời dạy của Bác Hồ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” vẫn luôn được toàn Đảng, toàn dân ta khắc ghi và phát huy giá trị trong đời sống, công cuộc xây dựng, phát triển quê hương. Đoàn kết chính là cội nguồn sức mạnh để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm đưa đất nước phát triển.

 

NHỮNG MINH CHỨNG SỐNG ĐỘNG PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ LĨNH VỰC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA

 Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, chúng ta đã đạt những kết quả vô cùng quan trọng. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quê hương, đất nước cũng như quảng bá hình ảnh và những giá trị tốt đẹp của đất nước, văn hóa, con người Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Nối tiếp những kết quả tích cực đã đạt được và khắc phục hạn chế, khó khăn, vướng mắc phát sinh, ngày 12/12/2022, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới”. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải gắn với định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như quan hệ đối ngoại của đất nước. Và trên hết, bảo đảm lợi ích hợp pháp của người lao động luôn là ưu tiên hàng đầu.

Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, bình quân thu nhập hàng tháng (kể cả làm thêm ngoài giờ) của lao động người Việt Nam làm việc tại nước ngoài là 400 - 600 USD (9,5 - 14,3 triệu đồng) ở thị trường Trung Đông; 700 - 800 USD (16,6 - 19 triệu đồng) ở thị trường Đài Loan… Song với lao động có tay nghề, mức thu nhập có thể đạt đến 27,5 - 34 triệu đồng/tháng (làm việc tại Đức) hoặc 52,8 - 66 triệu đồng/tháng (làm việc tại Australia). Bên cạnh đó, những hiệu ứng tích cực từ hoạt động xuất khẩu lao động còn tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Thông tin từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), tính đến cuối năm 2023, lực lượng lao động Việt Nam đã có mặt tại hơn 40 quốc gia trong hơn 30 lĩnh vực, ngành nghề; bình quân mỗi năm Việt Nam đã đưa hơn 100.000 người đi làm việc ngoài nước. Lượng kiều hối do người lao động ở nước ngoài gửi về trong nước hàng năm vào khoảng hơn 3 tỷ USD.

Những dẫn chứng sinh động nêu trên khẳng định xuất khẩu lao động không phải là “tha phương cầu thực” như luận điệu mà các đối tượng thường rêu rao. Bên cạnh thu nhập cao, người lao động còn có cơ hội học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sau khi hết thời gian lao động ở nước ngoài, những người lao động có tay nghề trở về nước sẽ trở thành nguồn cung quan trọng đối với doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Họ không chỉ có tay nghề mà còn có kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật do được lao động thời gian dài trong môi trường chuyên nghiệp tại nước ngoài. Đây là nguồn lực để doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, xây dựng môi trường lao động kỷ luật, hiệu quả.

Những thành quả, lợi ích thiết thực nêu trên đã khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, là minh chứng chân thực bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về chủ trương đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc của số đối tượng chống đối chính trị. Chủ trương đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài sẽ luôn là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, các đối tượng sẽ tiếp tục tìm cách tuyên truyền, xuyên tạc, gây chiến tranh tâm lý hòng phá hoại chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo tinh thần chỉ đạo trong Chỉ thị số 20-CT/TW của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới” sẽ đóng vai trò quan trọng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực xuất khẩu lao động.

 

Cần có tư duy mới, cách làm mới cho tương lai thế giới

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm mong muốn Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai sẽ mang đến tư duy mới và cách làm mới cho tương lai thế giới và đề nghị tập trung thảo luận về các giải pháp mang tính chuyển đổi.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gửi thông điệp ghi hình tới Sự kiện Lời kêu gọi toàn cầu về Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai.

Hưởng ứng sáng kiến của Tổng thống Cộng hòa Namibia Nangolo Mbumba và Thủ tướng Cộng hòa liên bang Đức Olaf Scholz, ngày 12/9/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã gửi thông điệp ghi hình tới Sự kiện Lời kêu gọi toàn cầu về Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, được tổ chức trực tuyến ngay trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai của Liên hợp quốc (22-23/9/2024).

Sự kiện có sự tham dự của Chủ tịch Đại hội đồng Philemon Yang, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres và gần 50 Người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các quốc gia thành viên Liên hợp quốc.

Phát biểu tại sự kiện, Tổng thư ký Liên hợp quốc nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử của Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai và bày tỏ mong muốn các văn kiện dự kiến thông qua tại Hội nghị sẽ là nền tảng quan trọng để định hướng hợp tác của hệ thống Liên hợp quốc trong thời gian tới. Thông điệp của Lãnh đạo các nước khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ đối với Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai và kỳ vọng Hội nghị sẽ thống nhất về các giải pháp và hành động cụ thể nhằm củng cố hòa bình, hợp tác và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.

Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres phát biểu tại sự kiện

Trong thông điệp, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai là cơ hội để Liên hợp quốc và chủ nghĩa đa phương khẳng định những giá trị không thể thay thế trước những thách thức to lớn của thời đại. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước mong muốn Hội nghị sẽ mang đến tư duy mới và cách làm mới cho tương lai thế giới và đề nghị tập trung thảo luận về các giải pháp mang tính chuyển đổi, bao gồm chuyển đổi về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và chuyển đổi quản trị toàn cầu.

Về khoa học, công nghệ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của Liên hợp quốc trong thiết lập khung pháp lý, hỗ trợ các quốc gia phát triển công nghệ mới và tiên phong như công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và tự động hóa một cách an toàn, công bằng, hữu ích và bao trùm. Về chuyển đổi xanh, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề xuất nghiên cứu thiết lập một diễn đàn toàn cầu để ASEAN và các tổ chức khu vực khác cùng chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy công nghệ xanh. Về quản trị toàn cầu, Tổng Bí thư Chủ tịch nước mong muốn thúc đẩy tiến trình cải tổ Liên hợp quốc và các thể chế tài chính đa phương để ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức toàn cầu, huy động tốt hơn nguồn lực để hỗ trợ các nước đang phát triển.

Nhân dịp này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định Việt Nam cam kết đóng góp tích cực vào Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai và các nỗ lực chung nhằm củng cố hòa bình, hợp tác và đoàn kết quốc tế, góp phần thực hiện hiệu quả các Mục tiêu Phát triển Bền vững, để người dân được hưởng thụ đầy đủ những thành quả của công cuộc phát triển và chuẩn bị sẵn sàng cho thế hệ tương lai.

Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai là sự kiện đa phương quan trọng hàng đầu của Liên hợp quốc trong năm 2024. Với chủ đề “Giải pháp đa phương vì một tương lai tốt đẹp hơn”, Hội nghị được tổ chức với mục tiêu thúc đẩy thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững và các mục tiêu khí hậu, thống nhất các giải pháp cho các thách thức toàn cầu, củng cố quản trị toàn cầu. Hội nghị dự kiến thông qua các văn kiện định hướng hoạt động của hệ thống Liên hợp quốc.

Sự kiện Lời kêu gọi toàn cầu về Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai là sáng kiến của Tổng thống Cộng hòa Namibia và Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức, hai nước đồng chủ trì tiến trình thương lượng các văn kiện của Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai. Sự kiện này nhằm tạo đà cho Hội nghị Thượng đỉnh tương lai, diễn ra vào ngày 22-23/9/2024 tại Liên hợp quốc

Thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo các bộ, ban, ngành và địa phương liên quan thời gian tới tiếp tục bám sát đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước chủ động, tích cực, triển khai có hiệu quả các mặt công tác, đạt kết quả mới quan trọng, thực chất hơn nữa trên mọi phương diện.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp về công tác Biển Đông - hải đảo.

Sáng 16/9, tại Trụ sở Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp với Lãnh đạo các bộ, ban, ngành liên quan, đi sâu đánh giá tình hình triển khai Nghị quyết 36 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các nội dung liên quan trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc, toàn diện tình hình quốc tế, khu vực và Biển Đông cũng như nhu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo các bộ, ban, ngành và địa phương liên quan thời gian tới cần tiếp tục bám sát đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trong đó có Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết 36 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 44 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chủ động, tích cực, triển khai có hiệu quả các mặt công tác, đạt kết quả mới quan trọng, thực chất hơn nữa trên mọi phương diện.

Theo đó, các bộ, ban, ngành, địa phương liên quan cần huy động nguồn lực, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao hơn nữa năng lực thực thi và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển; kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, tăng cường hợp tác quốc tế về biển phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; thực hiện nghiêm Chỉ thị 32 của Ban Bí thư và Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ về ngăn chặn, tiến tới chấm dứt tình hình tàu cá Việt Nam vi phạm các quy định về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) ở vùng biển nước ngoài, sớm gỡ bỏ thẻ vàng của Uỷ ban châu Âu (EC); làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao hơn nữa nhận thức, đồng thuận trong toàn xã hội và cả hệ thống chính trị về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác Biển Đông - Hải đảo, tích cực góp phần duy trì hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển trên biển./.


Bước phát triển mới trong hành trình lan tỏa tiếng Việt tại Nga

 Ngày 14/9, Ngày hội Tiếng Việt được tổ chức tại thành phố Ulyanovsk, thành phố quê hương của lãnh tụ Vladimir Ilyich Lenin - thành phố kết nghĩa với tỉnh Nghệ An của Việt Nam.

Tiết mục múa "Chào Việt Nam" do con em cộng đồng tại Ulyanovsk biểu diễn. 

Ngày hội tiếng Việt lần thứ 4 này do Đại sứ quán Việt Nam tại LB Nga phối hợp với Quỹ thúc đẩy hợp tác Nga - Việt “Truyền thống và Hữu nghị”, Hội người Việt Nam “Đoàn kết” tại Ulyanovsk, Câu lạc bộ “Đọc sách cùng con” tổ chức.

Sự kiện đánh dấu một bước phát triển mới trong hành trình lan tỏa tiếng Việt, văn hóa Việt trong cộng đồng người Việt tại LB Nga nói chung, cũng như thúc đẩy giao thoa văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nước Việt - Nga và càng thêm có ý nghĩa khi diễn ra tại trường trung học số 76 mang tên Hồ Chí Minh của Ulyanovsk. Chính quyền sở tại cũng rất quan tâm đến sự kiện này. Giám đốc Sở ngoại vụ tỉnh Ulyanovsk Evgeny Miller cùng đại diện lãnh đạo chính quyền và cơ quan quản lý giáo dục của tỉnh và thành phố đã tham dự và phát biểu chúc mừng.

 

Bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa, phụ trách bộ phận giáo dục Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga trao thư chúc mừng của Đại sứ Đặng Minh Khôi cho đại diện Quỹ thúc đẩy hợp tác Nga-Việt "Truyền thống và hữu nghị" và Hội người Việt Nam "Đoàn kết" tại Ulyanovsk. (Ảnh: Xuân Hưng, Báo Nhân Dân) 

Trước các vị quan khách sở tại, các nhà tổ chức và 50 em học sinh Việt Nam và Nga, các em nhỏ nhất chỉ mới 6 - 7 tuổi, cùng các phụ huynh quan tâm đến tiếng Việt, bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa, phụ trách bộ phận giáo dục Đại sứ quán Việt Nam đã đọc thư của Đại sứ Việt Nam tại LB Nga Đặng Minh Khôi chào mừng sự kiện. Trong thư Đại sứ Đặng Minh Khôi đã dẫn lời Bác Hồ kính yêu nhấn mạnh: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.

Nhằm tôn vinh và phát huy giá trị của tiếng Việt, tạo cơ hội cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài gìn giữ, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã chọn ngày 8/9 hằng năm là Ngày tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, với nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, giao lưu, đặc biệt là trải nghiệm thú vị cho các bạn trẻ nước ngoài và Việt Nam.

Học sinh người Nga giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các vị khách tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ở trường trung học số 76, Ulyanovsk. 

Đại sứ Đặng Minh Khôi tin tưởng rằng chương trình sẽ tạo ra những cảm xúc tích cực, khơi gợi sự quan tâm và tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam trong các em sinh ra và lớn lên trong môi trường xa quê hương, không có điều kiện thực hành ngôn ngữ mẹ đẻ. Điều này sẽ không chỉ giúp các em tự hào về nguồn cội dân tộc mà còn tạo nền tảng vững chắc cho những mối quan hệ thân thiện, bền vững giữa Việt Nam và LB Nga.

Chương trình trải nghiệm tiếng Việt, được Tiến sĩ giáo dục Nguyễn Thuỵ Anh, chủ nhiệm Câu lạc bộ “Đọc sách cùng con” thiết kế, như một chuyến du lịch ra khơi xa. Dưới sự “cầm lái” của thuyền trưởng Thuỵ Anh, 4 “thuỷ thủ đoàn nhí” gồm cả các em nhỏ người Nga và Việt Nam đã cùng thi đua vượt qua “con sóng” đánh vần và nhận mặt chữ cái tiếng Việt qua hình ảnh trực quan, từng bước cảm nhận sự thu hút của “đại dương tiếng Việt”, được cổ vũ khích lệ mỗi khi vượt qua thử thách, tự tin “cầm bánh lái” khám phá. Những nét đặc sắc, độc đáo của tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, từ ngôn ngữ, ẩm thực, trang phục về tập tục đã được giới thiệu qua hình thức trò chơi và được tất cả các em đón nhận với tiếng cười và sự ngời sáng trong ánh mắt.

Giám đốc Quỹ “Truyền thống và Hữu nghị” Nguyễn Quốc Hùng thay mặt các bên tổ chức cho biết đây là lần đầu tiên Ngày hội tiếng Việt diễn ra tại một trường phổ thông của Nga vì muốn hướng đến chính thế hệ mai sau, muốn gieo những hạt giống ngôn ngữ ngay từ lứa tuổi rất nhỏ, mong mỏi các em dù trưởng thành ở xa Tổ quốc vẫn cảm nhận cội nguồn, tự hào về cội nguồn và luôn mang trong tim tâm hồn Việt giàu lòng nhân ái, yêu quê hương, đất nước.

Bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa (giữa), phụ trách bộ phận giáo dục Đại sứ quán Việt Nam và Tiến sĩ Nguyễn Thuỵ Anh, Chủ nhiệm câu lạc bộ “Đọc sách cùng con” trao tặng cuốn giáo trình “Chào Tiếng Việt” cho Hiệu trưởng trường 76 Liudmila Grechko.  

Cộng đồng người Việt “Đoàn Kết” từ lâu đã được công nhận chính thức tại Ulyanovsk, với ý thức hội nhập và xây dựng quê hương thứ hai cộng đồng luôn nhận được sự ủng hộ và ghi nhận của chính quyền sở tại. Giám đốc Sở Ngoại vụ E.Miller cho biết, cộng đồng “Đoàn Kết”, đứng đầu là Chủ tịch Trịnh Văn Quế, đã được đăng ký chính thức là một pháp nhân tại Ulyanovsk và rất có uy tín đối với chính quyền tỉnh vì những đóng góp và nỗ lực của mình cho việc phát triển hợp tác giữa Ulyanovsk với các đối tác Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hoá và giáo dục. Ông Miller cũng rất tin tưởng vào tiềm năng hợp tác giữa tỉnh Ulyanovsk với tỉnh Nghệ An, hai tỉnh quê hương của hai vị lãnh tụ vô sản kiệt xuất V.I.Lenin và Hồ Chí Minh, đồng thời khẳng định sẵn sàng tạo điều kiện để thiết lập các mối quan hệ hợp tác, cũng như thực hiện các dự án song phương. 

Địa điểm tổ chức Ngày hội Tiếng Việt cũng rất có ý nghĩa biểu tượng - trường trung học số 76 mang tên Hồ Chí Minh, nơi đặt bảo tàng mang tên Người. Nhiều năm qua cùng với tượng đài Hồ Chí Minh nằm trên đại lộ mang tên Người cũng tại Ulyanovsk, bảo tàng đã trở thành “địa chỉ Đỏ” đón tiếp các đoàn đại biểu từ Việt Nam. Các “hướng dẫn viên nhí” là học sinh của trường có thể giới thiệu rất đầy đủ và chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tiếng Nga và tiếng Anh cho thấy sự quan tâm và trân trọng từ phía nhà trường với lãnh tụ Việt Nam nói chung và văn hoá Việt Nam nói riêng.

Hiệu trưởng trường 76, bà Lyudmila Grechko cho biết nhà trường rất vinh dự được chọn để tổ chức Ngày hội Tiếng Việt. Từ phía Việt Nam sự kiện là sự quảng bá văn hoá, ngôn ngữ, còn đối với phía Nga, sự kiện rất đáng khâm phục và học tập ở ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, trong đó có thông qua tình cảm kính trọng với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, cũng như sự quan tâm của Hội người Việt và Đại sứ quán đến thế hệ trẻ. Bà cũng hy vọng có thể tổ chức dạy tiếng Việt tại nhà trường như một môn học chính thức.

Sự hứng khởi ban đầu của các em với tiếng Việt và văn hoá Việt từ Ngày hội còn rất cần phải được nuôi dưỡng hàng ngày để có thể thấm sâu và lan toả, như con sóng gối đầu nhau để chụm vào bờ, trong đó vai trò của gia đình và cơ quan đại diện là rất lớn.

Trường trung học số 76 mang tên Hồ Chí Minh tại Ulyanovsk được chọn làm nơi tổ chức Ngày hội tiếng Việt lần thứ 4.

Ngay sau sự kiện, từ thủ đô Moskva, Đại sứ Đặng Minh Khôi đã gọi điện chúc mừng thành công và cảm ơn sự ủng hộ của chính quyền sở tại, ghi nhận các nỗ lực đóng góp của các nhà tổ chức và bà con cộng đồng. Đại sứ khẳng định tới đây sẽ có những hoạt động thiết thực hơn nữa để vun đắp thêm sự gắn kết của bà con, tưởng thưởng các cố gắng giữ gìn truyền thống, hội nhập và vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị, bền vững giữa Việt Nam và LB Nga./.


Hỗ trợ khẩn cấp 150 tỷ đồng cho tỉnh Lào Cai khắc phục thiệt hại do cơn bão số 3

 Ngày 15/9/2024, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã ký Quyết định 984/QĐ-TTg hỗ trợ khẩn cấp khắc phục thiệt hại do cơn bão số 3 cho tỉnh Lào Cai.

Lực lượng quân đội triển khai tìm kiếm các nạn nhân mất tích do sạt lở đất tại Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai ngày 12/9/2024 (Ảnh: TTXVN) 

Cụ thể, hỗ trợ 150 tỷ đồng cho tỉnh Lào Cai từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương năm 2024 để khắc phục hậu quả do ảnh hưởng của cơn bão số 3 và ổn định đời sống người dân.

Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về các nội dung, số liệu báo cáo và đề xuất.

Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai có trách nhiệm phân bổ cụ thể và sử dụng số kinh phí được bổ sung nêu trên bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đúng mục đích sử dụng, tiết kiệm, hiệu quả, không để thất thoát, lãng phí, tiêu cực; sử dụng nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ cùng với nguồn ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để kịp thời khắc phục thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra./.

Cảnh giác với âm mưu lợi dụng thiên tai để xuyên tạc, chống phá

 

Trong khi Đảng, Nhà nước và các địa phương, lực lượng chức năng đang gồng mình ứng phó với trận bão số 3 và lũ lụt lịch sử, thì trên mạng xã hội lại có những thông tin sai sự thật, nhất là thông tin sai về việc vỡ đập, vỡ đê, ngập lụt, sạt lở... dẫn đến người dân hoang mang.

Nhiệt tình nhưng cần cẩn trọng

 

Đang xem chương trình thời sự trên ti vi thì bà Hòa quay sang nói với chồng:

- Ông Thanh này, bọn trẻ bây giờ giỏi thật đấy; nhiều cháu tích cực tìm tòi, ứng dụng hiệu quả công nghệ vào tuyên truyền lịch sử. Tôi xem rất thích. Nể chúng nó thật đấy!

Bệnh sính thành tích và “nghệ thuật” che giấu khuyết điểm

 


Thành tích là kết quả tốt đẹp do sự cố gắng, nỗ lực mà đạt được. Thành tích đi liền với biểu dương, khen thưởng sẽ là động lực cho sự phát triển. Đáng tiếc hiện nay, nhiều “thành tích” ảo vì bị một bộ phận cán bộ, đảng viên nhào nặn mà thành.

Khắc phục tình trạng cán bộ né việc

 


Thời gian qua, tình trạng cán bộ né việc, né trách nhiệm diễn ra khá phổ biến ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế-xã hội đất nước, gây bức xúc trong xã hội.

Mặc dù lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo quyết liệt để khắc phục, tuy nhiên tình trạng trên vẫn chưa chấm dứt. Do đó, cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để làm thay đổi nhận thức, thái độ của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đồng thời kiên quyết thay thế những cán bộ thiếu trách nhiệm, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Kiên cường, bền bỉ trong “cuộc chiến” giữ vững vị thế, uy tín, thanh danh của Đảng Cộng sản Việt Nam

 


Để góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, vấn đề cần quan tâm hiện nay là phải nhận thức đúng đắn, thực hiện đồng bộ việc nâng cao hiệu quả, tăng cường tính chiến đấu và bảo đảm tính thuyết phục trong “cuộc chiến” giữ gìn, bảo vệ vị thế, uy tín, thanh danh của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất chế độ chính trị-xã hội ưu việt mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHIA SẺ CỦA CA SĨ HÀ ANH TUẤN SAU KHI NHẬN ĐƯỢC CƠN MƯA LỜI KHEN CHO NHỮNG HOẠT ĐỘNG THIỆN NGUYỆN!

     “Những người lính, công an, dân quân, thanh niên...lao vào lũ dữ, cứu trợ, cứu mạng, tận hiến đưa cả người sống và hương linh không may mắn về với gia đình chòm xóm. Đó là những anh hùng thật sự và đúng nghĩa của những ngày cả đất nước oằn mình qua bão dữ!

Nhìn những hình ảnh chia nhau vội nồi mì tôm, chân ngập nước mà mắt sáng, tâm vững chí bền, ta thấy mình nhỏ bé và biết ơn dường nào.

Tất cả chúng ta chỉ là hậu phương. Những đóng góp chỉ là hạt sỏi mong dính vào dính vào để họ dựa lưng mà vững bước.

Sinh ra từ đâu thì mong có cơ hội mà trả ơn từ đó. Để thanh thản mà sống hết chặng đường dưới ánh mặt trời.
---
Đất nước tôi, sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa...
...sáng ngời muôn thuở!
---”./.
Môi trường ST.